I. KINH TẾ
1. Nông nghiệp
a. Trồng trọt
* Sản xuất cây hàng năm
Nhìn chung, thời tiết năm nay tuy nắng nóng gay gắt đến sớm và kéo dài nhưng với sự chỉ đạo chặt chẽ của lãnh đạo các cấp, các ngành chức năng và sự nỗ lực của bà con nông dân nên cơ bản kết thúc gieo trồng các Vụ sản xuất đều đúng lịch thời vụ, hầu hết các địa phương gieo trồng hết diện tích. Theo đó, diện tích gieo trồng tăng, năng suất các loại cây trồng đạt cao hơn năm trước, một số cây giảm không đáng kể.
Diện tích gieo trồng cây hàng năm 84.171,8 ha, tăng 1,1% so với năm trước. Trong đó: Diện tích vụ Đông Xuân 47.889,7 ha, giảm 0,8%; diện tích vụ Hè Thu 35.788,1 ha, tăng 3,9%; diện tích vụ Mùa 494 ha, giảm 1,4% so với năm trước. Diện tích gieo trồng cây hàng năm tăng (chủ yếu tăng ở Vụ Hè Thu) là do đã chủ động triển khai tốt các giải pháp thủy lợi, đảm bảo công tác tưới tiêu nước phục vụ sản xuất.
Cụ thể diện tích gieo trồng các loại cây như sau: Cây lúa cả năm thực hiện 53.212,2 ha, so với cùng kỳ năm trước tăng 1,7%; Cây ngô và cây lương thực có hạt khác 4.351,7 ha, giảm 4,3%; cây lấy củ có chất bột 9.911,2 ha, giảm 0,1%; cây mía 191,6 ha, giảm 7,4%; cây thuốc lá, thuốc lào 2,8 ha, giảm 3,5%; cây lấy sợi 2,3 ha; cây có hạt chứa dầu 4.708,5 ha, giảm 9,8%; cây rau, đậu các loại và hoa 7.730 ha, tăng 5,5%; cây hàng năm khác 4.061,5 ha, tăng 10,8% so với năm trước.
Mặc dù thời tiết năm nay không thuận lợi nhưng nhờ sự quan tâm sớm tu sửa, nạo vét kênh mương nên hệ thống thủy lợi tưới tiêu nước được đảm bảo, thực hiện bố trí giống mới do tỉnh cung ứng, thực hiện các biện pháp canh tác SRI vào sản xuất, nhờ đó năng suất, sản lượng nhiều loại cây trồng tăng so với năm trước. Cụ thể năng suất một số cây trồng:
- Cây lúa cả năm đạt 51,34 tạ/ha, tăng 3,0%; cây ngô đạt 55,92 tạ/ha, tăng 6,5%; cây khoai lang đạt 74,83 tạ/ha, tăng 0,9%; cây sắn đạt 179,11 tạ/ha, giảm 0,9%; cây lạc đạt 22,32 tạ/ha, giảm 0,2%; cây vừng đạt 6,51 tạ/ha, tăng 1,6%; cây rau các loại đạt 105,43 tạ/ha, giảm 4,2%; cây đậu các loại đạt 8,48 tạ/ha, giảm 2,6% so với năm trước.
Tổng sản lượng lương thực cả năm 2020 đạt 297.282,5 tấn, so với năm trước tăng 4,5%. Sản lượng các loại cây trồng: Thóc 273.174,5 tấn, tăng 4,7%; ngô đạt 23.805 tấn, tăng 2%; khoai lang đạt 23.066,3 tấn, giảm 3,3%; sắn đạt 112.255 tấn, tăng 0,8%; lạc đạt 9.478,8 tấn, giảm 12,2% (do diện tích gieo trồng giảm); rau các loại đạt 64.250 tấn, giảm 0,1%; đậu các loại đạt 1.280 tấn, tăng 8,8% so với năm trước.
