Báo cáo số 69 /BC-UBND ngày 23 tháng 6 năm 2014 của UBND tỉnh Quảng Nam.
Thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 02/01/2014 của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước năm 2014; Nghị quyết của HĐND tỉnh về nhiệm vụ năm 2014; UBND đã ban hành chương trình công tác với các nhiệm vụ và giải pháp cụ thể thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2014. Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn nhưng với sự nỗ lực của các cấp, các ngành, các doanh nghiệp và toàn dân trong tỉnh, tình hình kinh tế xã hội 6 tháng đầu năm có những chuyển biến tích cực và đạt kết quả quan trọng, cụ thể trên các lĩnh vực như sau:
I. TÌNH HÌNH THỰC HIỆN KẾ HOẠCH KINH TẾ - XÃ HỘI 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2014.
1. Về mục tiêu ổn định phát triển kinh tế, bình ổn thị trường và kiềm chế lạm phát
a) Giá cả được kiểm soát, chỉ số tiêu dùng ở mức ổn định.
Chỉ số giá tiêu dùng tăng gần 1,48% so với tháng 12 năm 2013. Trong đó tăng ở một số nhóm: Nhà ở, điện, nước, chất đốt, vật liệu xây dựng, giải trí và du lịch tăng hơn 0,6%; riêng nhóm ngành lương thực giảm so với tháng trước. Bình quân 6 tháng đầu năm, chỉ số tiêu dùng tăng hơn 4,3% so với cùng kỳ, mức tăng này có thấp hơn so với bình quân chung cả nước.
b) Tiếp tục thực hiện giảm mặt bằng lãi suất, đảm bảo nhu cầu gửi, rút tiền, góp phần tạo niền tin cho thị trường.
Lãi suất huy động và cho vay ngân hàng giảm dần từ quí I và tiếp tục giảm trong quí II. Hiện tại lãi suất huy động và cho vay trên địa bàn đã giảm từ 1% đến 2%/năm so với đầu năm, phổ biến ở mức từ 6% đến 8%/năm.
Lãi suất cho vay ngắn hạn bằng VNĐ đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao phổ biến ở mức 7%-8% năm; lãi suất cho vay lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác ở mức 8%-11,5% năm; các khoản cho vay trung dài hạn từ 9,5%-13% năm. Bên cạnh đó, đã cho vay thí điểm đối với các mô hình liên kết trong chuỗi sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, các mô hình ứng dụng khoa học và công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp với lãi suất thấp hơn.
Tổng nguồn vốn huy động trên địa bàn gần 18.000 tỷ đồng, tăng hơn 6,6% so với đầu năm và tăng trên 14% so với cùng kỳ. Tổng dư nợ cho vay nền kinh tế hơn 25.000 tỷ đồng, tăng 5% so với đầu năm và tăng hơn 12% so với cùng kỳ, mức tăng này khá cao so với mức tăng của cùng kỳ, trong đó vay trung và dài hạn chiếm gần 60%. Dư nợ cho vay chủ yếu ở lĩnh vực nông nghiệp nông thôn và hỗ trợ doanh nghiệp, trong đó nông nghiệp và nông thôn chiếm hơn 31%, hỗ trợ doanh nghiệp chiếm gần 64% tổng dư nợ.
Đã thực hiện nhiều giải pháp để giảm nợ. Nợ xấu trên địa bàn được kiểm soát ở mức hơn 3,5% trên tổng dư nợ, với khoảng hơn 880 tỷ đồng, giảm hơn 45% so với cùng kỳ. Nếu trừ nợ xấu đầu tư ngoài địa bàn, thì tỷ lệ nợ xấu chiếm khoảng 1,2% tổng dư nợ. Phần lớn nợ xấu phát sinh trên địa bàn thuộc đối tượng vay vốn chủ yếu là doanh nghiệp, chiếm hơn 90% tổng nợ xấu
c) Thu ngân sách tăng khá so với cùng kỳ.
Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn đến cuối tháng 6 hơn 3.720 tỷ đồng, đạt gần 54% so với dự toán năm, tăng hơn 26% so với cùng kỳ. Trong đó, thu nội địa hơn 2.800 tỷ đồng, đạt 56% dự toán năm, tăng gần 30% so với cùng kỳ; riêng thu tiền sử dụng đất gần 260 tỷ đồng, bằng 47% dự toán năm, tăng 26%. Thu xuất nhập khẩu hơn 800 tỷ đồng, đạt 51% dự toán đề ra, tăng 19,5% so với cùng kỳ.
Thu nội địa, thu xuất nhập khẩu 6 tháng đầu năm 2014 cao hơn so với mức tăng cùng kỳ; thu xổ số kiến thiết 6 tháng đầu năm 2014 đạt 64% dự toán năm, đây là dấu hiệu tích cực, thể hiện sự nỗ lực cao để hoàn thành và phấn đấu vượt dự toán thu cho cả năm 2014.
Tổng chi ngân sách địa phương hơn 5.300 tỷ đồng, đạt 45% so với dự toán năm. Trong đó, chi thường xuyên 3.640 tỷ đồng, đạt gần 53% dự toán, chủ yếu chi cho quản lý hành chính, chi đảm bảo an sinh xã hội, giáo dục đào tạo, dạy nghề và y tế; chi đầu tư phát triển gần 1.700 tỷ đồng, bằng cùng kỳ năm trước.
d) Huy động vốn đầu tư toàn xã hội có phát triển, chiếm tỷ lệ 25% GRDP.
Tổng vốn đầu tư toàn xã hội 6 tháng đầu năm thực hiện trên 6.700 tỷ đồng, đạt hơn 40% kế hoạch năm, chiếm 25% GRDP của tỉnh, tăng hơn 9,3% so với cùng kỳ năm trước, mức tăng này cao hơn so với mức tăng của cùng kỳ năm 2013. Trong đó, vốn Nhà nước hơn 4.400 tỷ đồng, tăng trên 10%; vốn ngoài nhà nước hơn 1.840 tỷ đồng, tăng 9%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài gần 450 tỷ đồng, tăng 4,3%. Mặc dù tốc độ tăng không cao và thực hiện còn thấp so với kế hoạch, nhưng tất cả các nguồn vốn đều tăng cao hơn so với mức tăng cùng kỳ, đây là một cố gắng lớn trong xây dựng và thực hiện giải pháp trong huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển.
Tổng nguồn vốn đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước thuộc kế hoạch năm 2014 đến tháng 6 hơn 4.865 tỷ đồng. Trong đó, nguồn vốn Trung ương cân đối giao kế hoạch đầu năm 3.352 tỷ đồng, bổ sung trái phiếu chính phủ và các nguồn vốn khác gần 1.100 tỷ đồng. Ngân sách tỉnh huy động thêm 415 tỷ đồng từ các nguồn xổ số kiến thiết, tăng thu, vốn vay để bổ sung vào kế hoạch vốn đầu tư xây dựng năm 2014. Ngoài ra, chưa kể nguồn vốn của 20 dự án ODA đang triển khai trong năm 2014, dự kiến kế hoạch giải ngân khoảng trên 800 tỷ đồng.
