Skip Ribbon Commands
Skip to main content
Ngày 22/08/2009-12:33:00 PM
Báo cáo một số vấn đề nổi lên trong ngành nông, lâm, ngư nghiệp tháng 8 và 8 tháng năm 2009
1. Tình hình chung:
Từ đầu năm tới nay khu vực Miền Trung phải gánh chịu ảnh hưởng của đợt nắng nóng, khô hạn kéo dài, Tây Nguyên bị hạn, thiếu nước. Bên cạnh đó, giá cả nhiều nông sản giảm mạnh từ cuối năm 2008, sản xuất không có lãi hoặc lãi ít, thị trường tiêu thụ sản phẩm gặp khó khăn,...
Khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới tiếp tục tác động mạnh đến ngành nông nghiệp đang là ngành sản xuất hướng mạnh ra xuất khẩu. Giá nhiều mặt hàng nông sản trên thị trường thế giới đã giảm mạnh (giá các mặt hàng nông sản chủ lực giảm từ 20-50%), kim ngạch xuất khẩu lâm sản, thủy sản gặp khó khăn, đạt thấp hơn cùng kỳ năm trước; môi trường cạnh tranh trên thế giới và trong nước gay gắt hơn.
2. Sản xuất một số cây trồng chính:
Trong tháng 8/2009, các địa phương miền Bắc cơ bản hoàn thành kế hoạch gieo cấy lúa mùa, chuyển trọng tâm sang chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh, bảo vệ lúa và các cây rau, màu vụ hè thu/mùa. Các địa phương miền Nam tập trung thu hoạch nhanh gọn lúa hè thu, tiếp tục gieo cấy lúa thu đông/mùa và gieo trồng rau, màu, cây công nghiệp ngắn ngày.
Lúa mùa : Tính đến ngày 15/8/2009, tổng diện tích gieo cấy lúa mùa cả nước đạt 1.464,2 ngàn ha, bằng 100,4% so với cùng kỳ năm trước. Các tỉnh miền Bắc đã cơ bản hoàn thành diện tích gieo cấy đạt 1.170,6 ngàn ha, tương đương cùng kỳ năm trước, trong khi các tỉnh phía Nam, ngoài việc tập trung thời gian thu hoạch lúa hè thu đã triển khai xuống giống lúa mùa đạt gần 300 ngàn ha.
Hiện nay, tại các tỉnh miền Bắc, trừ một số địa bàn vùng núi còn rải rác gieo thêm lúa nương, cấy lúa ở các chân ruộng cao, các địa phương còn lại đang tập trung làm cỏ, bón phân, tới nước cho lúa trong điều kiện thời tiết khá thuận lợi, trà lúa mùa cực sớm và sớm đang vào giai đoạn làm đòng già, trỗ bông và ngậm sữa; trà lúa mùa chính vụ và muộn đang ở thời kỳ đẻ rộ và phân hóa đòng.
Lúa hè thu : Tại địa bàn Bắc Trung bộ, lúa hè thu đã bắt đầu chín, chuẩn bị cho thu hoạch, trong điều kiện thời tiết tương đối thuận lợi.
Tại các tỉnh Nam Trung bộ lúa khá tốt nhờ mưa đều, trà lúa sớm đang cho thu hoạch. Tuy nhiên, sâu bệnh gây hại đang có chiều hướng tăng nhanh tại một số địa phương trong vùng, đặc biệt là rầy nây và rầy lưng trắng cần được phòng trừ kịp thời tại các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi.