Sản xuất Đông Xuân năm 2020 - 2021
Triển khai sản xuất vụ Đông Xuân 2020 - 2021 trong điều kiện thời tiết vô cùng khó khăn. Trong tháng 10 và 11, nhiều đợt mưa lũ kéo dài và xuất hiện liên tiếp các cơn bão với cường độ mạnh đã gây nhiều trở ngại cho công tác chuẩn bị và triển khai gieo trồng các loại cây vụ Đông Xuân. Theo đó, tiến độ gieo trồng các loại cây đều chậm so với cùng kỳ năm trước.
Ước tính tháng 11, diện tích gieo trồng vụ Đông Xuân thực hiện 2.090 ha, giảm 25,8% so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể một số cây thực hiện như sau: Cây ngô 300 ha, giảm 23,1%; cây khoai lang 500 ha, giảm 41,2%; cây sắn 80 ha, giảm 46,7%; cây khoai các loại 8 ha; cây rau các loại 1.000 ha, giảm 16,7%; cây gia vị, dược liệu hàng năm 82 ha, giảm 3,5%; cây hàng năm khác 120 ha, giảm 11,1% so với cùng kỳ năm trước.
Hiện tại, các địa phương đang tập trung khắc phục hậu quả bão, lụt; đẩy nhanh tiến độ làm đất; thực hiện công tác chuẩn bị như giống, phân bón, triển khai tu sửa nạo vét kênh mương nhằm tạo thuận lợi thực hiện sản xuất vụ Đông Xuân 2020-2021. Trước mắt, tập trung triển khai sản xuất rau, màu vụ Đông (Đông Xuân sớm) nhằm thực hiện giải quyết vấn đề thiếu lương thực kỳ giáp hạt.
* Cây lâu năm
Năm 2020, sản xuất cây lâu năm phát triển khá so với năm trước. Các địa phương đã tập trung chỉ đạo kiểm tra, soát xét lại diện tích và tiến hành tiếp tục chăm sóc; đồng thời triển khai trồng mới một số cây có hiệu quả, phù hợp điều kiện tự nhiên. Theo đó, diện tích cây lâu năm tuy có giảm (giảm chủ yếu ở cây cao su, do nhiều hộ dân phá bỏ diện tích cây cao su bị gãy đổ do bão không khôi phục được) nhưng đã có sự chuyển dịch theo hướng mở rộng diện tích loại cây có thị trường tiêu thụ ổn định, hiệu quả kinh tế cao hơn.
Ước tính diện tích gieo trồng thực hiện 18.107,5 ha, giảm 4,1% so với năm trước. Diện tích cây lâu năm chia theo các nhóm cây như sau: Cây ăn quả 4.220,3 ha, tăng 3,7%; cây lấy quả chứa dầu 55,1 ha, tăng 2,4%; cây hồ tiêu 1.147,5 ha, tăng 0,4%; cây cao su 12.188,6 ha, giảm 7,2% so với năm trước.
Sản lượng một số cây chủ yếu: Cây hồ tiêu 1.002 tấn, tăng 2,9%; cây cao su 5.640 tấn, giảm 0,2% so với năm trước.
b. Chăn nuôi
Do lũ lụt trong tháng 10 kéo dài, cường độ mạnh nên nhiều gia súc, gia cầm bị chết hoặc trôi. Theo đó, tổng đàn và thịt hơi xuất chồng giảm so với tháng trước và tăng không đáng kể so với cùng kỳ năm trước.
Ước tính tổng đàn đầu tháng 11/2020: Đàn trâu 33.600 con, tăng 0,03%; đàn bò 101.200 con, giảm 1,0%; đàn lợn 241.961 con, tăng 3,6%; đàn gia cầm 4.952 ngàn con, tăng 4,7% so với cùng kỳ năm trước.
