I. TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
1. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong tỉnh
Tổng sản phẩm trong tỉnh (GRDP) 6 tháng đầu năm 2018 theo giá so sánh 2010 ước thực hiện 13.715 tỷ đồng, tăng 7,39% so với cùng kỳ năm 2017. Trong đó khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản đạt 4.641 tỷ đồng tăng 8,23%, đóng góp 2,76 điểm phần trăm; khu vực công nghiệp - xây dựng đạt 4.161 tỷ đồng, tăng 8,24%, đóng góp 2,48 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ đạt 4.913 tỷ đồng, tăng 5,9%, đóng góp 2,15 điểm phần trăm.Về cơ cấu kinh tế 6 tháng đầu năm 2018, khu vực nông, lâm nghiệp, thuỷ sản chiếm 34,48%; khu vực công nghiệp - xây dựng chiếm 29,54%; khu vực dịch vụ chiếm 35,98%.
2. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
2.1. Nông nghiệp
2.1.1. Trồng trọt
Lúa Đông Xuân năm 2018: Kết thúc gieo trồng lúa Đông Xuân năm 2018, toàn tỉnh Trà Vinh gieo trồng đạt 66.418 ha, đạt 110,69% kế hoạch (kế hoạch 60.000 ha). So với cùng kỳ năm 2017 tăng 10,85% hay tăng 6.502 ha do thời tiết thuận lợi, không bị xâm nhập mặn như những năm trước giúp cây lúa sinh trưởng và phát triển tốt cho năng suất cao. Hơn nữa, giá lúa cũng ổn định trong thời gian gần đây nên ngoài diện tích gieo trồng theo kế hoạch thì diện tích nông dân tự phát gieo trồng cũng tăng lên, trong đó diện tích tự phát gieo trồng nhiều nhất là huyện Cầu Ngang 5.566 ha; huyện Duyên Hải 1.983 ha; huyện Châu Thành 45 ha và thành phố Trà Vinh 30 ha. Tuy nhiên, bên cạnh diện tích trồng lúa tự phát tăng thì một số ít diện tích lúa theo kế hoạch lại giảm do ảnh hưởng của thời tiết và xâm nhập mặn những năm trước nên nông dân chuyển diện tích trồng lúa kém hiệu quả sang trồng cây lâu năm cho hiệu quả kinh tế cao hoặc chuyển từ trồng lúa 03 vụ sang 02 vụ để giảm thiểu tổn thất.
Đến thời điểm tháng 6/2018, nông dân đã thu hoạch dứt điểm lúa vụ Đông Xuân đạt 100% diện tích gieo trồng, tăng 10,85% hay tăng 6.502 ha so với cùng kỳ năm trước. Năng suất thu hoạch đạt 67,1 tạ/ha, đạt 110,91% kế hoạch (kế hoạch 60,5 tạ/ha), so với cùng kỳ tăng 13,79% hay tăng 8,13 tạ/ha. Sản lượng thu hoạch đạt 445.658 tấn, tăng 26,14% hay tăng 92.362 tấn so với cùng kỳ năm trước. Năng suất và sản lượng lúa trong vụ Đông Xuân tăng khá so với cùng kỳ do thời tiết thuận lợi, không bị ảnh hưởng của xâm nhập mặn và tình hình dịch bệnh được kiểm soát tốt không ảnh hưởng nhiều đến sự phát triển của cây lúa. Hơn nữa, nông dân tuân thủ xuống giống đúng lịch thời vụ và đồng loạt cộng với các kênh nội đồng được cải tạo đảm bảo lượng nước tưới tiêu đầy đủ giúp cây lúa tăng trưởng. Bên cạnh đó, một số cánh đồng lớn sử dụng giống lúa đạt chất lượng và áp dụng khoa học kỹ thuật theo chương trình IPM ba giảm ba tăng.
Lúa Mùa năm 2018: Kết thúc diện tích gieo trồng lúa vụ Mùa 2018 đạt 1.697 ha, giảm 28,29% hay giảm 670 ha so cùng kỳ năm 2017, chủ yếu là huyện Châu Thành giảm 1.019 ha do nông dân chuyển đổi từ diện tích trồng lúa kém hiệu quả sang nuôi tôm càng xanh cho hiệu quả kinh tế cao, hơn nữa do gieo trồng lúa Mùa dài ngày hơn nên trước đó người dân đã tập trung trồng lúa Thu Đông 2017. Mặt khác, diện tích lúa ở một số địa phương tăng do gieo trồng tự phát hoặc áp dụng phương pháp sản xuất 01 vụ lúa cộng 01 vụ tôm nên làm cho diện tích lúa Mùa tăng như Thành phố Trà Vinh tăng 33 ha, huyện Cầu Ngang tăng 308 ha, huyện Trà Cú tăng 8 ha.
Tính đến thời điểm tháng 6/2018, nông dân đã kết thúc thu hoạch lúa vụ Mùa, đạt 100% diện tích gieo trồng. Năng suất thu hoạch đạt 43,32 tạ/ha, so với cùng kỳ năm 2017 giảm 4,21% hay giảm 1,91 tạ/ha. Sản lượng thu hoạch đạt 7.353 tấn, giảm 31,31% hay giảm 3.352 tấn so với cùng kỳ. Nguyên nhân giảm do diện tích gieo trồng giảm cộng với ảnh hưởng của mưa bão và áp thấp nhiệt đới trong thời gian lúa đồng trổ gây lem lép hạt và lúa bị ngập nước, làm cho cây sinh trưởng và phát triển kém cho năng suất và sản lượng thấp.
Lúa Hè Thu năm 2018: trong tháng 6 nông dân trong tỉnh tiếp tục gieo trồng lúa Hè Thu năm 2018, diện tích xuống giống ước đạt 72.750 ha, đạt 94,48% so với kế hoạch (kế hoạch 77.000 ha), giảm 1,68% hay giảm 1.243 ha so với cùng kỳ năm 2017 do diện tích gieo trồng tự phát trong vụ Đông Xuân năm 2018 nhiều làm cho thời gian kết thúc thu hoạch chậm hơn và kéo dài sang vụ Hè Thu 2018.
* Tình hình sâu bệnh, dịch bệnh:
Trong tháng 6 phát sinh 2.140 ha diện tích lúa Hè Thu bị nhiễm bệnh, chủ yếu là sâu cuốn lá, sâu đục thân gây hại rải rác do mưa nhiều về đêm làm cho độ ẩm cao nên sâu bệnh dễ phát sinh. Tuy nhiên, mật độ sâu bệnh thấp nên không ảnh hưởng nhiều đến sinh trưởng và phát triển của cây lúa. Trong thời gian tới, nông dân cần thường xuyên thăm đồng để phát hiện sâu bệnh, kịp thời phun xịt thuốc để tránh lây lan tren diện rộng.