Vùng Đồng bằng Nam bộ, lúa hè thu đang trong thời kỳ thu hoạch rộ. Tính đến trung tuần tháng 8, các địa phương đã thu hoạch đạt hơn 1,2 triệu ha, chiếm hơn 60 % diện tích xuống giống. Riêng vùng ĐBSCL thu hoạch đạt 63,6 % diện tích xuống giống, trong đó một số địa phương có tiến độ thu hoạch khá nhanh như Vĩnh Long (100 %), Đồng Tháp (98,9 %), An Giang (96,3 %) và Cần Thơ (69,3 %). Theo đánh giá kết quả bước đầu của một số địa phương trong vùng cho thấy, năng suất lúa hè thu không đồng đều. Các tỉnh Vĩnh Long, Sóc Trăng, Trà Vinh, Kiên Giang, Bạc Liêu,... có triển vọng cho năng suất cao hơn vụ trước, trong khi thành phố Cần Thơ, Bến Tre, Tiền Giang,... năng suất lúa có thể giảm khá nhiều do hạn và gặp mưa, bão trong thời kỳ lúa trỗ.
Lúa thu đông: Toàn vùng xuống giống đạt hơn 190 ngàn ha, trong đó các địa phương thuộc vùng Đông Nam bộ đạt 18,3 ngàn ha, vùng ĐBSCL đạt173,5 ngàn ha. Do thời vụ khá eo hẹp và các địa phương thực hiện nghiêm túc chủ trương giãn vụ, né rầy của ngành, nên diện tích lúa thu đông năm nay đạt thấp hơn so với các năm trước.
Ngoài lúa, trong tháng các địa phương tiếp tục gieo trồng và thu hoạch rau màu, cây công nghiệp ngắn ngày vụ hè thu và vụ mùa. Tính đến ngày 15/8/2009, tổng diện tích gieo trồng các cây màu lương thực trong cả nước đạt gần 1,4 triệu ha ha, gỉam 4,5 % so với cùng kỳ năm trước. Đáng chú ý là diện tích các cây chủ lực như ngô, khoai lang, sắn đều đạt diện tích thấp hơn so với cùng kỳ năm trước.
Tổng diện tích cây công nghiệp ngắn ngày đạt 622,5 ngàn ha, trong đó diện tích lạc đạt 235,6 ngàn ha, tăng 4,1 % so với cùng kỳ. Các cây khác như đậu tương, thuốc lá đều tăng so với cùng kỳ năm trước. Rau, đậu các loại đạt xấp xỉ cùng kỳ năm trước.
Nếu thuận lợi về thời tiết, sản lượng thóc năm 2009 ước đạt 39,2 triệu tấn, tăng khoảng 1,1% so với năm 2008, đảm bảo được an ninh lương thực trong nước (BQ đầu người đạt 505 kg) và thực hiện được chỉ tiêu xuất khẩu gạo 5,5 - 6,0 triệu tấn. Ngô tiếp tục phát triển tốt; Diện tích ngô ước đạt 1.170 nghìn ha, tăng khoảng 3,9% so với 2008; sản lượng ước đạt 5 triệu tấn, tăng 11% so với năm 2008, vượt 0,5 triệu tấn so với kế hoạch 2009. Tính chung, sản lượng lương thực có hạt cả năm đạt 44,2 triệu tấn (Quốc hội thông qua là 43 triệu tấn), tăng 0,7 triệu tấn so với năm 2008.
Cây công nghiệp ngắn ngày vẫn tiếp tục phát triển. Dự kiến lạc diện tích đạt 265 nghìn ha và sản lượng 557 nghìn tấn, đậu tương 210 nghìn ha và 315 nghìn tấn. Riêng diện tích mía tăng lên 300 nghìn ha với sản lượng 18,3 triệu tấn mía cây so với 271 nghìn ha và 16,1 triệu tấn của năm 2008.
Diện tích một số cây ăn quả vẫn tăng 820.000 ha, chủ yếu là cây có múi, xoài do nhu cầu trong nước tăng. Một số cây khác do quy hoạch chuyển đổi cơ cấu sản xuất, khó khăn về thị trường nên diện tích giảm. Nhãn giảm 10 nghìn ha, dứa giảm 4.600 ha, vải, trôm trôm giảm 2.400 ha so với năm trước.