Khối lượng thực hiện trong 6 tháng chủ yếu là các công trình chuyển tiếp như: Mở rộng quốc lộ IA; dự án Đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi (đoạn qua Quảng Nam); Cầu Cửa Đại, Cầu Kỳ Phú 1 và 2, Tượng đài Mẹ Việt Nam anh hùng, Bảo tàng tỉnh, Nhà khách tỉnh, Bệnh viện đa khoa khu vực miền núi phía Bắc; Nghĩa trang liệt sỹ tỉnh; Quảng trường 24/3. Đã khởi công xây dựng một số công trình quan trọng, ý nghĩa như: Khu lưu niệm Ban Tài mậu khu V tại Khu di tích Nước Oa và Đền tưởng niệm anh hùng liệt sĩ huyện Thăng Bình, huyện Hiệp Đức; trùng tu, tôn tạo và nâng cấp nghĩa trang liệt sỹ cấp xã theo kế hoạch năm 2014. Hoàn thành một số công trình xây dựng kết cấu hạ tầng khu vực nông thôn và các xã nông thôn mới; đưa vào sử dụng công trình Nhà máy nước Hội An với tổng mức đầu tư hơn 11,5 triệu USD, công suất 21.000m3 ngày/đêm. Bên cạnh đó một số công trình tiến độ thi công chậm như dự án đường cứu hộ cứu nạn Tam Kỳ - Thăng Bình.
Khó khăn hiện nay là một số công trình lớn, trọng điểm, cấp thiết đều có nguồn vốn bố trí thấp, kể cả nguồn vốn kế hoạch trung hạn đến năm 2015 và bổ sung kế hoạch nguồn vốn trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2014-2016 cũng không đảm bảo so với tổng mức đầu tư. Chính vì vậy, ngoài việc huy động các nguồn lực, các chủ đầu tư cần tập trung xây dựng và hoàn thành dứt điểm các hạng mục cần thiết, quan trọng nhất của từng dự án để đưa vào sử dụng.
Tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư xây dựng cơ bản đạt hơn 49%, bằng với giải ngân cùng kỳ năm trước; trong đó ngân sách tỉnh giải ngân 49%, ngân sách huyện giải ngân 47%, ngân sách cấp xã giải ngân 60%; nguồn vốn trái phiếu chính phủ giải ngân 60%; chương trình hỗ trợ theo mục tiêu 33%; chương trình mục tiêu quốc gia 38%.
Tình hình thực hiện công tác quyết toán vốn đầu tư đối với các dự án hoàn thành được thực hiện thường xuyên. Đã thẩm tra 76 dự án thuộc khối tỉnh quản lý, với tổng giá trị sau thẩm tra gần 718 tỷ đồng, giảm gần 9 tỷ đồng so với Chủ đầu tư đề nghị.
Qua rà soát các dự án ven biển thuộc khu vực Điện Bàn - Núi Thành, toàn tỉnh có 44 dự án; trong đó có 15 dự án đã hoàn thành đưa vào khai thác sử dụng, 02 dự án đang triển khai, 05 dự án khởi công nhưng dừng triển khai, 22 dự án chưa xây dựng. Qua đó, tiếp tục giải quyết vướng mắc, thúc đẩy các dự án triển khai, đồng thời kiên quyết thu hồi dự án không thực hiện theo cam kết.
Cấp giấy phép đăng ký 06 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với tổng vốn đầu tư đăng ký 14,6 triệu USD, tăng hơn 2 dự án, nhưng thấp hơn 50% vốn đăng ký so với cùng kỳ. Tiếp nhận viện trợ của các tổ chức phi chính phủ nước ngoài 46 chương trình, dự án với tổng vốn viện trợ hơn 63 tỷ đồng, tăng hơn 50% so với cùng kỳ năm 2013. Đã có 321 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới; thu hồi 163 giấy phép doanh nghiệp ngừng hoạt động; 59 doanh nghiệp giải thể. So với cùng kỳ, số doanh nghiệp đăng ký mới giảm 11%; doanh nghiệp dừng hoạt động tăng 90%; doanh nghiệp giải thể giảm 12%.
2. Về mục tiêu tăng trưởng kinh tế
Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) 6 tháng tăng hơn 11% so với 6 tháng đầu năm 2013. Mức tăng này cao hơn mức tăng so với cùng kỳ, nhưng thấp hơn gần 0,5% so với mức tăng của chỉ tiêu kế hoạch đề ra cho cả năm 2014 (11,5%).
Cơ cấu các ngành kinh tế trong GRDP tiếp tục chuyển dịch tích cực. Công nghiệp – xây dựng và dịch vụ chiếm gần 84%; nông lâm thủy sản chiếm hơn 16%. Như vậy, chuyển dịch cơ cấu công nghiệp - xây dựng và dịch vụ 6 tháng năm 2014 tiếp tục tăng gần 1% so với cùng kỳ năm 2013, trong đó công nghiệp xây dựng tăng hơn 0,5%; dịch vụ tăng hơn 0,4%, nông lâm ngư nghiệp giảm gần 1%.
a) Giá trị sản xuất công nghiệp &TTCN có tốc độ tăng khá trong điều kiện nhiều doanh nghiệp vẫn còn chịu sự tác động khó khăn chung của nền kinh tế.
Giá trị sản xuất ngành công nghiệp 6 tháng đạt hơn 23.300 tỷ đồng, tăng 15,5% so với 6 tháng cùng kỳ năm 2013 và thấp hơn 5% so với tốc độ tăng cùng kỳ. Các ngành chế biến, chế tạo chủ lực, ổn định của tỉnh như: Chế biến thực phẩm, giầy da, may mặc, sản xuất và lắp ráp ô tô đều tăng hơn so với cùng kỳ năm trước. Riêng ngành khai khoáng giảm 22%, do tăng cường công tác quản lý trong khai thác và chế biến khoáng sản trong những năm gần đây, đồng thời ảnh hưởng do tình hình hoạt động không ổn định của 02 doanh nghiệp vàng Phước Sơn và Bồng Miêu.
Chỉ số sản xuất công nghiệp tăng; chỉ số tiêu thụ tăng; chỉ số sử dụng lao động tăng, bên cạnh đó chỉ số tồn còn cao so với cùng kỳ. Công nghiệp đóng góp vào tăng trưởng GRDP 6 tháng đầu năm hơn 5,4%, chiếm trên 36% cơ cấu kinh tế. Tuy nhiên, thời gian qua ngành công nghiệp gặp không ít khó khăn do ảnh hưởng chung của nền kinh tế, mức tiêu thụ giảm, một số mặt hàng tồn kho còn cao, áp lực cạnh tranh trong tìm kiếm thị trường tiêu thụ, chi phí sản xuất đầu vào tăng; nợ xấu; kiểm soát chặt chất lượng tín dụng,... vì vậy hoạt động sản xuất và phục hồi của công nghiệp gặp khó khăn.
b) Giá trị các ngành dịch vụ tăng khá; xuất khẩu tăng cao hơn so với cùng kỳ.
Giá trị sản xuất các ngành dịch vụ hơn 17.260 tỷ đồng, tăng hơn 15,5% so với cùng kỳ.
Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng đạt gần 15.400 tỷ đồng, tăng gần 30%, tăng khá cao so cùng kỳ năm trước.