- Cây màu vụ Đông Xuân 2018: Kết thúc gieo trồng cây màu vụ Đông Xuân năm 2018, toàn tỉnh gieo trồng được 26.116 ha cây màu các loại, so cùng kỳ năm trước giảm 1,99% hay giảm 531 ha. Diện tích cây màu giảm so cùng kỳ chủ yếu là diện tích mía do những tháng trước giá giảm thấp lại không có đầu ra nên nhiều diện tích mía vẫn chưa thu hoạch, từ đó nông dân chưa trồng mới trong vụ Đông Xuân năm 2018 hoặc một số hộ đã chuyển đổi sang trồng các loại cây khác đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn. Bên cạnh đó, diện tích bắp cũng giảm đáng kể do nhiều hộ bỏ vụ hoặc chuyển sang trồng đậu phộng hoặc loại cây khác.
Diện tích một số cây màu vụ Đông Xuân chủ yếu của tỉnh: bắp ước trồng được 2.137 ha, giảm 174 ha so với cùng kỳ năm 2017; khoai lang 615 ha, tăng 23 ha; khoai mì (sắn) 330 ha, giảm 1,47 ha; mía 2.230 ha, giảm 1.036 ha; đậu phộng (lạc) 3.523 ha, tăng 52 ha; lác (cói) 1.169 ha, tăng 5 ha; rau các loại 12.330 ha, tăng 284 ha;…
- Cây màu vụ Mùa 2018: Trong tháng 6 năm 2018, nông dân trong tỉnh tiếp tục xuống giống cây màu vụ Mùa ước đạt 5.105 ha, nâng tổng số diện tích gieo trồng đến nay ước đạt 9.178 ha, so cùng kỳ năm trước tăng 9,48% hay tăng 795 ha. Diện tích cây màu tăng chủ yếu ở nhóm cây thực phẩm do thời tiết thuận lợi cộng với giá rau các loại tăng nên sau khi thu hoạch vụ Đông Xuân nông dân tiếp tục cải tạo đất tập trung gieo trồng vụ Mùa. Bên cạnh đó, diện tích cây mía tăng so cùng kỳ do trong tháng mưa nhiều, độ ẩm trong đất tăng thuận lợi cho cây sinh trưởng và phát triển nên nông dân tập trung cải tạo đất trồng mía vụ Mùa để giảm chi phí tưới tiêu.
Diện tích một số cây màu vụ Mùa chủ yếu của tỉnh: bắp ước trồng được 406 ha, giảm 58 ha so với cùng kỳ năm 2017; khoai lang 91 ha, giảm 11 ha; khoai mì (sắn) 108 ha, giảm 10 ha; mía 2.208 ha, tăng 300 ha; đậu phộng (lạc) 422 ha, tăng 76 ha; lác (cói) 281 ha, tăng 5 ha; rau các loại 5.009 ha, tăng 558 ha;…
- Cây lâu năm: Trong 6 tháng đầu năm 2018, nông dân toàn tỉnh ước trồng được 39.834 ha cây lâu năm, tăng 2,9% hay tăng 1.124 ha so với cùng kỳ. Nguyên nhân diện tích tăng do không chịu ảnh hưởng của xâm nhập mặn và giá cả các loại trái cây luôn ở mức cao và ổn định nên các nhà vườn tập trung chăm sóc phát triển vườn cây ăn trái. Thêm vào đó, nhiều hộ nông dân đã chuyển đổi từ đất trồng lúa và hoa màu kém hiệu quả sang trồng cây lâu năm cho lợi nhuận cao hơn làm cho sản lượng một số cây lâu năm tăng so với cùng kỳ như: dừa ước đạt 129.532 tấn, tăng 6.729 tấn; cam ước đạt 30.044 tấn, tăng 1.663 tấn; bưởi ước đạt 5.551 tấn, tăng 138 tấn; thanh long ước đạt 1.281 tấn, tăng 168 tấn. Tuy nhiên có một số loại cây do ảnh hưởng của dịch bệnh và xâm nhập mặn năm trước đến nay không thể khôi phục được nên nhà vườn phải đốn bỏ vì thế sản lượng thu hoạch giảm như: xoài ước đạt 9.536 tấn, giảm 67 tấn; nhãn ước đạt 6.437 tấn, giảm 103 ha.
2.1.2. Chăn nuôi
Bước vào đầu năm 2018, tình hình chăn nuôi khả quan hơn so với cuối năm năm 2017 do thời tiết thuận lợi cho đàn vật nuôi phát triển, nhiều kỹ thuật và công nghệ mới được ứng dụng vào chăn nuôi, nhất là khâu lai tạo giống các loại vật nuôi đáp ứng nhu cầu thị trường. Thêm vào đó, từ tháng 3/2018 giá heo hơi đã tăng trở lại, đây là dấu hiệu đáng mừng cho người chăn nuôi heo. Bên cạnh những thuận lợi trên, người chăn nuôi trên địa nuôi tỉnh cũng gặp một số khó khăn như: thị trường tiêu thụ thịt hơi không ổn định trong khi nguồn cung thì dồi dào làm cho giá heo hơi và bò hơi biến động thất thường, người nuôi bị thua lỗ nhiều; công nghệ chăn nuôi theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá chưa được áp dụng rộng rãi trên địa bàn...
* Kết quả điều tra chăn nuôi 01/4/2018
Theo kết quả điều tra chăn nuôi thời điểm 01/4/2018, đàn trâu toàn tỉnh hiện có 634 con, giảm 130 con so với cùng thời điểm năm 2017 do cơ giới hoá nông nghiệp, môi trường chăn thả bị thu hẹp và hiệu quả kinh tế thấp.
Đàn bò có 208.023 con, so với cùng kỳ tăng 4,21% hay tăng 8.413 con, trong đó bò lai 198.164 con chiếm 95,26% tổng đàn bò, tăng 6,8% hay tăng 12.613 con. Đàn bò tăng so với cùng kỳ do tỉnh đã chỉ đạo chuyển đổi cơ cấu vật nuôi và cây trồng, tập trung phát triển đàn bò tăng về số lượng và nâng cao về chất lượng, các giống bò của địa phương được cải tạo dần, đàn bò lai ngày càng phát triển. Tuy nhiên, do những tháng đầu năm 2018 giá bò hơi giảm, nhiều hộ chăn nuôi bò bị thua lỗ nên chưa mạnh dạn tái đàn trở lại. Sản lượng thịt bò xuất chuồng ước đạt 4.521 tấn, giảm 3,39% hay giảm 159 tấn so với cùng kỳ năm trước, trọng lượng bình quân đạt 178 kg/con.
Đàn heo có 261.405 con, so cùng kỳ giảm 29,03% hay giảm 106.921 con. Đàn heo giảm do giá heo hơi sụt giảm ở mức thấp trong thời gian dài trong khi các chi phí chăn nuôi lại cao làm cho người nuôi không có lãi nên không mạnh dạn tái đàn trở lại. Sản lượng thịt heo hơi xuất chuồng đạt 28.043 tấn, giảm 0,49% hay giảm 137 tấn so với cùng kỳ, trọng lượng bình quân đạt 87,04 kg/con.