Cà phê:
Thời tiết năm nay thuận lợi cho phát triển cà phê. Giá cà phê nhân khoảng 25.000 đồng/kg, giảm 25% so với cùng kỳ năm trước nhưng vẫn là mức khá cao, người trồng cà phê vẫn có lãi (lãi khoảng 25%). Diện tích cà phê năm 2009 ước đạt 527 nghìn ha, chủ yếu là các tỉnh Tây Nguyên và Đông Nam Bộ, năng suất gần 2,1 tấn/ha, sản lượng ước đạt 1.109 nghìn tấn, tăng 53,2 nghìn tấn so với 2008, vượt chỉ tiêu kế hoạch Quốc hội thông qua là 980 nghìn tấn. Các tỉnh miền núi phía Bắc trồng mới 460 ha cà phê chè.
Cao su:
Nhu cầu tiêu thụ cao su giảm nên giá giảm. Tính bình quân 8 tháng, giá xuất khẩu cao su khoảng 22-23 triệu đồng/tấn mủ khô, giá thành cao su ở các công ty khoảng 20-22 triệu đồng (lương công nhân giảm theo, tiết kiệm chi phí sản xuất nên giá thành giảm), giá thành cao su tiểu điền vào khoảng 15-17 triệu đồng/tấn mủ khô, người sản xuất vẫn có lãi tuy có giảm nhiều so với năm 2008. Thời tiết năm nay thuận lợi cho phát triển cây cao su. Diện tích cao su năm 2009 ước đạt 648 nghìn ha, năng suất 17 tạ/ha, sản lượng 710 nghìn tấn vượt so với mục tiêu kế hoạch do Quốc hội thông qua là 646 nghìn tấn.
Dịch hại ở các tỉnh phía Nam
- Rầy nâu: Diện tích lúa nhiễm rầy nâu gần 220 ngàn ha, giảm 32 ngàn ha so với cùng kỳ năm trước. Mật độ rầy phổ biến từ 1.000 - 1.500 con/m2. Riêng các vùng Duyên hải miền Trung và Tây Nguyên diện tích nhiễm cao hơn cùng kỳ năm trước. Đáng chú ýtại các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Đắc Nông diện tích nhiễm rầy có thời điểm chiếm từ 30 - 50 % diện tích lúa.
- Bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá: Tổng diện tích lúa bị nhiễm bệnh giảm mạnh. Hiện chỉ có hơn 280ha bị nhiễm bệnh,so với cùng kỳ năm trước giảm hơn 14 ngàn ha. Tuy nhiên, vẫn có một số diện tích bị nhiễm nặng, với tỷ lệ bệnh từ 20 – 50 %, chiếm khoảng một nửa diện tích lúa bị nhiễm.
- Bệnh đạo ôn: Đạo ôn lá có 31.500 ha lúa bị nhiễm bệnh, tăng 3.217 ha so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ bệnh phổ biến 5 - 10 %, nơi cao có 346 ha với tỷ lệ nhiễm bệnh khảng 20 %. Đạo ôn cổ bông, tổng số có 12.067 ha bị nhiễm bệnh, tăng 1.528 ha so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ bệnh phổ biến 5 - 10 %, nơi cao 20 % với 293 ha.
- Sâu cuốn lá nhỏ : Diện tích nhiễm 33.133 ha, giảm 6.550 ha so với cùng kỳ năm trước, mật độ phổ biến từ 10 - 20 con/m2, nơi cao > 40 con/m2.
- Bệnh lem lép hạt : Tổng số có 29.856 ha lúa bị nhiễm bệnh lem lép hạt, tăng 18,3 ngàn ha so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ bệnh phổ biến từ 5 - 10 %, nơi cao có 1.100 ha với tỷ lệ nhiễm bệnh 20 %.
- Bệnh bạc lá : Tổng số có 16.143 ha nhiễm bệnh, tăng 9.100 ha so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ bệnh phổ biến 5 - 10 %, nơi cao có 695 ha với tỷ lệ nhiễm bệnh 20 %.