Ước tính sản lượng sản phẩm xuất chuồng tháng 11: Thịt trâu hơi 125 tấn, tăng 0,8%; thịt bò hơi 410 tấn, giảm 11,3%; thịt lợn hơi 3.156 tấn, giảm 16%; thịt gia cầm 2.030 tấn, giảm 9,1% so với cùng kỳ năm trước. Riêng thịt gà 1.120 tấn, giảm 15,8% so với cùng kỳ năm trước.
Ước tính sản lượng sản phẩm xuất chuồng 11 tháng: Thịt trâu hơi 1.831 tấn, tăng 1,8%; thịt bò hơi 6.341 tấn, tăng 2%; thịt lợn hơi 35.521 tấn, giảm 4,9%. thịt gia cầm 22.276 tấn, tăng 7,3% so với cùng kỳ năm trước. Riêng thịt gà 15.730 tấn, tăng 7,6%.
Nhìn chung, chăn nuôi cơ bản khá ổn định. Sau thời gian dài bị ảnh hưởng dịch tả lợn Châu Phi, hiện nay hoạt động sản xuất chăn nuôi lợn đang có xu hướng tăng trở lại. Đàn gà nuôi tập trung tăng cao tại các trang trại, gia trại nhằm đáp ứng thực phẩm tiêu dùng và duy trì sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, các tháng cuối năm thời tiết diễn biến phức tạp nên ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả sản xuất chăn nuôi cả năm.
2. Lâm nghiệp
Do ảnh hưởng thời tiết nên sản xuất lâm nghiệp gặp nhiều khó khăn, đặc biệt công tác triển khai chuẩn bị mặt bằng chậm tiến độ, cây giống lâm nghiệp bị lũ lụt hư hại khá nhiều. Khai thác gỗ từ rừng trồng chậm tiến độ do đường sá hư hại, vận chuyển gỗ trở ngại.
Ước tính tháng 11, diện tích rừng trồng mới tập trung thực hiện 1.250 ha, so với cùng kỳ năm trước chỉ bằng 62,5%; cây lâm nghiệp trồng phân tán thực hiện 720 ngàn cây, giảm 10%; sản lượng gỗ khai thác 50.000 m3,, bằng 94,3%; sản lượng củi khai thác 15.00 ste, tăng 1,3% so với cùng kỳ năm trước.
Ước tính 11 tháng, diện tích rừng trồng tập trung thực hiện 5.536 ha, tăng 0,6%; cây lâm ngiệp trồng phân tán 4.166,3 ngàn cây, giảm 1,2%; sản lượng gỗ khai thác 504.500 m3, giảm 1,2%,; sản lượng củi khai thác 330.000 ste, tăng 2,2% so với năm trước.
Hiện tại các chủ rừng đang tiến hành thực hiện việc phục hồi rừng sau lũ, lụt. Tiếp tục triển khai chuẩn bị đất, cây giống và thực hiện trồng rừng theo kế hoạch.
3. Thủy sản
Từ đầu tháng 10 đến giữa tháng 11, trên địa bàn tỉnh liên tiếp chịu tác động ảnh hưởng của thời tiết xấu nên hoạt động thủy sản gặp nhiều khó khăn. Mưa lũ dài ngày, liên tiếp xuất hiện nhiều cơn bão hoạt động trong khu vực nên hạn chế khả năng bám biển của bà con ngư dân; nhiều diện tích nuôi trồng thủy sản bị ngập gây thất thoát sản lượng thủy sản đến kỳ thu hoạch. Theo đó, sản lượng thủy sản thực hiện trong tháng 11 và cả 11 tháng có mức tăng đạt thấp.