Đàn gia cầm có 4.810,4 nghìn con, tăng 13,09% hay tăng 556.894 con so với cùng kỳ, trong đó đàn gà có 3.384,8 nghìn con, chiếm 70,36% tổng đàn gia cầm, tăng 17,36% hay tăng 500,6 nghìn con do thị trường tiêu thụ thịt gà hơi ổn định, giá cao đem lại hiệu quả kinh tế cao nên người nuôi tiếp tục đầu tư mở rộng tăng đàn; đàn vịt 1.264,6 nghìn con, chiếm 26,29%, tăng 4,2% hay tăng gần 51 nghìn con do người nuôi áp dụng mô hình nuôi vịt đẻ trứng kết hợp nuôi cá theo hướng an toàn sinh học mang lại hiệu quả kinh tế cao.
* Tình hình chăn nuôi trong tháng 6/2018
Bước vào đầu tháng 6 năm 2018, tình hình chăn nuôi gia cầm gặp một số khó khăn do ảnh hưởng của những cơn mưa đầu mùa làm cho môi trường chăn thả bị ẩm ướt tạo điều kiện cho vi khuẩn phát triển làm cho gia cầm bị cúm chết ở một số địa phương chăn nuôi nhỏ, lẻ không tập trung. Ngoài ra, tình hình chăn nuôi heo vẫn chưa được cải thiện, tuy giá heo hơi đang trên đà tăng trở lại nhưng người nuôi vẫn chưa mạnh dạn đầu tư tái đàn vì chi phí đầu vào tiếp tục tăng cao. Bên cạnh những khó khăn trên, tình hình chăn nuôi của tỉnh cũng nhận được tín hiệu khả quan, giá bò hơi đang tăng trở lại những tháng gần đây nên đàn bò của tỉnh tiếp tục được đầu tư phát triển.
Kết quả ước số con gia súc, gia cầm hiện có trên địa bàn tỉnh trong tháng 6 năm 2018 như sau: đàn trâu có 632 con, giảm 122 con so với cùng kỳ do cơ giới hoá nông nghiệp, các cánh đồng sản xuất lúa tăng vụ làm cho môi trường chăn nuôi bị thu hẹp và cho hiệu quả kinh tế thấp; đàn bò có 208.620 con, tăng 6.960 con do tỉnh đang chủ trương thúc đẩy phát triển đàn bò nhằm cung cấp thực phẩm cho xã hội cộng với nông dân đầu tư nuôi bò vỗ béo kết hợp nguồn cỏ dồi dào với thức ăn công nghiệp nên bò phát triển nhanh, hơn nữa trong những tháng gần đây giá bò hơi đã tăng trở lại do đó người nuôi mạnh dạn tái đàn; đàn heo có 310.620 con, giảm 47.600 con do giá heo hơi sụt giảm ở mức thấp trong thời gian dài trong khi các chi phí chăn nuôi lại cao làm cho người nuôi không có lãi nên không mạnh dạn tái đàn trở lại, tuy trong thời gian gần đây giá heo hơi đã tăng trở lại nhưng người nuôi vẫn chưa yên tâm tái đàn trở lại do tâm lý sợ bị thua lỗ; đàn gia cầm có 4.795,6 nghìn con, tăng 442,4 nghìn con, trong đó đàn gà có 3.259,7 nghìn con, tăng 302,7 nghìn con do giá gà tăng và một số hộ nghèo, hộ cận nghèo của tỉnh được dự án AMD đầu tư nuôi gà cộng với xu hướng tự nuôi gà, trồng rau phục vụ nhu cầu ăn uống của các hộ gia đình tăng nên số lượng đàn gà cũng tăng lên.
2.2. Lâm nghiệp
Sản xuất lâm nghiệp 6 tháng đầu năm 2018 tập trung chủ yếu vào chăm sóc, khoanh nuôi, bảo vệ rừng đã trồng trong năm trước, không phát sinh diện tích rừng trồng mới. Tính từ đầu năm đến nay, diện tích rừng được chăm sóc ước đạt 713 ha, tăng 13,81%; diện tích rừng được giao khoán bảo vệ ước đạt 5.160 ha, giảm 0,07%; số cây lâm nghiệp trồng phân tán ước trồng được 1.484 nghìn cây, giảm 6,82%; ươm giống cây lâm nghiệp 104 nghìn cây, giảm 76,77%.
Trong tháng 6 năm 2018, sản lượng gỗ khai thác ước đạt 7.889 m3, tăng 653 m3 so với cùng kỳ năm trước; củi khai thác ước tính 41.953 ste, tăng 745 ste củi. Tính chung 6 tháng đầu năm 2018, sản lượng gỗ khai thác ước đạt 41.199 m3, tăng 713 m3 so với cùng kỳ năm trước; củi khai thác ước tính 212.549 ste, tăng 1.121 ste củi. Sản lượng gỗ khai thác tăng do một số loại cây gỗ đã đến thời kỳ khai thác như tràm bông vàng, còng, mù u, cây bàng cộng với tận thu gỗ phi lao bị sạt lỡ do triều cường, gió bão. Riêng sản lượng củi tăng do hộ tận thu củi từ cải tạo vườn tạp kém hiệu quả sang trồng cây ăn trái.
Trong tháng, Chi cục kiểm lâm kết hợp với các Trạm hạt kiểm lâm thường xuyên tổ chức tuần tra bảo vệ rừng, phát hiện 03 vụ chặt phá rừng gây thiệt hại 0,13 ha, nâng tổng số đến nay đã phát hiện 4 vụ chặt phá rừng gây thiệt hại 0,21 ha, tăng 01 vụ và 0,13 ha so với cùng kỳ 2017. Ngoài ra, các cơ quan chức năng tiếp tục tuyên truyền vận động nhân dân nâng cao ý thức bảo vệ, chăm sóc và phòng chống cháy rừng.
2.3. Thủy sản
Trong 6 tháng đầu năm 2018 tình hình nuôi trồng thuỷ sản gặp nhiều thuận lợi, nhất là thời tiết trên biển thuận lợi cho ngư dân ra khơi. Đồng thời, luôn được sự quan tâm chỉ đạo của các cấp, ngành liên quan, hướng dẫn ngư dân phát triển đánh bắt xa bờ, gắn với nâng cấp cải hoán tàu khai thác, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật mới vào khai thác thủy sản giúp ngư dân ra khơi dài ngày hơn. Sản lượng thủy sản tháng 6 năm 2018 ước đạt 19.108 tấn, giảm 0,32% hay giảm 61 tấn so với cùng tháng năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm 2018, sản lượng thuỷ sản ước đạt 77.006 tấn, tăng 5,25% hay tăng 3.841 tấn so với cùng kỳ năm trước, trong đó: cá đạt 39.206 tấn, giảm 5,51% hay giảm 971 tấn, tôm đạt 21.604 tấn, tăng 29% hay tăng 4.857 tấn.