Ngoài ra, còn có bệnh đốm vằn, sâu đục thân, bọ trĩ,... và một số đối tượng khác như bọ xít, sâu cắn gié,... xuất hiện rải rác với mức độ nhiễm nhẹ.
3. Chăn nuôi:
Sản xuất chăn nuôi 8 tháng đầu năm 2009 phát triển tốt hơn so với cùng kỳ 2008. Giá cả thức ăn và giá bán sản phẩm tương đối ổn định đã tạo điều kiện thuận lợi cho chăn nuôi tiếp tục phát triển. Tuy nhiên, với giá bán sản phẩm ở mức thấp như hiện nay thì người chăn nuôi lợn và gia cầm lãi ít đã ảnh hưởng đến tốc độ mở rộng quy mô đàn.
Tình hình chăn nuôi gia súc lớn trong tháng 8/2009 phát triển ổn định. Giá thịt bò trên thị trường không có biến động so với tháng 7. Để đáp ứng nhu cầu thịt bò tại miền Tây và các thành phố, việc nhập bò thịt giống từ biên giới Căm-pu-chia về các tỉnh Kiên Giang và An Giang vẫn tiếp tục với số lượng lớn, gây khó khăn trong việc kiểm soát và kiểm dịch với bò nhập.
Giá sữa tươi thu mua cho nông dân đang ổn định trên 7.000 đồng/lít. Công ty sữa Quốc tế triển khai vùng nguyên liệu sữa bò tại Ba Vì, hỗ trợ nông dân nuôi bò sữa và bán sữa cho Công ty. Được sự đồng ý của UBND tỉnh và các ban ngành, Công ty THMILK (Nghệ An) đang triển khai xây dựng dự án phát triển chăn nuôi và chế biến sữa tại Nghĩa Đàn (Nghệ An) với quy mô 30.000 con. Trong khoảng từ 11/2009 - 3/2010, Công ty dự kiến sẽ nhập 2.400 bò HF hậu bị từ Niu Di-lân để triển khai dự án chăn nuôi bò sữa thâm canh với công nghệ và tư vấn của Ix-ra-en.
Tình hình chăn nuôi dê, cừu đang phục hồi. Giá dê, cừu lên cao thuận lợi cho người chăn nuôi ở các tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận.
Giá lợn hơi tại khu vực phía Nam của Công ty Chăn nuôi CP VN dao động từ 31.000 - 34.000 đồng/kg, giảm 2.000 đồng/kg so với tháng trước. Giá lợn hơi tại các trại ở khu vực miền Đông cũng giảm tương tự. Trong khi đó, giá lợn hơi ở phía Bắc dao động từ 26.000 - 27.000 đồng/kg, thậm chí lợn lai F1 chỉ còn 22.000 - 23.000 đồng/kg.
Tại khu vực Đồng Nai, giá gà thả vườn thương phẩm 1 ngày tuổi 6.000 đ/con; giá gà công nghiệp 3.000 đ/con. Giá gà thịt thả vườn ở mức 24.000 - 25.000 đ/kg. Vịt thịt giá 26.000 đ/kg; vịt giống bố mẹ 17.000 đ/con mái, 25.000 đ/con trống; vịt siêu thịt thương phẩm 1 ngày tuổi giá 10.000 - 11.000 đ/con. Giá gà ta giống 10.000 đ/con nhưng rất khan hiếm giống.
