Skip Ribbon Commands
Skip to main content
Ngày 02/01/2020-16:14:00 PM
Tình hình kinh tế xã hội năm 2019 của tỉnh Vĩnh Long

Kinh tế - xã hội năm 2019, năm bứt phá để hoàn thành kế hoạch phát triển 5 năm 2016 - 2020, diễn ra bối cảnh kinh tế thế giới có xu hướng tăng trưởng chậm lại với các yếu tố rủi ro, thách thức gia tăng. Chiến tranh thương mại ngày càng gay gắt, căng thẳng địa chính trị leo thang với sự tác động của chủ nghĩa dân túy và bảo hộ sản xuất, bảo hộ mậu dịch; cùng những thay đổi về địa chính trị là thách thức đối với kinh tế thế giới, ảnh hưởng tới kinh tế cả nước và từng địa phương.

Ở trong nước nói chung và tỉnh Vĩnh Long nói riêng, kinh tế tiếp tục chuyển biến tích cực; kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát ở mức thấp tạo môi trường khá tốt cho các địa phương, các ngành kinh tế phát triển. Tuy nhiên, nền kinh tế cũng đối mặt nhiều khó khăn, thách: biến đổi khí hậu, thiên tai, thời tiết diễn biến phức tạp ảnh hưởng đến năng suất cây trồng; dịch tả heo châu Phi, dịch lỡ mồm long móng trên đàn bò ngày càng lây lan trên diện rộng; … nhưng nhờ vào sự tập trung chỉ đạo của các cấp, các ngành, triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp trong các tháng cuối năm theo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, Chỉ thị của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh nên tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh có nhiều chuyển biến tích cực, đạt và vượt nhiều chỉ tiêu kế hoạch năm 2019 theo Nghị quyết của tỉnh đề ra.

Tăng trưởng kinh tế

Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) ước tính năm 2019 tăng 6,22% so với năm 2018, trong đó khu vực nông lâm nghiệp và thủy sản tăng 2% đóng góp 0,67 điểm phần trăm vào mức tăng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 12,54%, đóng góp vào mức tăng chung 2,34 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ tăng 6,8%, đóng góp 2,85 điểm phần trăm; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 6,04%, đóng góp 0,36 điểm phần trăm.

Tăng trưởng kinh tế năm 2019 cao hơn 0,02 điểm phần trăm so với mục tiêu kế hoạch (mục tiêu tăng 6,2%) và cao hơn 0,31 điểm phần trăm so với mức tăng trưởng của năm 2018.

Cơ cấu kinh tế của tỉnh năm 2019 tiếp tục có sự chuyển dịch đúng hướng nhưng tốc độ còn chậm. Trong cơ cấu tổng giá trị tăng thêm theo giá hiện hành năm 2019, tỷ trọng ngành nông lâm nghiệp và thủy sản (khu vực I) là 33,59%; ngành công nghiệp và xây dựng (khu vực II) là 20,49%; các ngành dịch vụ (khu vực III) là 45,92%. So với năm 2018, tỷ trọng khu vực I giảm 1,74 điểm phần trăm; khu vực II tăng 1,07 điểm phần trăm; khu vực III tăng 0,67 điểm phần trăm.

Sản xuất nông lâm nghiệp và thủy sản

Cây lúa, diện tích gieo trồng đạt 155.413 ha, giảm 3,98%; sản lượng đạt 908,3 nghìn tấn, giảm 6,32% so với năm 2018. Diện tích lúa giảm chủ yếu do chuyển đổi cơ cấu cây trồng, tăng cường đưa cây màu xuống ruộng, cải tạo và lập mới vườn cây ăn trái. Năng suất lúa vụ đông xuân giảm do sản xuất trong điều kiện thời tiết nắng nóng kéo dài, rầy nâu gây hại, thiếu nước trong giai đoạn đòng trổ; vụ hè thu gặp mưa to gây đổ ngã giai đoạn chắc xanh đến chín, ... khiến sản lượng cùng chất lượng gạo giảm sút khi thu hoạch; riêng vụ thu đông năng suất tăng do năm nay nước lũ thượng nguồn về trễ, thực hiện tốt khâu chọn giống nên hạn chế đổ ngã khi thu hoạch.