2.3.1. Nuôi trồng thủy sản
Sản lượng nuôi trồng thủy sản tháng 6 năm 2018 ước đạt 12.324 tấn tôm, cá các loại, giảm 13,8% hay giảm 1.968 tấn so cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 7.750 tấn, tăng 22,67% hay 1.432 tấn; tôm đạt 3.939 tấn, giảm 45,3% hay giảm 3.266 tấn. Tính chung từ đầu vụ đến tháng 6 năm 2018, sản lượng thu hoạch ước đạt 40.542 tấn, tăng 3,53% hay tăng 1.381 tấn so với cùng kỳ năm trước, trong đó: cá đạt 22.892 tấn, giảm 10,56% hay giảm 2.703 tấn; tôm đạt 15.517 tấn, tăng 42,2% hay tăng 4.605 tấn. Sản lượng tăng chủ yếu là sản lượng tôm do giá cao, ít dịch bệnh nên nông dân đã đầu tư mở rộng diện tích thả nuôi. Bên cạnh đó, con tôm giống trước khi thả nuôi cũng được kiểm soát dịch bệnh tốt hạn chế thiệt hại cộng với nuôi tôm thâm canh được đầu tư chăm sóc đúng kỹ thuật làm tăng năng suất thu hoạch. Tuy nhiên, từ thời điểm đầu năm đến nay sản lượng cá các loại có xu hướng giảm do diện tích cá tra trên địa bàn hiện cho thu hoạch ít vì chưa đạt trọng lượng thương phẩm cùng với giá các loại thuỷ sản khác luôn ở mức thấp không có lợi nhuận, người nuôi lưu lại hồ để chờ giá nên sản lượng không nhiều so với cùng kỳ năm 2017.
Sản lượng một số loại thủy sản nuôi trồng chủ yếu của tỉnh trong 6 tháng đầu năm 2018: tôm sú 3.960 tấn, tăng 800 tấn so với cùng kỳ; tôm thẻ chân trắng 11.075 tấn, tăng 3.360 tấn; tôm càng xanh 483 tấn, tăng 445 tấn; cá lóc 12.746 tấn, giảm 1.132 tấn; cua biển 1.740 tấn, giảm 30 tấn; cá tra 4.667 tấn, giảm 745 tấn.
Tình hình thả nuôi thủy sản vùng nước lợ, 6 tháng đầu năm 2018 trên địa bàn tỉnh đã có 29.408 lượt hộ thả nuôi hơn 4.362 triệu con giống tôm, cua giống các loại trên 25.451 ha; so với cùng kỳ năm trước số lượt hộ thả nuôi tăng 4,36%, con giống tăng 11,02% và diện tích tăng 2,39%. Trong đó: tôm sú ước tính có 16.360 lượt hộ thả nuôi hơn 1.223 triệu con giống trên 18.637 ha diện tích; tôm thẻ chân trắng có 12.198 lượt hộ thả nuôi hơn 2.949 triệu con giống trên 4.919 ha; cua biển ước tính có 825 lượt hộ thả nuôi hơn 190 triệu con giống trên 1.032 ha. Số hộ, con giống và diện tích nuôi tăng do đầu ra ổn định, giá cao cộng với thời tiết thuận lợi và tình hình dịch bệnh được kiểm soát tốt, sản lượng thu hoạch đạt khá nên người nuôi mạnh dạn đầu tư mở rộng diện tích nuôi. Tuy nhiên, cũng đã có một số hộ bị thiệt hại, tính đến nay đã có 891 hộ nuôi tôm sú bị thiệt hại hơn 77,5 triệu con giống trên 347 ha diện tích; tôm thẻ chân trắng có 2.529 hộ bị thiệt hại gần 515 triệu con giống trên 877 ha. Trong đó, thiệt hại nhiều nhất là huyện Cầu Ngang chiếm 60,4%, Thị xã Duyên Hải chiếm 21,9%. Theo đánh giá của các ngành chuyên môn, tôm chết do thời tiết biến đổi thất thường, con giống chất lượng kém, bị bệnh hội chứng gan tụy cấp, bệnh đốm trắng, việc quản lý môi trường nước cũng như phòng dịch bệnh gặp nhiều khó khăn.
Đối với vùng nước ngọt, tính từ đầu năm đến tháng 6 năm 2018 đã có 5.882 lượt hộ thả nuôi hơn 118,8 triệu con tôm, cá giống các loại trên 1.522 ha diện tích. So với cùng kỳ năm trước, số lượt hộ thả nuôi tăng 23,13%, số con giống tăng 20% và diện tích thả nuôi tăng 64,97%. Nguyên nhân tăng do trong tháng 5 và tháng 6 lượng mưa nhiều thuận lợi cho thả nuôi thuỷ sản nước ngọt nên nhiều hộ đang tập trung cải tạo ao hồ thả nuôi. Trong đó, có 4.157 lượt hộ thả nuôi cá các loại gần 20 triệu con giống trên 579 ha; 831 hộ thả nuôi cá lóc hơn 59 triệu con giống trên 125 ha; 855 hộ thả nuôi tôm càng xanh gần 30 triệu con giống trên 777 ha.
2.3.2. Khai thác thủy hải sản
Sản lượng khai thác thủy hải sản tháng 6 năm 2018 ước tính đạt 6.784 tấn, tăng 39,1% hay tăng 1.907 tấn so với tháng cùng kỳ năm 2017. Tính chung 6 tháng đầu năm 2018, sản lượng khai thác ước đạt 36.464 tấn, tăng 7,24% hay tăng 2.461 tấn so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: khai thác hải sản biển đạt 31.795 tấn, tăng 7,14% hay tăng 2.119 tấn; khai thác nội địa đạt 4.669 tấn, tăng 7,9% hay tăng 342 tấn. Sản lượng khai thác hải sản tăng do thời tiết ổn định, những tháng trước nhiều tàu có công suất nhỏ khai thác gần bờ không hiệu quả nên đã cải tạo, nâng công suất lên để tham gia khai thác xa bờ, do đó sản lượng thu hoạch đạt khá hơn. Riêng sản lượng khai thác nội địa tăng do không bị ảnh hưởng của xâm nhập mặn và mực nước trong các ao hồ, sông, rạch luôn ở mức cao thuận lợi cho các loài thuỷ sản phát triển; đồng thời, địa phương cũng khuyến cáo bà con nông dân tránh sử dụng các ngư cụ khai thác làm huỷ diệt nguồn lợi thuỷ sản.
2.4. Tình hình chuyển đổi diện tích trồng lúa kém hiệu quả sang các loại cây trồng vật nuôi khác
Tính từ đầu năm đến tháng 6 năm 2018, trên địa bàn tỉnh Trà Vinh đã chuyển đổi được 893 ha đất trồng lúa kém hiệu quả, trong đó trồng cây hàng năm được 601 ha, cây ăn trái được 89 ha, cây dừa được 28 ha, nuôi trồng thuỷ sản được 35 ha, chuyên nuôi thuỷ sản được 140 ha.