Ước tính tổng sản lượng thủy sản tháng 11 thực hiện 5.215,2 tấn, tăng 4,1% so với cùng kỳ năm trước. Ước tính 11 tháng, tổng sản lượng thủy sản thực hiện 81.009,7 tấn, tăng 5,1% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng 11 tháng chia ra: Cá đạt 65.311,4 tấn, tăng 5,2%; tôm đạt 5.327,4 tấn, tăng 1,7%; thủy sản khác đạt 10.370,9 tấn, tăng 6,6% so với cùng kỳ năm trước.
a. Khai thác
Do ảnh hưởng của các cơn bão và áp thấp nhiệt đới nên thời tiết trong tháng có nhiều diễn biến phức tạp, thời gian ra khơi khai thác thủy sản của ngư dân giảm, theo đó sản lượng khai thác trong tháng có mức tăng thấp.
Ước tính tháng 11, sản lượng khai thác 4.420,7 tấn, tăng 4,9% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 11 tháng, sản lượng khai thác đạt 68.726,3 tấn, tăng 6,1% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng 11 tháng chia theo nhóm sản phẩm: Cá các loại 57.533,9 tấn, tăng 6,0%; tôm các loại 1.199,7 tấn, tăng 1,3%; thuỷ sản khác 9.992,7 tấn, tăng 7% so với cùng kỳ năm trước. Sản phẩm chia theo ngư trường khai thác: Khai thác biển 65.141,4 tấn, tăng 6,1%; khai thác nội địa 3.584,9 tấn, tăng 5,1% so với cùng kỳ năm trước.
b. Nuôi trồng
Ước tính tháng 11, sản lượng nuôi trồng thu hoạch 794,5 tấn, giảm 0,1% so với cùng kỳ năm trước. Ước tính 11 tháng, sản lượng thu hoạch 12.283,4 tấn, tăng 0,1% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng 11 tháng chia theo nhóm sản phẩm: Cá các loại 7.777,5 tấn, giảm 0,7%; tôm các loại 4.127,7 tấn, tăng 1,9%; thuỷ sản khác 378,2 tấn, giảm 2,4% so với cùng kỳ năm trước.
Tóm lại, sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản trong 11 tháng năm nay chịu ảnh hưởng nặng nề từ dịch bệnh và thiên tai. Ảnh hưởng của dịch tả lợn châu Phi kéo dài, dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp, bão lũ xuất hiện sớm với cường độ mạnh,… đã gây thiệt hại không nhỏ trên nhiều lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản của nhiều địa phương và chung toàn tỉnh. Theo đó khả năng nhiều chỉ tiêu có mức tăng trưởng thấp và không đạt kế hoạch đầu năm.
4. Công nghiệp
Tình hình thời tiết trên địa bàn tỉnh những tháng cuối năm diễn biến khá phức tạp. Có nhiều đợt bão, mưa kéo dài, bên cạnh đó hậu quả của cơn lũ được xem là đợt “đại hồng thuỷ” vào cuối tháng 10 để lại rất nặng nề, phải mất rất nhiều thời gian khắc phục mới có thể đi vào hoạt động trở lại. Do đó, sản xuất công nghiệp có mức tăng trưởng thấp hơn so với cùng kỳ năm trước.
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp ước tính tháng11/2020tăng 7,8% so với tháng trước và tăng 7,3% so với tháng cùng kỳ. Tính chung 11 tháng năm 2020, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp ước tính tăng 5,2% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành khai khoáng tăng 4,6%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 5,1%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 6,0%; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải tăng 5,8%. Cụ thể chỉ số sản xuất công nghiệp như sau:
Ngành khai khoáng: Do tình hình thời tiết xấu nên hoạt động khai thác bị ảnh hưởng, tốc độ tăng thấp hơn so với tốc độ tăng của cùng kỳ năm trước. Ước tính chỉ số sản xuất ngành khai khoáng tháng 11 tăng 7,5% so với tháng trước và tăng 6,4% so với cùng kỳ. Trong đó, khai thác quặng kim loại tăng 3,8%; khai khoáng khác (đá xây dựng) tăng 6,6% so với cùng kỳ.
Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo: Sau khi khắc phục ảnh hưởng của mưa lũ trong tháng 10, tháng 11 sản xuất đã ổn định lại hơn nên chỉ số sản xuất ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 8,1% so với tháng trước và tăng 7,3% so với cùng kỳ.