Diện tích gieo trồng cây màu cả năm 2019 đạt 59.644 ha, tăng 2.072 ha so với năm 2018; chủ yếu tăng ở các loại cây: rau các loại tăng 2.036 ha, trong đó nấm rơm tăng 668 ha; cây hằng năm khác tăng 660 ha, trong đó diện tích trồng cỏ voi tăng 614 ha; ... so với năm trước. Nhìn chung, diện tích cây màu vẫn ổn định do đặc điểm thời gian sinh trưởng ngắn, giá cả hợp lý, kỹ thuật canh tác không quá khó, có thể trồng xen trong vườn, trồng ven bờ bao, ... nhưng đạt hiệu quả kinh tế cao, giải quyết được lao động nông nhàn. Ngoài ra, gần đây do phong trào nuôi bò phát triển, diện tích trồng cỏ có xu hướng tăng lên đáp ứng nhu cầu cung cấp ổn định nguồn thức ăn chăn nuôi.

Sản lượng cây lâu năm đạt 643,3 nghìn tấn, tăng 12,57% so với năm trước; trong đó sản lượng trái cây đạt 514,8 nghìn tấn, tăng 15,21%. Nhờ áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, vườn cây lâu năm nhất là vườn cây ăn quả được xử lý ra hoa trái vụ đạt năng suất tương đương vụ thuận, cho hiệu quả kinh tế cao.

Đến ngày 12/12/2019, đã phát hiện 01 ổ dịch bệnh tai xanh và dịch tả cổ điển trên heo thuộc huyện Trà Ôn (đã tiêu hủy 35 con heo bệnh); 04 ổ dịch cúm gia cầm trên gà thuộc thành phố Vĩnh Long, huyện Long Hồ và huyện Tam Bình (đã tiêu hủy 4.850 con gà bệnh); 115 ổ dịch lở mồm long móng trên bò với 421 con bò bệnh (đã chết và tiêu hủy 51 con) thuộc các huyện Trà Ôn, Tam Bình, Vũng Liêm và thị xã Bình Minh; 1.425 ổ dịch tả heo Châu Phi thuộc 08 huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh (đã tiêu hủy 35.035 con heo bệnh). Các ngành chức năng đang tích cực khống chế ổ dịch, thực hiện các biện pháp phòng chống dịch theo đúng quy định. Ước tính đến 15/12/2019, đàn heo của tỉnh hiện có 201.895 con, giảm 46,11% so cùng kỳ năm trước; đàn trâu có 100 con, giảm 15,97%; đàn bò có 94.035 con, tăng 1,21%; đàn gia cầm có 9.014,7 nghìn con, tăng 4,26%.

Sản lượng thủy sản nuôi trồng và khai thác đạt 134.604 tấn, tăng 6,61% so với năm 2018; trong đó thủy sản nuôi trồng đạt 127.908 tấn, tăng 7,09%. Riêng cá tra nuôi công nghiệp đạt 87.175 tấn, tăng 8,12%.

Sản xuất công nghiệp

Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp cả năm 2019 ước tính tăng 15,11% so với năm trước; trong đó ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục đạt mức tăng cao nhất (tăng 15,33%), đóng góp 14,59 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung của toàn ngành; ngành sản xuất, phân phối điện, khí đốt tăng 12,61%, đóng góp 0,38 điểm phần trăm; cung cấp nước, quản lý và xử lý nước thải, rác thải tăng 11,72%, đóng góp 0,23 điểm phần trăm; riêng ngành khai khoáng giảm 18,04%, đã tác động kéo giảm IIP chung 0,09 điểm phần trăm.