Tổng lượt khách tham quan lưu trú gần 1,8 triệu lượt, đạt 58% kế hoạch, tăng 5% so với cùng kỳ, mặc dù khách du lịch tăng, nhưng mức tăng này thấp hơn 8% so với cùng kỳ năm trước. Doanh thu khách sạn, nhà hàng đạt hơn 3.400 tỷ đồng, tăng 5%.
Tổng kim ngạch xuất khẩu hơn 297 triệu USD, đạt 41% kế hoạch năm, tăng 15,5% so với cùng kỳ và tăng cao hơn 3,5% so với mức tăng cùng kỳ. Xuất khẩu chủ yếu là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài với giá trị hơn 200 triệu USD, chiếm hơn 70% tổng giá trị xuất khẩu và tăng hơn 5,6%. Tuy xuất khẩu khoáng sản và kim loại quí (chủ yếu là vàng) giảm sâu so với cùng kỳ, nhưng các mặt hàng chiếm tỷ trọng cao có giá trị xuất khẩu đều tăng khá như: Hàng thủy sản, dệt may, da giày, sắt thép, sản phẩm điện tử và máy tính, phương tiện vận tải.
Nhập khẩu tăng gần 30% so với cùng kỳ, với giá trị 417 triệu USD. Nhập khẩu tăng cao trở lại nhằm đảm bảo cung cấp máy móc thiết bị và nguyên phụ liệu cho sản xuất, đây là dấu hiệu tích cực cho tình hình sản xuất công nghiệp trong thời gian đến.
c) Giá trị sản xuất ngành nông lâm ngư nghiệp đạt tốc độ tăng cao hơn tốc độ tăng chỉ tiêu kế hoạch đề ra.
Giá trị sản xuất nông lâm ngư nghiệp hơn 5.840 tỷ đồng, đạt 54% kế hoạch năm, tăng 5% so với 6 tháng đầu năm 2013, tốc độ này tăng cao hơn 6 tháng cùng kỳ 3%, đồng thời cao hơn 1% so với chỉ tiêu đề ra cho cả năm 2014. Trong đó nông nghiệp tăng 4,7%; lâm nghiệp tăng 12,5%; thủy sản tăng 4,7%.
Vụ Đông xuân 2014 được mùa khá toàn diện. Năng suất lúa bình quân 56,9 tạ/ha, tăng hơn 1,6 tạ/ha; tổng sản lượng lúa hơn 247 ngàn tấn, tăng 4% so với cùng vụ năm trước. Vùng lúa chủ động nước, diện tích hơn 38.000 ha, chiếm 87% diện tích, năng suất bình quân ước đạt 59 tạ/ha. Vùng không chủ động nước diện tích sản xuất gần 5.500 ha, năng suất ước đạt khoảng 40 tạ/ha.
Đã có hơn 3.300 ha sản xuất giống lúa thuần và lúa lai, tăng hơn 500 ha so cùng kỳ năm trước, đây là điều kiện nâng cao giá trị gia tăng đối với sản xuất vùng trồng lúa, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất lúa đối với nhiều địa phương như Đại Lộc, Điện Bàn, Phú Ninh, Thăng Bình, ... Diện tích chuyển đổi sản xuất cây ngô tăng đáng kể, với tổng diện tích hơn 5.800 ha, giá trị trên đơn vị diện tích cũng đạt cao hơn so với cùng kỳ năm trước.
Tình hình dịch bệnh trên đàn gia súc đã được kiểm soát, khống chế trong phạm vi hẹp, không lây lan diện rộng. Đàn gia súc phát triển ổn định; gia cầm tăng 2%. Chăn nuôi lợn tăng khá do giá thức ăn ổn định, giá thịt lợn hơi có xu hướng tăng.
Tiếp tục triển khai thực hiện chính sách hỗ trợ, đồng thời động viên, khuyến khích ngư dân thường xuyên bám biển sản xuất; tiếp nhận 113 hồ sơ đề nghị hỗ trợ nhiên liệu theo Quyết định 48 của Thủ tướng Chính phủ. Tổng sản lượng thủy sản 6 tháng gần 48.000 tấn, tăng 4,8%; trong đó sản lượng khai thác thủy sản hơn 40.000 tấn, tăng trên 5%; sản lượng thủy sản nuôi trồng hơn 7.700 tấn, tăng hơn 4%.
Sản lượng khai thác gỗ rừng trồng tính chung 6 tháng thực hiện 240.000 m3, tăng 14% so với cùng kỳ.
3. Văn hoá xã hội tiếp tục được quan tâm, tích cực triển khai các giải pháp về đảm bảo an sinh xã hội.
Nhiều hoạt động văn hóa diễn ra trong 6 tháng đầu năm nhân dịp Tết Giáp Ngọ năm 2014; 39 năm ngày Giải phóng miền Nam thống nhất đất nước và các ngày lễ lớn trong năm. Nhiều hoạt động văn hóa, văn nghệ, tìm hiểu kiến thức pháp luật diễn ra sôi nổi, thiết thực. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” gắn với việc xây dựng nông thôn mới.
Kịp thời thực hiện chính sách người có công và an sinh xã hội. Phân bổ 2.500 tấn gạo cứu đói dịp Tết Nguyên đán Giáp Ngọ và giáp hạt năm 2014. Thực hiện chi trả trợ cấp đối với 85.500 trường hợp bảo trợ tại cộng đồng, với kinh phí khoảng 71 tỷ đồng. Chuyển quà của Chủ tịch nước, quà trợ cấp, thăm hỏi của tỉnh trong dịp Tết Giáp Ngọ năm 2014 chu đáo, kịp thời cho hơn 205 ngàn định suất đối với người có công với tổng kinh phí gần 56 tỷ đồng. Tiếp tục hỗ trợ cải thiện nhà ở cho người có công cách mạng. Phân bổ chỉ tiêu điều dưỡng người có công với cách mạng năm 2014 với hơn 16.000 lượt người. Xác nhận, thực hiện chế độ trên 21.700 trường hợp; thẩm định, di chuyển hồ sơ, giải quyết đơn thư công dân liên quan đến chính sách người có công, giới thiệu giám định ADN xác định danh tính liệt sỹ; cấp sổ ưu đãi học sinh - sinh viên con gia đình chính sách hơn 1.200 trường hợp. Vận động các cơ quan, đơn vị nhận phụng dưỡng 449 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng còn sống, đạt tỷ lệ 100%. Tổ chức Lễ trao tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng cho 179 mẹ mới được phong tặng, truy tặng. Xây dựng kế hoạch kinh phí hỗ trợ sửa chữa, nâng cấp mộ, nghĩa trang liệt sĩ năm 2014; quy chế hoạt động và quản lý Quỹ Đền ơn đáp nghĩa của tỉnh.