Tính chung 11 tháng chỉ số sản xuất ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 5,1% so với cùng kỳ. Trong đó tăng cao nhất là ngành chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa, tăng 9,0%; tiếp đến là ngành sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 7,2%; ngành sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 6,8%. Riêng ngành sản xuất trang phục, ngành tạo được nhiều công ăn việc làm cho người lao động địa phương, do gặp khó khăn về thị trường tiêu thụ. Theo thông lệ hàng năm, thời điểm hiện nay các doanh nghiệp sản xuất trang phục đều có đơn hàng đến cuối năm. Tuy nhiên, do dịch Covid-19 trên thế giới vẫn chưa kiểm soát hiệu quả nên thị trường xuất khẩu gặp khó khăn, ảnh hưởng đến kết quả tiêu thụ sản phẩm may mặc nên 11 tháng năm 2020 chỉ số sản xuất ngành trang phục chỉ tăng 3,5% so với cùng kỳ năm trước. Ngành sản xuất đồ uống là ngành giảm mạnh nhất, 11 tháng chỉ số của ngành này giảm 31,5% so với cùng kỳ; nguyên nhân do thị trường tiệu thụ gặp khó khăn.
Ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, hơi nước và điều hòa không khí: Vào các tháng cuối năm, ngành điện tiếp tục tập trung vận hành an toàn, ổn định hệ thống điện và thị trường điện phục vụ cho sản xuất và tiêu dùng. Chỉ số ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, hơi nước và điều hòa không khí tháng 11 tăng 8,1% so với tháng trước và tăng 7,8% so với cùng kỳ; tính chung 11 tháng chỉ số sản xuất tăng 6,0% so với cùng kỳ.
Ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải: Chỉ số sản xuất ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tháng 11 tăng 6,8% so với tháng trước; tính chung 11 tháng tăng 5,8% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 7,1% tình hình bão lũ nhưng công ty cổ phần cấp nước Quảng Bình vẫn cố gắng duy trì sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu thụ. Hoạt động thu gom, xử lý và tiêu hủy rác thải tăng 2,6% so với cùng kỳ.
Sản phẩm công nghiệp chủ yếu sản xuất trong 11 tháng năm 2020 so với cùng kỳ năm trước: ván ép từ gỗ đạt 59.027 m3, tăng 399,2%; gạch xây dựng bằng đất nung đạt 290.350 nghìn viên, tăng 12,1%; điện thương phẩm đạt 837 triệu Kwh, tăng 7,4%; nước máy thương phẩm đạt 8.743 nghìn m3, tăng 7,1%; đá xây dựng đạt 3,1 triệu m3, tăng 5,6%; clinker thành phẩm đạt 3,5 triệu tấn, tăng 5,2%; xi măng đạt 1,7 triệu tấn, tăng 5,0%; sản phẩm cao lanh đạt 56.747 tấn, giảm 9,2%; sản phẩm tinh bột dong, riềng đạt 10.387 tấn, giảm 10,1% (do tình hình thời tiết không thuận lợi ảnh hưởng đến việc sản xuất nên sản lượng giảm sâu so với cùng kỳ); dăm gỗ đạt 315.098 tấn, giảm 11,1%; áo sơ mi đạt 11.900 nghìn cái, giảm 11,1%.