3. Sản xuất công nghiệp
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng 6 năm 2018 ước tính giảm 7,01% so với tháng trước, nhưng tăng 26,8% so với tháng cùng kỳ năm trước. Trong đó: ngành chế biến, chế tạo tăng 16,42% so với tháng cùng kỳ năm 2017; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt tăng 32,37%; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 6,98%; riêng ngành công nghiệp khai khoáng giảm chỉ còn 34,59%.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2018, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp ước tính tăng 6,75% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành chế biến, chế tạo tăng 3,66% do một số ngành sản xuất thuận lợi vì nguồn nguyên liệu đầu vào khá dồi dào cùng với giá nguyên liệu giảm mạnh, một số ngành sản xuất tăng như: ngành dệt tăng 10,33%, ngành may mặc tăng 6,9%, ngành chế biến thuỷ sản tăng 11,96%, riêng ngành sản xuất đường giảm 8,06% và ngành sản xuất da và các sản phẩm có liên quan giảm giảm 9,82% do công ty cổ phần Mía đường Trà Vinh và Công ty TNHH giày da Mỹ Phong sản xuất giảm vì thiếu đơn hàng từ các đối tác; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt tăng 8,41%, chủ yếu tăng ngành sản xuất điện, sản phẩm điện sản xuất tăng 7,53% nhưng mức tăng này vẫn thấp hơn so với kế hoạch đề ra, ước 6 tháng đầu năm 2018 nhà máy Nhiệt điện sản xuất chỉ đạt 41,72% kế hoạch do trong quá trình sản xuất thường xuyên gặp sự cố nên phải tạm ngừng sản xuất để sửa chữa; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 5,18%, chủ yếu tăng ngành sản xuất nước sinh hoạt ước đạt 11.764 nghìn m3, tăng 1.084 nghìn m3. Riêng ngành khai khoáng giảm chỉ 29,94% so với cùng kỳ năm trước do 6 tháng đầu năm 2018 không còn cơ sở khai thác đất nào được cấp phép hoạt động nhằm để bảo vệ diện tích đất nông nghiệp và ngành khai thác muối cũng giảm do một số nguồn nước bị ô nhiễm nên không tiếp tục khai thác muối được.
Chỉ số tiêu thụ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tính chung 6 tháng đầu năm 2018 tăng 17,8% so với cùng kỳ năm trước. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng như: ngành chế biến thực phẩm tăng 39,13%; ngành dệt tăng 35,42%; ngành sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 61,48%; sản xuất thiết bị điện tăng 15,56%.
Chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tính đến cuối tháng 5/2018 giảm 11,99% so với cùng thời điểm năm trước. Một số ngành có chỉ số tồn kho giảm như: ngành chế biến thực phẩm giảm 27,45%; ngành dệt chỉ còn 23,82%. Bên cạnh đó, một số ngành có chỉ số tồn kho tăng như: ngành sản thuốc hóa dược và dược liệu tăng 2,69%; ngành sản xuất thiết bị điện tăng 19,86% do 2 ngành này sản xuất tăng mạnh so với cùng kỳ nên làm cho sản phẩm tồn kho còn nhiều.
Chỉ số sử dụng lao động của các doanh nghiệp tại thời điểm 01/6/2018 giảm 5,94% so với cùng thời điểm năm trước do Công ty TNHH giày da Mỹ Phong giảm 2.874 lao động.
4. Hoạt động của doanh nghiệp
4.1. Tình hình đăng ký doanh nghiệp
Trong 6 tháng đầu năm 2018, toàn tỉnh có 170 doanh nghiệp, 468 đơn vị trực thuộc đăng ký mới với tổng vốn đăng ký là 552 tỷ đồng và 1.051 lao động. Đồng thời có 28 doanh nghiệp và 01 chi nhánh ngừng hoạt động quay trở lại hoạt động. Bên cạnh đó có 616 doanh nghiệp, chi nhánh và địa điểm kinh doanh, 09 quỹ tín dụng bổ sung 143 tỷ đồng.
Tuy nhiên đã có 26 doanh nghiệp và 58 chi nhánh hoàn tất thủ tục giải thể, 203 doanh nghiệp và 24 chi nhánh bị cảnh cáo, vi phạm hoặc bị thu hồi giấy phép. Ngoài ra, có 32 doanh nghiệp và 10 đơn vị trực thuộc tạm ngừng hoạt động.
4.2. Xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp
Theo kết quả điều tra về xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý 2 năm 2018 cho thấy: Có 45,28% số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh quý 2 năm nay khả quan hơn quý trước; 32,08% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh ổn định và 11,32% số doanh nghiệp đánh giá gặp khó khăn. Dự kiến quý 3 so với quý 2 năm nay, có 49,06% số doanh nghiệp đánh giá xu hướng sẽ tốt lên; 39,62% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh sẽ ổn định và 9,43% số doanh nghiệp dự báo khó khăn hơn.
5. Thương mại, dịch vụ và giá cả
5.1. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Hoạt động thương mại và dịch vụ trong những tháng đầu năm 2018 tiếp tục có xu hướng tăng khá so với cùng kỳ. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 6 năm 2018 ước đạt 1.868 tỷ đồng, tăng 6,84% so với tháng cùng kỳ năm 2017. Tính chung 6 tháng đầu năm 2018, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 11.786 tỷ đồng, tăng 12,13% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó:
Doanh thu bán lẻ hàng hóa ước đạt 7.971 tỷ đồng, chiếm 67,63% tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ, tăng 12,38% so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu tăng nhóm lương thực thực phẩm tăng 12,34%, hàng may mặc tăng 10,99%, đồ dùng dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 14,23%, xăng dầu các loại tăng 11,37%. Nguyên nhân doanh thu bán lẻ hàng hóa 6 tháng đầu năm 2018 tăng khá so với cùng kỳ do tình hình sản xuất kinh doanh của người dân ngày càng được cải thiện nên nhu cầu mua sắm hàng hóa tăng cao, nhất là trong dịp tết Nguyên Đán, Tết Chôl-Chnăm-Thmây của đồng bào dân tộc Khmer và các ngày lễ lớn trong 6 tháng đầu năm 2018.
Doanh thu hoạt động dịch vụ lưu trú, ăn uống ước đạt 1.786 tỷ đồng, chiếm 15,15% tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ, tăng 0,76% so với cùng kỳ và doanh thu hoạt động du lịch lữ hành ước đạt 5.199 tỷ đồng, chiếm 0,04%, tăng 2,44% do kết thúc mùa vụ nông nghiệp trúng mùa, trúng giá cộng với hội chợ tuần lễ ẩm thực nên nhu cầu ăn uống, du lịch của người dân cũng tăng, đặc biệt giá heo hơi cũng đang trên đà tăng trở lại là một dấu hiệu đáng mừng cho người chăn nuôi heo của tỉnh trong thời gian tới.
Doanh thu dịch vụ khác đạt 1.672 tỷ đồng, chiếm 16,34% tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ, tăng 23,35% so với cùng kỳ, tăng chủ yếu nhóm ngành: hoạt động kinh doanh bất động sản tăng 34,59%; dịch vụ hành chính và dịch vụ hỗ trợ tăng 57,01%; hoạt động sửa chữa đồ dùng cá nhân và gia đình tăng 23,33% do các dịch vụ giấy tờ hành chính pháp lý, dịch vụ sổ xố kiến thiết, vui chơi giải trí diễn ra mạnh nên các nhu cầu dịch vụ tăng cao.