So với tháng 7/2008, tháng 8/2009 giá một số nguyên liệu TĂCN trong nước cũng như nhập khẩu đã giảm : ngô 4.250 đ/kg (giảm 7 %), bột cá sản xuất trong nước 60 % prô-tê-in 17.000 đ/kg (giảm 4,2 %), khô đỗ tương 9.400 đ/kg (giảm 0,5 %). Ngược lại, một số nguyên liệu khác có giá tăng : cám gạo 4.400 đ/kg (tăng 7,4 %), sắn khô 3.450 đ/kg (tăng 13,3 %), Methionin 98.000 đ/kg (tăng 3,7 %), Lyzin 32.000 đ/kg (tăng 1,6 %); Giá thức ăn chăn nuôi thành phẩm có giảm nhẹ : cám gà Broiler 7.000 đ/kg (giảm 0,8 %), cám lợn thịt giai đoạn từ 60 kg đến xuất chuồng 5.800 đ/kg (giảm 1,7 %).
Tình hình dịch bệnh: Tính đến ngày 20/8/2009, không có ổ dịch cúm gia cầm, LMLM mới phát sinh. Từ ngày 15/7/2009, dịch tai xanh ở lợn xảy ra rải rác ở một số hộ tại ấp 8 xã Thanh Sơn, Định Quán, Đồng Nai. Số lợn chết thống kê từ 30/7/2009 đến 17/8/2009 là 198 con. Chi cục Thú y tỉnh đang triển khai các biện pháp chống dịch theo quy định.
4. Lâm nghiệp:
Thời tiết trong tháng 8 có mưa nhiều thuận lợi cho việc trồng rừng đặc biệt là các tỉnh miền Bắc. Ước tính đến 22/8/2009, diện tích trồng rừng tập trung trên cả nước là 117,5 nghìn ha, đạt 51,7 % kế hoạch, tăng 9,4 % so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, diện tích trồng rừng phòng hộ, đặc dụng đạt 27,6 nghìn ha, tăng 17,7 % so với cùng kỳ năm trước, đạt 46,1 % kế hoạch. Rừng sản xuất trồng được 89,9 nghìn ha, tăng 7,1 % so với cùng kỳ năm trước, đạt 53,7 % kế hoạch. Chăm sóc rừng trồng đạt 174,6 nghìn ha, tăng 16,7 % kế hoạch và bằng 84,8 % so với cùng kỳ năm trước. Trồng cây nhân dân đạt 137 triệu cây, bằng 68,5% kế hoạch và bằng 98,8 % so với cùng kỳ năm trước. Khoanh nuôi tái sinh rừng và trồng dặm đạt 677 nghìn ha, vượt 33,8 % kế hoạch và vượt 4,6 % so với cùng kỳ năm trước. Khoán quản lý bảo vệ rừng đạt 2.125,2 nghìn ha, vượt 39,4 % kế hoạch và bằng 85,5 % so với cùng kỳ năm trước. Thực hiện khai thác gỗ đạt 2.352 nghìn m3, đạt 53,7 % kế hoạch, tăng 14,6 % so với cùng kỳ năm trước.
Các tỉnh miền Bắc: Đang khẩn trương trồng rừng để hoàn thành kế hoạch năm 2009. Đến ngày 22/8/2009, các tỉnh miền Bắc đã trồng được 105,7 nghìn ha, chiếm 88,8% diện tích trồng rừng cả nước. Trong đó, các tỉnh Đông Bắc có diện tích trồng rừng lớn nhất trên cả nước, với 80,5 nghìn ha, tiếp đến là Tây Bắc trồng được 15 nghìn ha. Các tỉnh có diện tích trồng rừng lớn là Tuyên Quang (13.537 ha), Quảng Ninh (13.067ha), Hà Giang (12.588 ha), Yên Bái (11.694 ha). Ngoài việc trồng rừng, các tỉnh tiếp tục thực hiện chăm sóc diện tích rừng đã trồng, khoanh nuôi xúc tiến tái sinh và một số tỉnh tiếp tục thực hiện công tác cắm mốc ranh giới 3 loại rừng theo kế hoạch. Tuy nhiên, việc triển khai cắm mốc rất khó khăn do địa hình phức tạp, chủ yếu là vùng sâu, vùng xa; kinh phí nhân công phê duyệt thấp so với thực tế....