Công tác kiểm tra, giám sát, chủ động phòng ngừa các bệnh xã hội được duy trì thường xuyên, nhờ vậy các loại dịch bệnh được khống chế, không xảy ra loại dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm nào. Tổ chức thực hiện tốt việc tăng cường công tác phòng, chống dịch bệnh tay chân miệng và sốt xuất huyết theo Công điện của Thủ tướng Chính phủ, các cơ sở y tế thực hiện tốt công tác cấp cứu, điều trị hiệu quả các trường hợp mắc bệnh, cũng như ngăn ngừa lây lan dịch bệnh tại cộng đồng và trong các cơ sở y tế; khoanh vùng ổ dịch và xử lý triệt để không để lan rộng; bảo đảm việc cấp đủ phương tiện, kinh phí cho các hoạt động phòng, chống dịch trên địa bàn. Toàn tỉnh có 16 trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết; 5 trường hợp mắc bệnh thương hàn; 93 trường hợp mắc bệnh viêm gan virút; 148 ca bệnh tay chân miệng, 69 trường hợp sốt phát ban, trong đó 28 trường hợp dương tính với sởi; hơn 6.750 trường hợp mắc bệnh tiêu chảy, các trường hợp mắc bệnh không có trường hợp nào tử vong. Thanh toán khám chữa bệnh bảo hiểm y tế hơn 1,2 triệu lượt ngoại trú và 113 ngàn lượt nội trú với tổng chi phí 324 tỷ đồng. Công suất sử dụng giường bệnh tại tuyến tỉnh trên 120%.
Chương trình phòng chống suy dinh dýỡng của trẻ em dýới 5 tuổi, theo ðó tỷ lệ trẻ em dýới 2 tuổi ðýợc cân và chấm theo biểu ðồ theo dõi tăng trưởng hàng tháng đạt trên 98%. Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi năm 2013 trên địa bàn tỉnh giảm còn 14,5%; giảm 1% so với năm trước.
Đã tổ chức thành công kỳ thi tốt nghiệp THPT năm học 2013-2014, tỷ lệ đỗ tốt nghiệp khối trung học phổ thông 98,28%; khối giáo dục thường xuyên 90,58%. Triển khai công tác tuyển sinh vào trung học phổ thông, theo đó, các trường trung học phổ thông công lập huyện miền núi tuyển 100% số học sinh trung học cơ sở trên địa bàn đăng ký học lớp 10 hệ công lập; trường trung học phổ thông công lập các huyện, thành phố còn lại tuyển 90% số học sinh THCS theo phương thức xét tuyển kết hợp với phân tuyến theo địa bàn trường.
Công tác tuyển sinh các trường đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp trên địa bàn đang được triển khai thực hiện, theo đó năm 2014 tuyển sinh theo hai hình thức thi tuyển và xét tuyển. Các trường đang đẩy mạnh công tác tư vấn tuyển sinh, định hướng nghề nghiệp giúp học sinh chọn trường, chọn ngành phù hợp với năng lực, sở thích của mình, góp phần nâng cao chất lượng tuyển sinh, đồng thời đảm bảo cân đối giữa nhu cầu học tập và tìm kiếm việc làm sau khi ra trường.
Tổ chức các phiên giao dịch việc làm với 323 lượt doanh nghiệp tham gia và có nhu cầu tuyển dụng hơn 26.200 lao động. Tổ chức đào tạo nghề, giải quyết việc làm theo kế hoạch đề ra; đã xuất khẩu 35 lao động. Giải ngân hơn 3 tỷ đồng vốn Quỹ Quốc gia về việc làm. Hơn 2.000 người được trợ cấp thất nghiệp với số tiền trên 14,6 tỷ đồng. Tổng số lao động được tuyển sinh học nghề hơn 11.000 người, chủ yếu là sơ cấp nghề và dạy nghề dưới 3 tháng, trong đó dạy nghề cho lao động nông thôn theo Quyết định 1956 hơn 1.500 học viên, bằng 21% kế hoạch. Kết quả này đã góp phần tích cực trong việc tăng thu nhập, ổn định cuộc sống, giảm nghèo, chuyển dịch cơ cấu lao động. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại như chính sách đầu tư cho cơ sở dạy nghề chưa thực hiện đầy đủ. Qua rà soát hệ thống các cơ sở dạy nghề, đã chấm dứt hoạt động của 06 cơ sở dạy nghề hoạt động không hiệu quả. Hiện trên địa bàn tỉnh có 43 cơ sở dạy nghề, trong đó có 2 trường cao đẳng nghề, 4 trường trung cấp nghề, 17 trung tâm dạy nghề và 20 cơ sở khác có tham gia dạy nghề.
4. Công tác phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, miền núi, chương trình nông thôn mới tiếp tục được thực hiện và đạt một số kết quả trên các lĩnh vực.
Thực hiện tốt các chính sách về ưu đãi vốn vay phục vụ cho phát triển sản xuất, dồn điền đổi thửa, cơ giới hóa từ khâu sản xuất đến thu hoạch sản phẩm nông nghiệp; hỗ trợ ngư dân đóng mới, cải hoán tàu thuyền khai thác, đánh bắt xa bờ.
Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới đã huy động nhiều nguồn lực, với mục tiêu phấn đấu 50/206 xã hoàn thành vào năm 2015. Đến nay, nguồn vốn ngân sách nhà nước từ chương trình nông thôn mới huy động hơn 525 tỷ đồng, trong đó riêng năm 2014 hơn 191 tỷ đồng; nguồn vốn lồng ghép từ các chương trình dự án hơn 2.400 tỷ đồng; hơn 30% nguồn vốn tín dụng hàng năm cho vay phát triển nông nghiệp và nông thôn; đồng thời huy động đóng góp từ các doanh nghiệp và nhân dân. Sau hơn 3 năm thực hiện Chương trình, các tiêu chí ở các xã trên địa bàn tỉnh được tăng lên đáng kể, tuy nhiên vẫn còn thấp hơn so với bình quân chung cả nước. Số nhóm các xã đạt từ 10 đến 18 tiêu chí hiện đang có 43 xã, chiếm 20,8% trong tổng số 206 xã; trong đó số xã đạt từ 15 đến 19 tiêu chí có 11 xã. Tuy nhiên, số xã đạt dưới 5 tiêu chí còn 91 xã, tỷ lệ hơn 44%, tỷ lệ này còn khá cao so với bình quân chung cả nước. Khó khăn hiện nay là vai trò chủ thể của người dân trong xây dựng nông thôn mới chưa được phát huy cao; còn nặng về xây dựng cơ bản, chưa tập trung cao cho việc tổ chức chỉ đạo phát triển sản xuất; nguồn lực từ ngân sách nhà nước các cấp dành cho xây dựng nông thôn mới chưa tương xứng với mục tiêu của chương trình; còn quá nhiều Chương trình mục tiêu quốc gia đầu tư trên địa bàn nông thôn, dẫn đến đầu tư phân tán, cơ chế lồng ghép vốn từ các chương trình, dự án tuy đã được hướng dẫn, nhưng việc thực hiện còn gặp nhiều khó khăn, do mỗi chương trình có những mục tiêu, yêu cầu và nguyên tắc đầu tư khác nhau.