Một số ngành công nghiệp có mức sản xuất trong năm 2019 tăng khá so với năm 2018 như: Sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 33,38%; sản xuất trang phục tăng 33,03%; sản xuất sản phẩm thuốc lá tăng 21,13%; sản xuất chế biến thực phẩm tăng 20,02%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 23,77%; sản xuất, truyền tải và phân phối điện tăng 12,88%; khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 11,11%; chế biến gỗ và sản phẩm từ gỗ, tre, nứa tăng 8,97%; ... Tuy nhiên, do khó khăn về nguồn nguyên liệu hoặc yếu thế cạnh tranh trên thị trường nên ngành sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm 18,57%; ngành sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu giảm 17,87%; ngành sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất giảm 9,65% và sản xuất phương tiện vận tải khác giảm 7,9%.

Vốn đầu tư và xây dựng

Giá trị sản xuất xây dựng theo giá hiện hành ước đạt 10.220 tỷ đồng, bao gồm: Khu vực nhà nước đạt 110 tỷ đồng, chiếm 1,08%; khu vực ngoài nhà nước 10.110 tỷ đồng, chiếm 98,92%. Giá trị sản xuất xây dựng theo giá so sánh 2010 tăng 7,2% so với năm 2018.

Tổng mức vốn đầu tư xây dựng cơ bản thực hiện thuộc kế hoạch vốn do Nhà nước địa phương quản lý ước thực hiện được 2.457 tỷ đồng, đạt 86,88% kế hoạch vốn giao năm 2019, giảm 5,9% so với năm trước. Tiến độ thực hiện vốn cao hơn cùng kỳ năm trước 6,9 điểm phần trăm.

Tổng vốn đầu tư phát triển theo giá hiện hành ước thực hiện 14.131 tỷ đồng, tăng 7,17% so với năm trước và đạt 102,4% chỉ tiêu cả năm 2019.

Có 13 dự án FDI được cấp phép mới và 01 dự án đăng ký bổ sung vốn với tổng số vốn là 119,2 triệu USD. So với năm 2018, số dự án được cấp phép mới tăng 06, số dự án đăng ký bổ sung vốn tăng 01; tổng số vốn đăng ký của các dự án FDI được cấp phép mới và đăng ký bổ sung vốn tăng 31 triệu USD.

Thương mại, dịch vụ và giá cả thị trường

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt đạt 52.113,5 tỷ đồng, tăng 12,54% so với năm 2018; trong đó bán lẻ hàng hóa tăng 12,61%, dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 11,92%, du lịch lữ hành tăng 12,95% và dịch vụ khác tăng 12,97%.

Tổng lượng khách du lịch theo tour đến tỉnh đạt đạt 144,6 nghìn lượt, tăng 12,24% so với năm 2018; trong đó khách quốc tế 73,4 nghìn lượt, chiếm trên 50% tổng lượng khách và tăng 12,56%.

Tổng kim ngạch xuất khẩu đạt đạt 577,3 triệu USD, tăng 17,07% so với năm 2018. Hầu hết các mặt hàng xuất khẩu có quy mô lớn của tỉnh đều tăng với tốc độ khá cao, trong đó: Giày da tăng 29,82%, đóng góp 16,96 điểm phần trăm; hàng dệt may tăng 45,01%, đóng góp 4,64 điểm phần trăm; sản phẩm mây, tre, cói và thảm tăng 9,22%, đóng góp 0,8 điểm phần trăm; hàng rau quả tăng 19,15%, đóng góp 0,48 điểm phần trăm; ...

Sau một năm (tức tháng 12/2019 so với tháng 12/2018) CPI tăng 5,18%, cao hơn tốc độ tăng CPI cùng kỳ 1,17 điểm phần trăm. CPI bình quân năm 2019 tăng 2,92% so với năm trước.

Tài chính - ngân hàng

Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn ước thực hiện được 7.158 tỷ đồng, đạt 115,99% dự toán năm và tăng 18,54% so với năm 2018. Tổng chi ngân sách ước thực hiện được 7.321 tỷ đồng, chỉ đạt 86,64% dự toán năm và giảm 9,92% so với năm 2018.