5. Vốn đầu tư
Để đẩy nhanh tiến độ thực hiện, giải ngân kế hoạch đầu tư công năm 2020, tiếp tục thực hiện Công văn số 1696/UBND-TH ngày 21/9/2020 của UBND tỉnh về việc tập trung chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công năm 2020, phấn đấu giải ngân 100% vốn đầu tư công năm 2020, các đơn vị tập trung đôn đốc, tháo gỡ kịp thời các rào cản khó khăn, vướng mắc tạo điều kiện thuận lợi đẩy nhanh tiến độ giải ngân và nâng cao hiệu quả các dự án đầu tư đảm bảo đúng tiến độ đề ra nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thực hiện cao nhất mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Tình hình vốn đầu tư thực hiện từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý tháng 11 năm 2020 cụ thể như sau:
Trong tháng 11/2020, vốn đầu tư thuộc nguồn vốn NSNN trên địa bàn tỉnh do địa phương quản lý ước tính thực hiện 362,5 tỷ đồng, tăng 1,5 % so với tháng trước và tăng 81,0% so với tháng cùng kỳ năm 2019. Trong đó: Vốn NSNN cấp tỉnh 294,7 tỷ đồng, tăng 126,7%; vốn NSNN cấp huyện 44,0 tỷ đồng, giảm 0,7%; vốn NSNN cấp xã 23,8 tỷ đồng, giảm 7,4% so với tháng cùng kỳ năm trước.
Tính chung 11 tháng năm 2020, vốn đầu tư thuộc nguồn vốn NSNN trên địa bàn tỉnh do địa phương quản lý thực hiện 3.262,2 tỷ đồng, tăng 63,7% so với cùng kỳ năm 2019. Trong đó: Vốn NSNN cấp tỉnh 2.543,5 tỷ đồng, tăng 97,8%; vốn NSNN cấp huyện 428,2 tỷ đồng, tăng 2,6%; vốn NSNN cấp xã 290,5 tỷ đồng, tăng 0,5% so với cùng kỳ năm 2019.
Nhìn chung, trong 11 tháng năm 2020 các công trình có vốn đầu tư thuộc nguồn vốn NSNN do địa phương quản lý trên địa bàn tỉnh thực hiện nghiêm túc, công tác giải phóng mặt bằng được các cấp chính quyền quan tâm và có nhiều chuyển biến tích cực. Các công trình về giao thông phục vụ việc đi lại cho người dân được đẩy nhanh tiến độ; các công trình sửa chữa, xây trường được quan tâm, đẩy mạnh nhằm đáp ứng cho nhu cầu dạy và học cho giáo viên và học sinh trên địa bàn tỉnh. Trong thời gian tới, để đạt được mục tiêu giải ngân 100% vốn đầu tư công theo tinh thần chỉ đạo của Chính phủ, Tỉnh cũng sẽ tăng cường chỉ đạo, đôn đốc các ngành, địa phương, chủ đầu tư thực hiện quyết liệt, đồng bộ các giải pháp, tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát các dự án đầu tư công, tháo gỡ kịp thời các rào cản, khó khăn, đảm bảo đúng tiến độ đề ra nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thực hiện cao nhất mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
6. Thương mại, dịch vụ
a. Tổng mức bán lẻ hàng hoá
Đợt mưa lũ lịch sử trong tháng 10 đã làm cho đời sống, tình hình sản xuất kinh doanh của người dân gặp nhiều khó khăn. Chính vì vậy, sau lũ người dân phải mua sắm lại nhiều đồ dùng gia đình, áo quần, sửa chữa xe cộ bị hư hỏng, tu sửa lại nhà nên tổng mức bán lẻ hàng hoá tháng 11 tăng so với tháng trước.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa tháng 11 đạt 3.196,9 tỷ đồng, tăng 2,2% so với tháng trước và tăng 2,2% so với cùng kỳ. Tăng cao nhất trong các nhóm hàng là nhóm dịch vụ sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác, ước tính đạt 65,1 tỷ đồng, tăng 11,3% so với tháng trước và tăng 10,0% so với cùng kỳ, nguyên nhân do sau mưa lũ nhiều phương tiện đi lại bị hư hỏng nên nhu cầu sửa chữa tăng; nhóm có mức tăng cao thứ hai là nhóm vật phẩm, văn hoá, giáo dục, ước tính đạt 25,5 tỷ đồng, tăng 10,4% so với tháng trước và tăng 15,2% so với cùng kỳ, nguyên nhân do nhu cầu mua lại sách vở, đồ dùng học tập tăng cao; tăng cao thứ ba trong tất cả các nhóm hàng là nhóm gỗ và vật liệu xây dựng, ước tính đạt 526,0 tỷ đồng, tăng 5,2% so với tháng trước và tăng 5,4% so với cùng kỳ, tháng này nhu cầu sửa sang lại nhà cửa sau mưa lũ tăng cao. Các nhóm còn lại có mức tăng nhẹ so với tháng trước.