Năm 2014, kinh phí thực hiện Chương trình mục tiêu giảm nghèo gần 242 tỷ đồng. Nguồn vốn này tập trung thực hiện các mục tiêu hỗ trợ phát triển kết cấu hạ tầng, hỗ trợ sản xuất, chăm sóc bảo vệ rừng, hỗ trợ giáo dục đào tạo và dạy nghề tại các địa bàn nông thôn, miền núi, các xã đặc biệt khó khăn, xã bãi ngang ven biển. Riêng chương trình theo Nghị quyết 30a gần 150 tỷ đồng, trong đó vốn đầu tư phát triển hơn 113 tỷ đồng phân bổ cho 82 công trình hạ tầng thiết yếu. Bên cạnh đó, Trung ương bổ sung 36 tỷ đồng, hỗ trợ cho hai huyện nghèo của tỉnh theo Quyết định 293/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Đã hỗ trợ các địa phương 80 tỷ đồng từ nguồn vốn vay tín dụng, để thực hiện kiên cố hóa kênh mương, trạm bơm điện phục vụ sản xuất nông nghiệp, hạ tầng làng nghề và hơn 140 km đường giao thông nông thôn; cùng với ngân sách cấp huyện và đóng góp của nhân dân, tiếp tục thực hiện đề án phát triển giao thông nông thôn, phấn đấu hoàn thành đề án vào năm 2015 theo Nghị Quyết HĐND tỉnh đề ra.
Với nhiều chương trình mục tiêu từ ngân sách Trung ương và ngân sách tỉnh, tập trung đầu tư, hỗ trợ cho khu vực khó khăn nông thôn, miền núi nên kết quả thực hiện mục tiêu giảm nghèo, tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh, đạt mục tiêu đề ra. Ước tính 6 tháng đầu năm 2014 tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 13%; giảm 1,9% so với năm 2013.
5. Công tác tài nguyên và môi trường được quan tâm, chú trọng công tác bồi thường, hỗ trợ tái định cư, tăng cường công tác kiểm tra xử lý các vi phạm.
Tập trung tổ chức thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ tái định cư, trọng tâm là dự án mở rộng Quốc lộ 1A và dự án đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi đoạn qua địa bàn tỉnh Quảng Nam.
Đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đã thu hồi đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất gần 1.500 hồ sơ với tổng diện tích hơn 8 triệu m2 đất, trong đó cấp gần 1.300 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với hơn 4 triệu m2 đất.
Công tác quản lý tài nguyên nước, biển và hải đảo đã có những tiến bộ trong quản lý tài nguyên nước lưu vực sông, quản lý tổng hợp vùng bờ, bảo tồn phát triển rừng ngập mặn ven biển, san hô tự nhiên; hướng dẫn xử lý rác thải nông thôn.
Thúc đẩy tiến độ một số dự án ODA về môi trường ở những vùng quan trọng, trước hết là xử lý nước thải, rác thải khu vực đô thị Tam Kỳ, Hội An; cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn; khôi phục rừng và phát triển bền vững.
Tình trạng phá rừng, khai thác rừng và vận chuyển trái phép lâm sản, khoáng sản từng bước được ngăn chặn, tăng cường xử lý các vụ việc vi phạm, lập lại trật tự kỷ cương trong lĩnh vực kiểm tra, kiểm soát lâm sản. Tuy nhiên, tình trạng cháy rừng, chặt phá phá rừng, khai thác lâm sản trái phép vẫn còn xẩy ra ở một số nơi.
6. Nội chính, quốc phòng - an ninh được đảm bảo, đối ngoại được tăng cường. Cải cách hành chính tiếp tục được được quan tâm. Tai nạn giao thông chưa được kiềm chế
Công tác quản lý nhà nước về biên giới, lãnh sự, thông tin đối ngoại thực hiện tốt, đảm bảo theo qui định. Chuẩn bị các điều kiện tổ chức Hội nghị thường niên với đoàn đại biểu cấp cao tỉnh Sêkông của nước bạn Lào.
Các ngành, đoàn thể và nhân dân trong tỉnh tích cực tham gia phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc; lực lượng an ninh đã mở các đợt cao điểm tấn công trấn áp các loại tội phạm, tăng cường các cuộc tuần tra nhằm đảm bảo an ninh trật tự trên địa bàn; ngăn chặn kịp thời các trường hợp lợi dụng tình hình biển Đông để kích động.
Hoàn thành tốt công tác giao quân đợt I năm 2014, đảm bảo chất lượng, đủ 100% chỉ tiêu đề ra. Triển khai thực hiện kế hoạch khu vực phòng thủ vững chắc, chuẩn bị tốt các điều kiện để tổ chức diễn tập phong thủ cấp tỉnh theo kế hoạch. Tổ chức huấn luyện các phân đội cứu hộ, cứu nạn ở các cấp. Tiếp tục thực hiện bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh.
Tổ chức vận động, đối thoại trực tiếp với nhân dân liên quan vùng dự án, nhằm giải thích, giải quyết những vướng mắc về thu hồi đất, giải phóng mặt bằng, bồi thường, hỗ trợ tái định cư để triển khai dự án.
Toàn tỉnh đã thực hiện 2.237 cuộc thanh tra và kiểm tra. Trong đó 90 cuộc thanh tra hành chính; 60 cuộc thanh tra và 2.178 đợt kiểm tra chuyên ngành. Qua thanh tra, kiểm tra đã phát hiện sai phạm hơn 19 tỷ đồng và hơn 283 ngàn m2 đất tại 1.898 đơn vị, cá nhân sai phạm. Tất cả các trường hợp sai phạm đã kiến nghị thu hồi nộp ngân sách nhà nước và kiến nghị xử lý khác.
Công tác tiếp công dân tại các địa phương, đơn vị được duy trì thường xuyên. Các cơ quan quản lý nhà nước trên địa bàn đã tổ chức tiếp 5.864 lượt, tăng hơn 38% so với cùng kỳ năm trước. Tiếp nhận hơn 2.559 đơn khiếu nại, tố cáo, trong đó khiếu nại hơn 1.000 đơn, tăng gần 7,4%; tố cáo 110 đơn, tăng 35% và 1.445 đơn khác. Nội dung khiếu nại chủ yếu liên quan đến lĩnh vực tranh chấp đất đai, bồi thường giải phóng mặt bằng và tái định cư, chế độ chính sách. UBND tỉnh đã xử lý và giao cho các ngành chức năng thẩm tra, xác minh, tham mưu giải quyết theo qui định.
Để tăng cường hiệu lực, hiệu quả xử lý các sai phạm phát hiện qua thanh tra, UBND tỉnh đã ban hành Chỉ thị 03, trong đó qui định Thủ trưởng cơ quan, đơn vị, người quản lý doanh nghiệp phải thực hiện nghiêm các kết luận thanh tra, quyết định xử lý về thanh tra của người có thẩm quyền đối với các sai phạm của tập thể, cá nhân thuộc phạm vi quản lý, phụ trách của mình.
Xây dựng báo cáo kết quả xác định chỉ số cải cách hành chính năm 2013 các Sở Ban ngành, UBND các huyện, thành phố. Triển khai phương án đo lường mức độ hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của các cơ quan hành chính nhà nước. Tổ chức xác định vị trí việc làm theo đề án. Chuẩn bị tốt công tác thi tuyển công chức đối với 197 học viên theo Đề án 500 khóa I và II. Tiến hành thanh tra, kiểm tra đột xuất, trực đường dây nóng để tiếp nhận phản ánh, kiến nghị của tổ chức, công dân liên quan đến việc chấp hành Chỉ thị 22 của Chủ tịch UBND tỉnh.