Nhìn chung, hoạt động thương mại và dịch vụ ước 6 tháng đầu năm 2018 tăng khá so với cùng kỳ năm 2017, tăng chủ yếu là hoạt động bán lẻ và dịch vụ khác do tình hình sản xuất kinh doanh của người dân ngày càng được cải thiện nên nhu cầu trao đổi hàng hoá tăng. Bên cạnh đó, giá cả trên thị trường khá ổn định, đặc biệt là công tác quản lý thị trường luôn được tăng cường, hàng hóa thường xuyên kiểm tra chất lượng, tránh được tình trạng hàng giả, hàng kém chất lượng đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm nên người dân yên tâm mua sắm.
5.2. Giao thông vận tải
Dự ước doanh thu vận tải hàng hoá, hành khách 6 tháng đầu năm 2018 ước đạt 688.018 triệu đồng, tăng 7,2% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, doanh thu vận tải hành khách ước đạt 259.918 triệu đồng, tăng 3,7%; doanh thu vận tải hàng hóa ước đạt 402.490 triệu đồng, tăng 9,03%; doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải ước đạt 5.611 triệu đồng, tăng 66,21%. Nguyên nhân tăng do vận tải đường thủy phục vụ cho san lắp mặt bằng diễn ra mạnh, đồng thời các chuyến xe được tăng cường nhằm phục vụ nhu cầu đi lại và du lịch của hành khách trong dịp nghỉ lễ tết kéo dài cùng với nhu cầu mua sắm, sửa chữa phục vụ đời sống thiết yếu trong dịp nghỉ lễ cũng tăng. Thêm vào đó, vào tháng 6 đã bắt đầu mùa mưa người dân hạn chế đi lại bằng phương tiện cá nhân mà chọn vận chuyển bằng phương tiện công cộng, từ đó thúc đẩy vận chuyển bằng phương tiện vận tải tăng. Ngoài ra, cước phí vận tải trong 6 tháng đầu năm 2018 tăng hơn so với cùng kỳ năm trước do giá xăng dầu tăng. Tuy nhiên, mức tăng trưởng trên không cao do phương tiện cá nhân ngày càng tăng lên và nhiều loại hình du lịch tự do đang dần phổ biến.
Tính từ đầu năm đến tháng 6/2018, vận tải hành khách ước tính đạt 9.268 nghìn lượt khách, tăng 7,64% so với cùng kỳ năm 2017 và 459,3 triệu khách.km, tăng 3,3%, bao gồm: vận tải hành khách đường bộ ước đạt 6.505,7 nghìn lượt khách, tăng 4,05% và 430,6 triệu lượt khách.km, tăng 2,77%; vận tải hành khách đường sông ước tính đạt 2.762 nghìn lượt khách, tăng 17,17% và 28,7 triệu lượt khách.km, tăng 12,05%.
Vận tải hàng hóa 6 tháng đầu năm 2018 ước tính 5.606,3 nghìn tấn, tăng 8,07% so với cùng kỳ năm trước và 474,4 triệu tấn.km, tăng 7,31%, bao gồm: vận tải hàng hóa đường bộ ước đạt 3.107 triệu tấn, tăng 9,41% và 147,2 triệu tấn.km, tăng 13,5%; vận tải hàng hóa đường sông ước tính đạt 2.499 nghìn tấn, tăng 6,44% và 327,2 triệu tấn.km, tăng 4,74%.
II. ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ, KIỀM CHẾ LẠM PHÁT
1. Đầu tư phát triển
Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội 6 tháng đầu năm 2018 ước đạt 8.175 tỷ đồng, đạt 37,16% kế hoạch năm, giảm 0,56% so với cùng kỳ năm trước do các dự án Nhà máy Nhiệt điện Duyên Hải giá trị thực hiện chỉ bằng 74,11% giá trị 6 tháng đầu năm 2017. Trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội, vốn đầu tư của khu vực Nhà nước ước thực hiện 5.051 tỷ đồng, chiếm 61,78% tổng vốn và giảm 5,33% so với cùng kỳ năm trước; khu vực ngoài Nhà nước ước thực hiện 2.916 tỷ đồng, chiếm 35,67% tổng vốn, tăng 3,66% do tập đoàn Hoàng Quân đang triển khai xây dựng 1.233 căn nhà phố liên kế cùng các công trình phụ trợ khác như trường học, công viên, phòng khám cộng với nhiều đường hẻm được nâng cấp từ dự án nâng cấp đô thị và đáp ứng tiêu chí trở thành đô thị loại 2, từ đó người dân có xu hướng xây mới, sửa chữa nhà cũng như đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất kinh doanh theo những khu đô thị mới mở hoặc nâng cấp; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ước thực hiện 208,3 tỷ đồng, chiếm 2,55% tổng vốn, tăng gấp 2,9 lần do đang mở rộng nhà máy Nhiệt điện Duyên Hải 3 và dự án nhà máy Nhiệt điện Duyên Hải 2.
2. Tài chính, ngân hàng
2.1. Thu, chi ngân sách
Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến giữa tháng 6 năm 2018 ước tính được 5.470 tỷ đồng, đạt 60,11% dự toán năm 2018 và tăng 40,72% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, thu nội địa ước được 1.892 tỷ đồng, đạt 54,89% kế hoạch và tăng 18,67%; thu bổ sung từ ngân sách cấp trên 3.218 tỷ đồng, bằng 57,69%; thu từ ngân sách cấp dưới ước đạt 1.220 tỷ đồng. Trong tổng thu nội địa, thu từ kinh tế quốc doanh đạt 476 tỷ đồng, bằng 49,63% kế hoạch; thu từ khu vực công thương nghiệp - ngoài quốc doanh 169 tỷ đồng, bằng 42,76%; thuế thu nhập cá nhân 157 tỷ đồng, bằng 58,11%.
Tổng chi ngân sách nhà nước từ đầu năm đến giữa tháng 6 năm 2018 ước tính đạt 3.703,7 tỷ đồng, bằng 42,21% dự toán năm 2018, trong đó chi đầu tư phát triển đạt 961 tỷ đồng, bằng 31,81%; chi thường xuyên đạt 2.516 tỷ đồng, bằng 49,98%.
2.2. Hoạt động ngân hàng
Tổng nguồn vốn hoạt động của các TCTD trên địa bàn đến 30/6/2018 ước đạt 27.300 tỷ đồng, tăng 6,95% so với cuối năm 2017; trong đó vốn huy động tại chỗ ước đạt 19.547 tỷ đồng, chiếm 71,6%/tổng nguồn vốn, tăng 7,43% so với cuối năm 2017.
Dư nợ cho vay của các TCTD trên địa bàn ước đến 30/6/2018 ước đạt 22.212 tỷ đồng, tăng 7,71% so với cuối năm 2017; trong đó, dư nợ ngắn hạn ước đạt 11.519 tỷ đồng, chiếm 52%/tổng dư nợ; dư nợ trung, dài hạn ước đạt 10.693 tỷ đồng, chiếm 48%/tổng dư nợ.