Đến cuối năm, số dư nguồn vốn huy động tăng 16,87%, trong đó tiền gửi tiết kiệm chiếm 72,5% trên tổng số dư nguồn vốn huy động và tăng 20,14%; tổng dư nợ cho vay tăng 17,22%, trong đó dư nợ cho vay trung dài hạn chiếm 44,8% tổng dư nợ cho vay và tăng 15,56%; tỷ lệ nợ xấu chiếm 1,01% trên tổng dư nợ cho vay và giảm 1,07 điểm phần trăm so với số đầu năm.

Một số vấn đề xã hội

Năm học 2018 - 2019: Bậc học mầm non tỷ lệ bé sạch, bé chăm, bé ngoan đạt và vượt chỉ tiêu đề ra. Bậc tiểu học đánh giá theo Thông tư số 30/2014/TT-BGDĐT và Thông tư số 22/2016/TT-BGDĐT về mức độ hình thành và phát triển phẩm chất đạt 99,92% , về mức độ hình thành và phát triển năng lực đạt 99,91%. Bậc trung học tỷ lệ học sinh phổ thông khá, giỏi ổn định so với năm học trước (trung học cơ sở 70,85%, trung học phổ thông 80,47%); tỷ lệ học sinh yếu, kém có xu hướng giảm (trung học cơ sở còn 1,56%, trung học phổ thông còn 0,64%); tỷ lệ công nhận tốt nghiệp trung học cơ sở đạt 99,91%, giảm 0,06 điểm phần trăm.

Các cơ sở y tế công lập đã khám và điều trị cho 3,53 triệu lượt người, trong đó có 3,05 triệu lượt người khám bảo hiểm y tế, chiếm 86,21%. Số trẻ em dưới 1 tuổi được tiêm chủng đầy đủ đạt 90,41%, phụ nữ có thai tiêm VAT 2+ đạt 94,1% so với kế hoạch. Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi xuống còn 12,7%. Tỷ lệ người tham gia bảo hiểm y tế đạt 87,4%.

Thể thao thành tích cao, tham dự các giải thể thao trẻ, vô địch cấp khu vực, toàn quốc và quốc tế đạt đạt 363 huy chương các loại (109 vàng, 117 bạc và 137 đồng); trong đó có 23 huy chương ở các giải quốc tế (10 vàng, 06 bạc và 07 đồng).

So với năm 2018, tai nạn giao thông đường bộ giảm 40 vụ, số người chết giảm 10, số bị thương giảm 56 người; tai nạn giao thông đường thủy số vụ giảm 02 vụ, số người chết giảm 01, thiệt hại tài sản giảm khoảng 1,34 tỷ đồng.

Thực hiện tốt chính sách đối với người có công và công tác an sinh xã hội. Tổ chức thăm và tặng 4.352 phần quà Tết cho trẻ em nghèo, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn với kinh phí gần 1,3 tỷ đồng. Tổ chức thăm và tặng quà Tết Trung thu cho 93.165 trẻ em với tổng kinh phí hơn 3,3 tỷ đồng. Phối hợp Đài Phát thanh - Truyền hình Vĩnh Long trao học bổng Trần Đại Nghĩa lần 2 năm học 2018 - 2019 và học bổng do tập đoàn Vingroup hỗ trợ cho 1.096 học sinh có hoàn cảnh khó khăn. Đưa 02 trẻ em tham dự chương trình “Cặp lá yêu thương” tại Hà Nội; 47 trẻ em học giỏi, có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn tham dự trại hè và tham quan, giao lưu tại Lâm Đồng. Tổ chức 58 lớp dạy bơi miễn phí cho 1.740 trẻ em. Tổ chức Tháng hành động vì trẻ em năm 2019 chủ đề “Trẻ em với các vấn đề về trẻ em”. Tổ chức Diễn đàn trẻ em cấp tỉnh và đưa 03 trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt tham dự Diễn đàn trẻ em quốc gia 2019 tại Hà Nội. Đến nay, tổng giá trị huy động, vận động Quỹ Bảo trợ trẻ em từ các nguồn lực được trên 4,9 tỷ đồng./.

    Tổng số lượt xem: 4063
  •  

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)