Tình hình tai nạn giao thông trên địa bàn tăng so với cùng kỳ. Đến giữa tháng 6/2013, trên địa bàn đã xảy ra 180 vụ tai nạn giao thông đường bộ, làm chết 114 người, bị thương 187 người, so với cùng kỳ, tăng 16 vụ tai nạn, tăng 17 người chết và tăng 10 người bị thương. Tai nạn xảy trên tuyến quốc lộ chiếm tỷ lệ trên 42%.
Qua 6 tháng đầu năm 2014, các ngành, địa phương đã tích cực triển khai thực hiện Nghị quyết của Chính phủ, của HĐND tỉnh về nhiệm vụ năm 2014 và đã đạt được những kết quả tích cực. Giá cả, thị trường, chỉ số giá ổn định; Vụ Đông xuân được mùa, giá trị sản xuất ngành nông nghiệp tăng cao so với cùng kỳ, dịch bệnh được kiểm soát. Tập trung công tác bồi thường, tái định cư, bàn giao mặt bằng để xây dựng các dự án lớn. Lãi suất cho vay tiếp tục giảm và ổn định; tín dụng bắt đầu có dấu hiệu tích cực. Thu nội địa tăng cao. An sinh xã hội được bảo đảm; an ninh chính trị, trật tự xã hội được giữ vững.
II. NHỮNG VẤN ĐỀ TỒN TẠI, KHÓ KHĂN
Một số ngành sản xuất, nhập khẩu nguồn nguyên liệu và có thị trường tiêu thụ sản phẩm và dịch vụ từ Trung Quốc như dệt may, da giày, hàng nông sản, dịch vụ, du lịch và đầu tư, ... và hoạt động khai thác đánh bắt thủy sản, khả năng bị ảnh hưởng khi tình hình biển Đông tiếp tục gia tăng thêm căng thẳng.
Tốc độ tăng trưởng GDP tăng cao hơn so với cùng kỳ nhưng thấp hơn so với tốc độ của chỉ tiêu kế hoạch đề ra cho cả năm. Một số ngành, lĩnh vực có tốc độ tăng thấp hơn so với cùng kỳ sẽ ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế trong những tháng cuối năm như: Giá trị sản xuất công nghiệp tăng, nhưng tốc độ tăng thấp hơn so với cùng kỳ; xuất khẩu còn thấp so với kế hoạch; khách du lịch có tốc độ tăng thấp hơn tốc độ tăng cùng kỳ, sẽ ảnh hưởng đến doanh thu du lịch trong những tháng cuối năm.
Thu nội địa tăng cao, nhưng có khoản thu giảm sâu so với cùng kỳ. Thu từ doanh nghiệp đầu tư nước ngoài chỉ chiếm 35% so với dự toán năm.
Tình hình hạn, nhiễm mặn có khả năng ảnh hưởng đến sản xuất vụ Hè Thu 2014 ở một số khu vực. Chi phí sản xuất có xu hướng tăng nhưng giá sản phẩm nông sản không tăng; một số sản phẩm nông sản tiêu thụ không ổn định như rau quả thực phẩm. Dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm trên địa bàn đã được kiểm soát, nhưng công tác tiêm phòng đạt tỷ lệ thấp, người chăn nuôi thiếu chủ động phòng dịch.
Tỷ lệ giải ngân từ chương trình hỗ trợ theo mục tiêu, chương trình mục tiêu quốc gia còn thấp so với kế hoạch vốn năm 2014; một số dự án có tỷ lệ giải ngân 0%; tiến độ một số công trình chậm; UBND tỉnh đã quy định đến 30/6/2014 những dự án mới chưa ký hợp đồng, dự án chuyển tiếp chưa có hồ sở gửi kho bạc thực hiện thanh toán thì không được tiếp tục giải ngân mà phải cắt, điều chuyển cho công trình dự án khác có khối lượng nhưng thiếu vốn.
Nguồn vốn cho một số công trình trọng điểm còn quá thấp so với tổng mức đầu tư (kể cả kế hoạch vốn trung hạn đến 2015 và kế hoạch vốn trái phiếu chính phủ 2014-2016 cho các công trình) như: Cầu Cửa Đại và đường dẫn; các tuyến đường cứu hộ cứu nạn Thăng Bình, Tam Kỳ; cầu Kỳ Phú 1 và 2; Tượng đài Mẹ Việt Nam anh hùng,... Việc huy động thêm từ nguồn lực khác của tỉnh gặp nhiều khó khăn.
Công tác bồi thường thiệt hại, giải phóng mặt bằng được tập trung giải quyết cho các dự án trọng điểm, đặc biệt là dự án quốc lộ IA và đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi đoạn qua Quảng Nam, trong quá trình thực hiện, có nhiều vướng mắc phát sinh như thay đổi thiết kế, điều chỉnh qui mô, kiến nghị của các hộ dân, đơn vị về giá bồi thường, chênh lệch giá đất liền kề, hỗ trợ chuyển đổi nghề,... nhưng với quyết tâm khẩn trương giải quyết các vướng mắc để bàn giao mặt bằng đúng tiến độ; tuy nhiên nguồn vốn chi trả cho các hộ dân, đơn vị bị ảnh hưởng chưa bố trí kịp so với tiến độ thực hiện.
Lãi suất cho vay giảm, nhưng doanh nghiệp khó tiếp cận nguồn vốn vay do yêu cầu kiểm soát chất lượng tín dụng nên khó đáp ứng được các điều kiện cho vay.
Đề án nhà ở cho người có công, giai đoạn I, Chính phủ tập trung hỗ trợ để hoàn thành 9.541 nhà. Tuy nhiên số nhà còn lại rất lớn; việc huy động các nguồn lực để tiếp tục hoàn thành số nhà theo đề án là hết sức khó khăn.
Công tác quản lý môi trường, tài nguyên đã tập trung xử lý, giải quyết được nhiều vấn đề, tuy nhiên việc khai thác trái phép lâm sản, khoáng sản vẫn còn xảy ra. Số vụ, số người chết, số người bị thương do tai nạn giao thông tăng so với cùng kỳ năm trước.
III. MỘT SỐ NHIỆM VỤ TRIỂN KHAI THỰC HIỆN TRONG NHỮNG THÁNG CUỐI NĂM 2014:
Trên cơ sở tình hình và kết quả của 6 tháng đầu năm, trong thời gian tới, các ngành, địa phương trong tỉnh theo chức năng, nhiệm vụ được giao, chủ động bám sát tình hình thực tế, tập trung chỉ đạo thực hiện đồng bộ, quyết liệt, có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp theo Nghị quyết 01 của Chính phủ về phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước năm 2014, Nghị quyết HĐND tỉnh về nhiệm vụ năm 2014; tích cực huy động các nguồn lực toàn xã hội, thực hiện đồng bộ các giải pháp, đảm bảo đạt mức cao nhất các chỉ tiêu năm 2014 đã đề ra, tập trung vào các nhóm giải pháp sau:
Một là, hỗ trợ các doanh nghiệp đẩy mạnh phát triển sản xuất, kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm, chú trọng các sản phẩm của tỉnh đã có thương hiệu, các sản phẩm có sản lượng chiếm tỷ lệ cao trong nước như: Ô tô, giầy da, may mặc. Phấn đấu đưa giá trị xuất khẩu vượt chỉ tiêu kế hoạch đề ra.
Tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, hỗ trợ thị trường. Hỗ trợ giải phóng mặt bằng. Giải quyết đầy đủ, kịp thời việc giảm tiền thuế đất năm 2014 cho một số doanh nghiệp, hộ kinh doanh và cá nhân theo Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 07/01/2013 của Chính phủ.
Các doanh nghiệp duy trì thị trường truyền thống, đồng thời chủ động tìm kiếm thị trường nhập khẩu nguyên vật liệu thay thế để ổn định sản xuất; mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Các ngành, địa phương dự báo các khả năng có thể xẩy ra, chủ động xây dựng kế hoạch ứng phó cả trước mắt và lâu dài; theo dõi sát diễn biến tình hình để áp dụng giải pháp phù hợp trong một số lĩnh vực có quan hệ lớn với thị trường Trung Quốc như xuất nhập khẩu, du lịch, đầu tư trực tiếp.
Tiếp tục ổn định lãi suất cho vay; phấn đấu tăng trưởng tín dụng năm 2014. Chủ động triển khai các giải pháp xử lý nợ xấu như đánh giá lại chất lượng và khả năng thu hồi của các khoản nợ để có biện pháp xử lý, thu nợ; tiếp tục cơ cấu lại nợ để hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận được vốn vay phục vụ sản xuất - kinh doanh; đồng thời, triển khai các giải pháp hạn chế nợ xấu phát sinh trong tương lai.
Triển khai thực hiện đồng bộ các chính sách ưu tiên hỗ trợ ngư dân về tín dụng, bảo hiểm, hỗ trợ đóng mới và cải hoán tàu hiện có, đảm bảo công suất cao hơn, khai thác, đánh bắt xa bờ, vừa nâng cao năng suất đánh bắt, vừa thực hiện quyền chủ quyền trên biển.
Phòng chống hạn, nhiễm mặn, đảm bảo nguồn nước tưới cho sản xuất. Tăng cường kiểm tra, theo dõi, phát hiện, chủ động khoanh vùng, ngăn chặn, xử lý, dập tắt các ổ dịch bệnh phát sinh trên gia súc, gia cầm, cây trồng, vật nuôi. Chú trọng công tác thú y cơ sở, không để dịch bệnh tái phát. Chủ động nguồn lực để thực hiện các phương án cứu hộ cứu nạn, phòng chống lụt, bão.
Hai là, đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình, thúc đẩy giải ngân hết nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản năm 2014 đối với các dự án, chương trình trong phạm vi quản lý, nhất là đối với vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, vốn trái phiếu Chính phủ, chương trình hỗ trợ theo mục tiêu, vốn chương trình mục tiêu quốc gia theo đúng quy định.
Tập trung công tác giải phóng mặt bằng để thực hiện các dự án, đặc biệt là các dự án qui mô lớn, trọng điểm. Tập trung công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng, đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình, nhất là công trình nâng cấp, mở rộng quốc lộ IA và tuyến đường cao tốc. Xây dựng và hoàn thành Đề án Quy hoạch phát triển giao thông vận tải đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 và Đề án nâng cấp, kiên cố hóa mặt đường các tuyến ĐH để phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng giao thông.
Bảo đảm các điều kiện cần thiết để tăng cường thu hút, giải ngân các nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), bảo đảm vốn đối ứng cho các dự án hạ tầng kinh tế - xã hội, nhất là các lĩnh vực có nguồn vốn lớn như giao thông, hạ tầng đô thị. Tăng cường thu hút, đẩy nhanh giải ngân các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
Thực hiện nghiêm Chỉ thị 27/CT-TTg và Chỉ thị 14/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường quản lý đầu tư và xử lý nợ đọng xây dựng cơ bản. Rà soát các nội dung đầu tư, cắt giảm các chi phí, hạng mục chưa cần thiết trên nguyên tắc đảm bảo mục tiêu cần thiết của dự án; căn cứ và khả năng cân đối ngân sách, sắp xếp thứ tự ưu tiên và xem xét quyết định giãn tiến độ, dừng những hạng mục, dự án chưa thật sự cần thiết, tập trung nguồn vốn cho những hạng mục, dự án cấp bách, hiệu quả cao hơn.
Rà soát lại tất cả các dự án đã đủ thủ tục đầu tư hoặc đã có khối lượng thì lập thủ tục thanh toán vốn đầu tư. Các dự án đã được bố trí vốn đến hết ngày 31/8/2014 nếu thanh toán dưới 50% vốn thuộc kế hoạch năm 2014 thì sẽ xem xét cắt giảm để bổ sung cho các dự án đã được phê duyệt quyết toán, dự án đã tạm ứng ngân sách, dự án khả năng hoàn thành trong năm 2014 và dự án có khối lượng nhưng thiếu vốn.
Tiếp tục rà soát kế hoạch vốn trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2012-2015 và 2014-2016, cắt giảm qui mô hợp lý, đảm bảo nguồn vốn đã cân đối, không phát sinh nợ.
Rà soát các dự án ven biển; kiên quyết thu hồi những dự án đã có mặt bằng sạch nhưng nhà đầu tư không triển khai; khẩn trương bàn giao mặt bằng cho nhà đầu tư những dự án đã nhận tiền bồi thường nhưng chưa giao đất; tập trung giải quyết tháo gỡ các vướng mắc nhằm đưa dự án đi vào thực hiện; tăng cường công tác xúc tiến, thu hút đầu tư để thúc đẩy phát triển kinh tế, tăng nguồn thu ngân sách cho tỉnh. Chú trọng thu hút làn sóng đầu tư mới, quy mô lớn và công nghệ cao.
Đối với nguồn thu tiền sử dụng đất, trường hợp giảm thu tiền sử dụng đất so với dự toán thì thực hiện cắt giảm, hoặc giãn tiến độ thực hiện của công trình, dự án được bố trí chi từ nguồn thu này.
Ba là, tăng cường các biện pháp thu ngân sách nhà nước, bảo đảm các nhiệm vụ thu, chi theo dự toán năm 2014 đã được HĐND tỉnh thông qua. Phấn đấu tăng thu, tiết kiệm chi để tạo nguồn cho nhiệm vụ chi cấp thiết phát sinh.
Phấn đấu hoàn thành dự toán thu ngân sách năm 2014 đã đề ra. Quản lý thu đủ, kịp thời, đúng quy định các nguồn thu phát sinh trên địa bàn, nhất là nguồn thu từ hoạt động khai thác khoáng sản, kinh doanh vận tải, khách sạn, các khoản thu liên quan đến đất đai; thu thuế hoạt động xây dựng cơ bản vãng lai đối với các công trình xây dựng trên địa bàn.
Đôn đốc người nộp thuế nộp hồ sơ khai thuế đầy đủ, chính xác, đúng hạn theo quy định của Luật Quản lý thuế. Kiên quyết xử lý nghiêm các trường hợp không nộp hồ sơ khai thuế, khai quá hạn hoặc khai không đúng quy định, đồng thời giải quyết đầy đủ, kịp thời việc thực hiện giảm, gia hạn một số khoản thu ngân sách nhà nước theo qui định của Chính phủ.