Tỷ lệ nợ xấu của các TCTD trên địa bàn ước đến cuối tháng 6 năm 2018 chiếm 1,2%/tổng dư nợ.
3. Chỉ số giá
3.1. Chỉ số giá tiêu dùng
Chỉ số giá tiêu dùng trên địa bàn tỉnh tháng 6/2018 tăng 0.82% so với tháng trước. Trong đó, nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 1.69%, tăng chủ yếu là các mặt hàng lương thực do tình hình xuất khẩu khả quan nên thương lái tăng cường thu mua, cùng với giá heo hơi đang trên đà tăng trở lại kéo theo giá heo giống cũng tăng làm cho lượng cung không đủ cầu cộng với nguồn cung heo hơi không đủ do thời điểm trước thu lỗ nhiều nên người nuôi không dám tái đàn, từ đó đã tạo ra cơn sốt về giá thịt heo hơi; ngoài ra, do thời tiết nắng nóng kéo dài đã ảnh hưởng đến năng suất của một số loại rau màu và cây ăn quả nên đẩy giá tăng cao. Bên cạnh đó, nhóm giao thông tăng 1,76% do giá vé tàu hoả được điều chỉnh tăng 7.41% và vé máy bay tăng 2.59%, giá các xăng và dầu tăng 2.36% so với tháng trước. Ngoài ra, nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,38% do giá gas tăng từ 15.000 – 20.000 đồng/bình; do nhu cầu bảo dưỡng nhà tăng nên người bán tự điều chỉnh giá thép tăng trong khi thị trường thép không biến động. Tuy nhiên, nhóm hàng hoá và dịch vụ khác giảm 0,05% do mặt hàng đồ trang sức giảm.
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 6/2018 tăng 3.48% so với tháng 12/2017 và tăng 8.05% so với tháng cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 6 tháng năm 2018 tăng 5,85% so cùng kỳ năm 2017.
3.2. Chỉ số giá vàng và đô la Mỹ
Chỉ số giá vàng tháng 6/2018 giảm 1,56% so với tháng trước do ảnh hưởng của giá vàng và giá đô la Mỹ trên thế giới. Hiện giá vàng bình quân trong tháng là 3.555.000 đồng/chỉ, giảm 61.000 đồng/chỉ so với tháng trước. So với tháng 12/2017 tăng 1.52% và so với cùng kỳ năm trước tăng 2.72%.
Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 6/2018 tăng 0.16% so với tháng trước. Hiện giá đồng USD bình quân trong tháng là 22.841 đồng/USD, tăng 37 đồng/USD. So với tháng 12/2017 tăng 0,38% và so cùng kỳ năm trước tăng 0,45%.
III. MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI
1. Lao động, việc làm và đời sống dân cư
1.1. Lao động, việc làm
Trong 6 tháng đầu năm 2018 tỉnh đã giải quyết việc làm cho 16.809 lao động và đưa 104 lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo hợp đồng. Đồng thời thông qua Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh cho vay gần 4,3 tỷ đồng, giải quyết việc làm cho 456 lao động. Bên cạnh đó Chương trình hỗ trợ cho vay đi làm việc ở nước ngoài đã giải ngân cho 51 hộ, với số tiền trên 3 tỷ đồng.
Ngoài ra, đã tiếp nhận và giải quyết 4.968 hồ sơ hưởng bảo hiểm thất nghiệp với tổng số tiền gần 39,6 tỷ đồng.
1.2. Đời sống dân cư
Trong 6 tháng đầu năm 2018 đời sống người dân nông thôn đã được cải thiện nhiều do tình hình sản xuất nông nghiệp, thủy sản được thuận lợi hơn, hầu hết nông dân đều tuân thủ theo đúng lịch thời vụ, hơn nữa tiến bộ khoa học công nghệ ngày càng được ứng dụng vào sản xuất của người nông dân, đặc biệt mô hình nuôi thủy sản công nghệ cao đang được nhiều người dân quan tâm và có xu hướng tiếp tục nhân rộng,... Tuy nhiên, hiện nay thị trường tiêu thụ các sản phẩm nông sản không ổn định, giá cả biến động thường xuyên, việc ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất tuy đã phát triển hơn trước nhưng nhìn chung vẫn còn chậm chưa đáp với nhu cầu thị trường đặt ra, đặc biệt là các thị trường xuất khẩu,... Do đó các ngành các cấp cần có các giải pháp ổn định đầu ra các sản phẩm cho người nông dân, chủ yếu là các mặt hàng nông sản và tập trung chuyển giao khoa học công nghệ, hỗ trợ sản xuất cho người dân để cuộc sống người dân nông thôn không ngừng được nâng lên.
Riêng đối với tình hình đời sống cán bộ, công chức và người lao động hưởng lương ngày càng ổn định hơn, nhờ chính sách tiền lương được điều chỉnh kịp thời cho phù hợp với trình độ, năng lực của người lao động góp phần cải thiện đời sống cán bộ, công chức. Tuy nhiên đối với những công chức, viên chức, người lao động mới vào làm việc thì mức lương khởi điểm hiện nay vẫn còn thấp so với nhu cầu cuộc sống.
2. Công tác an sinh xã hội
2.1. Công tác giảm nghèo
Qua kết quả rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2017, tổng số hộ nghèo toàn tỉnh giảm còn 23.078 hộ, chiếm tỷ lệ 8,41% (giảm 2,75% so với năm 2016), hộ nghèo dân tộc Khmer là 13.859 hộ, chiếm 15,70% so với tổng số hộ Khmer và chiếm 60,05% so với tổng số hộ nghèo toàn tỉnh. Số hộ cận nghèo giảm còn 23.808, chiếm tỷ lệ 8,68%, trong đó hộ cận nghèo dân tộc Khmer là 11.894 hộ, chiếm 13,47% so với tổng số hộ Khmer và chiếm 49,96% so với tổng số hộ cận nghèo toàn tỉnh.
2.2 Công tác Bảo trợ xã hội
Để tạo điều kiện cho mọi người dân đều được vui xuân, đón Tết tỉnh đã xuất nguồn đảm bảo an sinh xã hội hỗ trợ 23.078 hộ nghèo với tổng số tiền 6,9 tỷ đồng. Thêm vào đó, UBMTTQ các cấp, UBND các huyện, thị xã, thành phố, Trung tâm Bảo trợ xã hội, các Hội đặc thù vận động (tiền mặt và quà) hỗ trợ cho 23.808 hộ cận nghèo, 16.118 hộ nghèo, 10.097 đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn vui Xuân đón Tết, với tổng kinh phí trị giá khoảng 16,3 tỷ đồng.
Ngoài ra các cấp Hội trong tỉnh đã vận động, hỗ trợ thường xuyên các đối tượng bảo trợ xã hội với nhiều hình thức như: hỗ trợ 4 ca phẫu thuật tim cho bệnh nhân nghèo; sửa chữa, xây mới 28 căn nhà tình thương; tổ chức khám bệnh miễn phí; thăm và tặng quà,...