Các tỉnh miền Nam:
Tiếp tục gieo ươm, chăm sóc cây giống và chuẩn bị cơ sở vật chất kỹ thuật (phát dọn thực bì, đào hố, bón lót phân) để phục vụ cho mùa trồng rừng tập trung và trồng cây phân tán năm 2009. Tính đến ngày 22/8/2009, các tỉnh miền Nam đã trồng được 9.350 ha rừng, trong đó rừng phòng hộ, đặc dụng là 3.054 ha, rừng sản xuất là 6.296 ha. Một số địa phương đã triển khai trồng rừng là Đắc Lắc (3.700 ha), Kon Tum (2.264 ha), Tây Ninh (843 ha), Lâm Đồng (563 ha). Bên cạnh việc chuẩn bị và tiến hành trồng rừng, các địa phương tiếp tục chăm sóc diện tích rừng trồng năm trước, triển khai giao khoán quản lý bảo vệ rừng và thực hiện khoanh nuôi xúc tiến tái sinh.
5. Thuỷ sản:
Khai thác thủy sản:
Hoạt động khai thác trên biển trong tháng của các tàu bị giảm. Nguyên nhân sản lượng thuỷ sản đánh bắt giảm so với tháng trước là do giá các loại thuỷ hải sản tiếp tục giảm mạnh, chi phí đầu vào tăng và tình hình khai thác bị ảnh hưởng của các đợt bão, áp thấp nhiệt đới ngoài khơi. Tình hình tàu của một số địa phương bị phía nước ngoài bắt giữ khi đang đánh bắt trên biển vẫn còn diễn ra làm ảnh hưởng đến việc bám biển sản xuất của ngư dân. Các nghề khai thác chính như lưới cản, lưới vây…đạt sản lượng trung bình. Tuy nhiên, do giá dầu tăng đã kéo theo chi phí chuyến biển tăng cao, trong khi giá thu mua không tăng nên ảnh hưởng đến thu nhập của ngư dân.
Tại miền Trung, ngư dân tiếp tục bám biển khai thác cá vụ Nam. Tại Đà Nẵng, sản lượng khai thác 8 tháng đạt 27.600 tấn, bằng 92,25 % so với cùng kỳ. Quảng Ngãi đạt sản lượng 8 tháng 70.653 tấn, tăng 1,8 % so với cùng kỳ. Quảng Nam đạt sản lượng khai thác hải sản 37.118 tấn.
Tại các tỉnh ĐBSCL, 8 tháng đầu năm Tiền Giang đạt sản lượng khai thác là 51.041 tấn, tăng 14,3 % so với cùng kỳ, Bạc Liêu khai thác 61.460 tấn, tăng 15,86 % so với cùng kỳ, Sóc Trăng khai thác 26.247 tấn (trong đó khai thác biển 17.692 tấn).
Tháng 8/2009, sản lượng khai thác ước đạt 158 ngàn tấn, đưa tổng sản lượng khai thác thuỷ sản 8 tháng năm 2009 lên 1.502 ngàn tấn, bằng 68,3 % so với kế hoạch, tăng 5,6 % so với cùng kỳ. Trong đó khai thác biển ước đạt 1.380 ngàn tấn, khai thác nội địa ước đạt 122 ngàn tấn.
Nuôi trồng thủy sản:
Sản lượng nuôi trồng thuỷ sản tháng 08/2009 ước đạt 180 ngàn tấn, đưa tổng sản lượng nuôi trồng thủy sản 8 tháng năm 2009 lên 1.498 ngàn tấn, bằng 62,4 % kế hoạch, giảm 2 % so với cùng kỳ năm 2008.
* Nuôi cá tra:
Tại Bến Tre diện tích đã thả giống ước đạt 709 ha, tăng 23 % so với cùng kỳ năm 2008, diện tích thu hoạch ước đạt 290 ha, tổng sản lượng 54.800 tấn. Tiền Giang đạt 28.500 tấn, diện tích nuôi 122 ha. Đồng Tháp có diện tích nuôi 1.489 ha, đạt sản lượng 168.753 tấn.