Tiếp tục thu hồi tạm ứng các nguồn vốn theo qui định tại Thông tư 86 của Bộ Tài chính. Tiếp tục áp dụng tính lãi suất chậm thanh toán nguồn vốn tạm ứng để nộp vào ngân sách nhà nước theo nguyên tắc công trình, dự án, gói thầu thuộc cấp nào quản lý, khi có phát sinh số thu tính lãi thì nộp vào ngân sách cấp đó.
Quản lý chặt chẽ nguồn dự phòng ngân sách đã bố trí dự toán ở các cấp ngân sách; ưu tiên giải quyết các nhiệm vụ cấp bách phát sinh, như phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, quốc phòng và an ninh.
Bốn là, thực hiện tốt mục tiêu phát triển các lĩnh vực văn hóa, xã hội; phát triển giáo dục đào tạo và dạy nghề, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Tổ chức thực hiện nhiệm vụ phát triển giáo dục, triển khai năm học mới 2014 – 2015. Chuẩn bị các điều kiện tổ chức đại hội thể dục thể thao các huyện miền núi lần thứ XVIII.
Đào tạo nghề, giải quyết việc làm đáp ứng yêu cầu chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, nhất là đối với lao động bị thu hồi đất sản xuất nông nghiệp. Tiếp tục tổ chức đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Đẩy mạnh việc đào tạo và cung ứng nhân lực theo nhu cầu của doanh nghiệp; triển khai hợp tác với các doanh nghiệp nước ngoài về nhân lực, chuyển giao công nghệ
Đẩy nhanh tiến độ thẩm định hồ sơ, giải quyết các chế độ ưu đãi người có công. Xác lập thủ tục hồ sơ đề nghị tuyên dương danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng và hồ sơ đề nghị tặng thưởng Huân chương độc lập; vận động phụng dưỡng các Bà mẹ Việt Nam anh hùng mới được phong tặng. Tiếp tục thực hiện chương trình hỗ trợ xây dựng nhà ở cho người có công. Thực hiện tốt công tác bảo trợ xã hội và bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Xây dựng, sửa chữa, tôn tạo mộ, nghĩa trang liệt sỹ.
Năm là, phát triển kinh tế xã hội nông thôn và miền núi, thúc đẩy các chương trình giảm nghèo, lồng ghép các nguồn vốn triển khai thực hiện các chương trình thuộc các huyện nghèo của tỉnh. Xây dựng các kế hoạch để thực hiện Chương trình tổng thể phát triển kinh tế - xã hội miền núi tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2013 - 2016 và định hướng đến năm 2020 theo Nghị Quyết số 55 của HĐND tỉnh, trong đó tập trung công tác phân giới, cắm mốc, giao đất để nhân dân trồng và phát triển rừng theo qui hoạch bảo vệ và phát triển rừng đã được phê duyệt; hỗ trợ đào tạo nghề gắn với giải quyết việc làm và xuất khẩu lao động. Tổ chức Đại hội Đại biểu các dân tộc thiểu số lần thứ hai tỉnh Quảng Nam.
Huy động, lồng ghép các nguồn lực, phấn đấu đến cuối năm 2014, có khoảng 8 đến 9 xã đạt chuẩn nông thôn mới. Đẩy nhanh tiến độ các dự án thuộc các chương mục tiêu, các dự án cứu hộ cứu nạn. Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng theo các chương trình xoá đói giảm nghèo, chương trình nông thôn mới; chương trình phát triển vùng theo Nghị Quyết 39.
Hoàn thành kế hoạch kế hoạch bê thông hóa giao thông nông thôn năm 2014 và xây dựng kế hoạch cho năm 2015 nhằm hoàn thành mục tiêu Đề án theo Nghị quyết của HĐND tỉnh. Nâng cấp, sửa chữa các kết cấu hạ tầng xuống cấp ở các khu vực tái định cư, đảm bảo nơi ở mới của người dân tốt hơn nơi ở cũ. Trong đó chú ý đến vấn đề đất sản xuất, nước sinh hoạt và các dịch vụ cơ bản khác.
Sáu là, tăng cường công tác quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường; giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai gây ra.
Tổ chức huy động các nguồn lực và thực hiện tốt chiến lược tăng trưởng xanh, phát triển bền vững, chương trình mục tiêu quốc gia về ứng phó với biến đổi khí hậu.
Khắc phục ô nhiễm môi trường ở một số khu vực nông thôn, làng nghề, khu, cụm công nghiệp, các cơ sở gây ô nhiễm môi trường và lưu vực các sông. Ngăn chặn, xử lý khai thác vàng, vật liệu xây dựng, lâm sản, khoáng sản trái phép.
Xây dựng, kiểm tra, rà soát các phương án, thực hiện tốt kế hoạch di dời dân ra khỏi những khu vực có nguy cơ sạt lở.
Bảy là, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao về bảo vệ chủ quyền; thực hiện đồng bộ các giải pháp đảm bảo quốc phòng - an ninh, nội chính, đối ngoại; giữ vững an ninh - chính trị, trật tự an toàn xã hội. Tiếp tục bồi dưỡng kiến thức quốc phòng toàn dân, thực hiện có hiệu quả công tác nắm tình hình sẵn sàng chiến đấu. Tổ chức giao – nhận quân đợt II năm 2014 đúng kế hoạch, đủ chỉ tiêu. Xây dựng lực lượng dự bị động viên, tổ chức huấn luyện, diễn tập phòng thủ cấp tỉnh và 9 huyện theo kế hoạch.
Đảm bảo an ninh trật tự trên địa bàn theo Công điện 697/CĐ-TTg ngày 15/5/2014 của Thủ tướng Chính phủ, đồng thời thực hiện tốt chỉ đạo về đẩy mạnh toàn diện công tác đối ngoại, kiên định trong đấu tranh khẳng định bảo vệ chủ quyền, lợi ích chính đáng của đất nước và bảo hộ công dân. Chuẩn bị tốt các nội dung để tổ chức thành công hội nghị thường niên Quảng Nam- Sê Kông năm 2014.
Tăng cường công tác nghiệp vụ, kỹ thuật đấu tranh phòng chống tội phạm, nhất là các đối tượng tội phạm nguy hiểm như buôn bán ma tuý, giết người, cướp tài sản, tội phạm vị thành niên, tội phạm công nghệ cao.
Thực hiện các nhiệm vụ bảo đảm an toàn giao thông, tổ chức giám sát tốc độ trên tuyến Quốc lộ IA đang thi công để giảm tai nạn giao thông đường bộ.
Tám là, chuẩn bị xây dựng kế hoạch và dự toán ngân sách nhà nước năm 2015; theo dõi diễn biến tình hình, dự báo khả năng thực hiện kế hoạch năm 2014 và đánh giá thực hiện 4 năm 2011-2014, bám sát kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2011-2015 để xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế xã hội và dự toán ngân sách năm 2015.
Đối với các dự án điều chỉnh, bổ sung, các công trình mới trong năm 2015 sử dụng nguồn vốn hỗ trợ theo mục tiêu; trái phiếu Chính phủ, cần phải chuẩn bị đầy đủ các thủ tục để gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính thẩm định nguồn vốn trước khi quyết định phê duyệt theo qui định./.