2.3. Thực hiện chính sách đối với người có công
Nhân dịp Tết Nguyên đán, tỉnh đã tổ chức thăm và tặng quà cho cho 26.026 người có công và thân nhân người có công, với kinh phí 7.856 triệu đồng. Đồng thời thành lập Đoàn thăm tặng quà cho 90 gia đình chính sách, hộ nghèo tại các huyện, thị xã, thành phố và tổ chức họp mặt mừng Đảng, Mừng xuân đã tặng quà cho 380 thân nhân liệt sỹ hy sinh trong cuộc tổng tiến công mùa Xuân năm 1968, với kinh phí 470 triệu đồng (mỗi phần quà 01 triệu đồng).
Ngoài ra, trong 6 tháng đầu năm 2018 tỉnh đã giải quyết chế độ thờ cúng liệt sỹ 553 trường hợp; chế độ người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học 44 trường hợp, người hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù đày 17 trường hợp. Giải quyết chế độ BHYT theo Quyết định 290, 62 và 49 của Thủ tướng Chính phủ cho 344 trường hợp; giải quyết chế độ mai táng phí cho 120 người có công với cách mạng từ trần. Tổ chức lễ phong tặng, truy tặng danh hiệu vinh dự nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng cho 41 mẹ (có 03 mẹ còn sống).
3. Giáo dục và đào tạo
Hiện nay tỉnh đang tiếp tục thực hiện công tác phổ cấp giá dục và xóa mẫu chữ đến từng địa phương. Tính đến nay, tỉnh có 9/9 huyện, thị xã, thành phố đạt chuẩn phổ cập mầm non trẻ 5 tuổi, phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 3, xóa mù chữ mức độ 3; 5 huyện, thị xã đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS mức độ 2 và 4 huyện, thành phố đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS mức độ 1.
Nhằm tạo sân chơi bổ ích và khuyến khích các học sinh, trong 6 tháng đầu năm 2018 tỉnh đã tổ chức một số Hội thi dành cho học sinh như: cuộc thi ứng dụng khoa học kỹ thuật dành cho học sinh trung học; kỳ thi học sinh sinh giỏi quốc gia tỉnh Trà Vinh, Hội thi vở sạch, chữ đẹp cấp tiểu học và THCS môn tiếng Khmer,...
4. Tình hình dịch bệnh và ngộ độc thực phẩm
4.1. Tình hình dịch bệnh
Trong tháng, trên địa bàn tỉnh phát hiện 06 ổ dịch sốt xuất huyết. Tính đến nay đã xảy ra 01 ổ dịch tay chân miệng và 28 ổ dịch sốt xuất huyết, hiện đã xử lý tất cả ổ dịch, không có tử vong.
4.2. Các bệnh truyền nhiễm gây dịch
Bệnh Tay chân miệng: Trong tháng phát hiện 19 ca, không có tử vong. Cộng đồn từ đầu năm phát hiện 76 ca, không có tử vong so với cùng kỳ năm trước số ca mắc bệnh giảm 306 ca, tử vong không tăng giảm.
Bệnh Sốt xuất huyết: Trong tháng phát hiện 39 ca, không có tử vong. Cộng đồn từ đầu năm phát hiện 207 ca, không có tử vong so với cùng kỳ năm trước số ca mắc bệnh giảm 324 ca và giảm 03 ca tử vong.
Tình hình nhiễm HIV/AIDS: trong tháng 5 phát hiện mới 11 người nhiễm HIV, không có bệnh nhân chuyển sang AIDS, số bệnh nhân tử vong là 01 người. Tính từ đầu năm đến ngày 31/5/2018, toàn tỉnh phát hiện 46 người nhiễm HIV, số bệnh nhân chuyển sang AIDS là 08 người, số bệnh nhân tử vong là 07 người. Tính từ ca đầu tiên đến ngày 30/1/2018, toàn tỉnh phát hiện 2.410 người nhiễm HIV, số bệnh nhân chuyển sang AIDS là 1.551 người, số bệnh nhân tử vong là 883 người.
5. Hoạt động văn hóa, thể thao
5.1. Hoạt động văn hóa
Trong 6 tháng đầu năm 2018, hoạt động văn hóa, nghệ thuật được tổ chức dưới nhiều hình thức như tổ chức “Mừng Đảng - Mừng Xuân” với chương trình Lễ hội đón Giao thừa Mậu Tuất năm 2018, gồm có chương trình biểu diễn văn nghệ, Lãnh đạo tỉnh đọc thư chúc Tết, chương trình bắn pháo hoa, được truyền hình trực tiếp trên sóng Phát thanh - Truyền hình tỉnh Trà Vinh và các hoạt động thông tin, tuyên truyền, kỷ niệm các ngày lễ lớn cùng với các sự kiện chính trị của địa phương được tổ chức một cách thiết thực, hiệu quả và tiết kiệm.
Công tác xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, đến nay toàn tỉnh đã có: 204.902/270.047 hộ đạt chuẩn “Gia đình văn hóa”; 787/816 “ấp-khóm văn hóa”; Có 21 xã đạt chuẩn “Văn hóa nông thôn mới”; 04 phường, thị trấn đạt chuẩn Văn minh đô thị ; 783/1.243 cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đạt chuẩn văn hóa
5.2. Thể thao
Phong trào thể dục thể thao diễn ra sôi nổi khắp các địa phương với nhiều hoạt động như: Đại hội thể dục thể thao tỉnh Trà Vinh; Hội khỏe phù đổng; các giải thể thao, giao lưu của các huyện, thị xã, thành phố và các Sở, ban ngành tỉnh với nhiều môn như: bóng đá, bóng chuyền, bóng bàn, cờ tướng, cầu lông, điền kinh,...
6. Tai nạn giao thông
Trong tháng 6/2018, trên địa bàn tỉnh xảy ra 04 vụ tai nạn giao thông đường bộ làm chết 03 người và bị thương 03 người. Tính chung 6 tháng đầu năm 2018, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 45 vụ tai nạn giao thông đường bộ, làm chết 36 người, bị thương 33 người; so với 6 tháng đầu năm 2017, giảm 09 vụ, 04 người chết và 22 người bị thương.
7. Tình hình cháy, nổ và bảo vệ môi trường
Trong tháng 6/2018 trên địa bàn tỉnh không xảy ra cháy, nổ. Tính chung 6 tháng đầu năm 2018, đã xảy ra 07 vụ cháy thiệt hại khoảng 1,34 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm 2017 giảm 07 vụ.
Ngoài ra, trong tháng 6/2018 các ngành chức năng đã phát hiện 66 trường hợp vi phạmv ề vệ sinh môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm, khai thác khoáng sản trái phép..., phạt tiền 6 trường hợp, số tiền 35,5 triệu đồng, giao ngành chức năng xử lý 13 trường hợp, còn lại tiếp tục làm rõ xử lý.
Trên đây, là những nét cơ bản về tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Trà Vinh 6 tháng đầu năm 2018./.
Website Cục thống kê Trà Vinh