Nhìn chung cá nuôi phát triển tốt, tuy nhiên dịch bệnh vẫn thường xuyên xuất hiện nhưng không gây thiệt hại nghiêm trọng đối với nghề nuôi cá tra, một số bệnh thường gặp như gan thận có mủ, xuất huyết, phù đầu, trắng gan trắng mang. Giá bán cá tra nguyên liệu trong tháng 8 dao động từ 14.000 - 15.200 đồng/kg, giá thành bình quân dao động trong khoảng 15.000 - 15.500 đồng/kg nên hầu hết người nuôi không có lãi.
* Nuôi nhuyễn thể :
Tại Nam Định, sản lương Ngao đạt 13.601 tấn, Tiền Giang (sản lượng nghêu đạt 18.000 tấn, diện tích 2.150 ha). Tại Bến Tre, sản lượng nghêu, sò ước đạt 6.700 tấn, hiện nay nghêu, sò nuôi đang phát triển ổn định. Các đơn vị thường xuyên phối hợp khảo sát tình hình phát triển của nghêu, sò để hỗ trợ trong việc quản lý và bảo vệ, san thưa nguồn nghêu giống.
6. Giá cả thị trường:
Giá lúa không có biến động lớn. Giá lúa giảm so với tháng trước, lúa tẻ thường phổ biến ở mức 3.500-4.700 đồng/kg tùy loại lúa. Tuy nhiên, giá gạo lại tăng, dao động trong khoảng 6.200-11.000 đồng/kg tùy loại gạo.
Thịt lợn hơi khoảng 30-33 nghìn đồng/kg, các loại thực phẩm khác không có biến động lớn, giá rau xanh nhìn chung tăng so với tháng trước. Cải ngọt 4.500 đồng/kg (tăng 1500 đồng/kg), rau muông 5500 đồng/kg tăng 2000 đồng/kg, xà lách 6000 đồng/kg (tăng 2000 đồng/kg)...
Giá phân bón trong nước ổn định. Giá U Rê khoảng 5.900 đồng/kg, U rê Phú Mỹ 6.100 đồng/kg, phân lân 11.400-11.600 đồng/kg (giảm nhẹ); DAP nhập khẩu Philipin 14.000 đồng/kg, DAP Trung Quốc 7.800 đồng/kg.
7. Tình hình thực hiện vốn đầu tư XDCB tập trung (Phần do Bộ NN&PTNT quản lý)
7.1. Nguồn ngân sách giao đầu năm: Ước khối lượng thực hiện tháng 8 và 8 tháng năm 2009 đạt 2.109 tỷ đồng bằng 71,4% kế hoạch năm, trong đó :
Thuỷ lợi: ước đạt 1.402,5 tỷ đồng, bằng 94,5% kế hoạch năm.
Nông nghiệp: ước đạt 274 tỷ đồng, bằng 55,6% kế hoạch. Theo báo cáo từ các ban quản lý dự án: Dự án Khắc phục khẩn cấp hậu quả thiên tai (vay vốn ADB) đạt tiến độ thực hiện và giải ngân cao, các dự án ODA khác vay vốn ADB, WB đều triển khai rất chậm: dự án Phát triển nông thôn tổng hợp các tỉnh miền Trung khối lượng đạt 2,8 tỷ đồng, bằng 2% kế hoạch; Nguyên nhân chậm tiến độ thực hiện do tuyển chọn tư vấn (nhất là tư vấn nước ngoài) bị chậm, mặt khác một số tiểu dự án thành phần điều chỉnh lại dự án đầu tư do biến động về giá.
Lâm nghiệp: ước đạt 77,8 tỷ đồng, bằng 33,8% kế hoạch. Các dự án ODA đang tập trung đẩy nhanh tiến độ thực hiện. Dự án Phát triển Lâm nghiệp, Dự án Trồng rừng phòng hộ các tỉnh miền Trung; Dự án Phát triển Lâm nghiệp và cải thiện đời sống đồng bào Tây Nguyên và Dự án Phát triển lâm nghiệp ở tỉnh Hoà Bình, Sơn La vay vốn ADB đang chuẩn bị công tác kỹ thuật để triển khai thực hiện.
Thuỷ sản: Khối lượng thực hiện ước đạt 18 tỷ đồng, bằng 75% kế hoạch.
7.2. Vốn ứng trước kế hoạch: Tình hình thực hiện khối lượng và giải ngân nguồn vốn ngân sách ứng trước cho các dự án cấp bách thực hiện tháng 8 và 8 tháng năm 2009 ước đạt 394,8 tỷ đồng, bằng 39,5% kế hoạch.
7.3. Các công trình thuộc nguồn vốn trái phiếu Chính phủ:
Khối lượng thực hiện 8 tháng ước đạt 1.934 tỷ đồng, đạt 50,24% kế hoạch, giải ngân 1.465 tỷ đồng, đạt 37% kế hoạch, trong đó:
- Các công trình theo quyết định 171/2006/QĐ- TTg: Khối lượng ước đạt 1.786 tỷ đồng, bằng 55% kế hoạch.
- Các dự án cấp bách bổ sung: Khối lượng thực hiện ước đạt 82,3 tỷ đồng, bằng 41% kế hoạch.
- Các dự án đồng bằng sông Hồng: Khối lượng ước đạt 65,8 tỷ đồng, bằng 16,5% kế hoạch.
- Một số dự án sử dụng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ ở đồng bằng sông Hồng trong 8 tháng đạt thấp so với yêu cầu do đang ở giai đoạn vừa chuẩn bị công tác kỹ thuật vừa triển khai thực hiện, công tác tư vấn thiết kế kỹ thuật chưa đáp ứng được tiến độ.
8. Nhiệm vụ trọng tâm 4 tháng cuối năm:
- Đẩy mạnh sản xuất lúa vụ Hè Thu và vụ Mùa, bố trí cơ cấu trà lúa hợp lý để có điều kiện phát triển mạnh cây vụ Đông ở miền Bắc; Chỉ đạo xuống giống, chăm sóc vụ Hè Thu, Thu Đông, vụ Mùa ở miền Nam.
- Tiếp tục thực hiện đồng bộ các biện pháp phòng chống dịch bệnh gia súc, gia cầm, thủy sản và cây trồng, chủ động phòng chống rét trâu, bò trong mùa đông năm 2009.
- Tập trung tháo gỡ khó khăn trong việc tiêu thụ trong nước và xuất khẩu của một số ngành hàng có số lượng lớn đang bị giảm giá và khó tiêu thụ như lúa gạo, cà phê, cao su, thủy sản, đồ gỗ nhằm duy trì sản xuất, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người sản xuất và đảm bảo kim ngạch xuất khẩu năm 2009.
- Chuẩn bị tốt điều kiện sản xuất về giống, vật tư, phân bón, vốn, thực hiện thắng lợi vụ sản xuất hè-thu và vụ mùa năm 2009.
- Triển khai các nhiệm vụ về trồng và bảo vệ rừng, phòng chống cháy rừng, chặt phá rừng trái pháp luật.
- Xây dựng kế hoạch và giải pháp cụ thể sử dụng có hiệu quả nguồn vốn từ ngân sách, nhất là từ các gói kích cầu đầu tư của Chính phủ.
- Tăng cường thực hiện các chương trình, dự án giảm nghèo lâu dài cho các vùng khó khăn và các hộ dễ bị tổn thương, thực hiện các chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc nghèo./.

File đính kèm:
NongnghiepT8.09.pdf

Vụ Kinh tế Nông nghiệp - Bộ Kế hoạch và Đầu tư

    Tổng số lượt xem: 1546
  •  

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)