Tính chung 11 tháng năm 2020, tổng mức bán lẻ hàng hoá đạt 35.127,5 tỷ đồng, tăng 2,3% so với cùng kỳ, trong đó nhóm có mức tăng mạnh nhất so cùng kỳ là vật phẩm, văn hoá, giáo dục tăng 5,6% và nhóm gỗ và vật liệu xây dựng tăng 5,4% do đây là nhóm ít bị ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 nhất, nhóm có mức giảm duy nhất là xăng dầu các loại giảm 9,9%, do ảnh hưởng của giá xăng giảm mạnh từ đầu năm cùng với nhu cầu đi lại giảm.
b. Lưu trú và ăn uống
Hoạt động lưu trú tiếp tục giảm so với tháng trước do đây là tháng của mùa thấp điểm du lịch, đồng thời chịu ảnh hưởng của các đợt mưa lũ nên nhiều cơ sở lưu trú, lữ hành đóng cửa duy tu bảo trì, khắc phục thiệt hại do mưa lũ gây ra; hoạt động ăn uống tăng nhẹ do bắt đầu bước vào mùa cưới cùng với nhu cầu ăn uống ngoài gia đình của một bộ phận dân cư tăng.
- Dịch vụ lưu trú
Doanh thu hoạt động lưu trú tháng 11 ước tính đạt 5,7 tỷ đồng, giảm 5,7% so với tháng trước và giảm 76,0% so với cùng kỳ; 11 tháng đạt 167,9 tỷ đồng, giảm 44,4% so với cùng kỳ.
Số lượt khách lưu trú tháng 11 ước tính đạt 17.547 lượt khách, giảm 6,4% so với tháng trước và giảm 71,4% so với cùng kỳ; 11 tháng đạt 508.682 lượt khách, giảm 43,4% so với cùng kỳ.
Số lượt khách quốc tế lưu trú tháng 11 ước tính đạt 826 lượt khách, giảm 15,7% so với tháng trước và giảm 93,6% so với cùng kỳ; 11 tháng đạt 35.445 lượt khách, giảm 74,8% so với cùng kỳ.
Ngày khách tháng 11 ước tính đạt 20.832 ngày khách, giảm 7,0% so với tháng trước và giảm 73,9% so với cùng kỳ; 11 tháng đạt 614.889 ngày khách, giảm 46,9% so với cùng kỳ.
- Dịch vụ ăn uống
Doanh thu dịch vụ ăn uống tháng 11 ước tính đạt 197,6 tỷ đồng, tăng 0,6% so với tháng trước và giảm 39,3% so với cùng kỳ; 11 tháng đạt 2.830,3 tỷ đồng, giảm 23,6% so với cùng kỳ, nguyên nhân giảm do vừa ảnh hưởng của Nghị định 100/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường vộ và đường sắtvừa ảnh hưởng của dịch Covid-19.
c. Du lịch lữ hành
Ước tính tháng 11 doanh thu hoạt động lữ hành đạt 0,8 tỷ đồng, giảm 32,5% so với tháng trước và giảm 94,4% so với cùng kỳ, nguyên nhân do các điểm du lịch phải đóng cửa để bảo trì, khắc phục thiệt hại do mưa lũ gây ra đồng thời chịu tác động của Covid-19 và đây là tháng của mùa du lịch thấp điểm; 11 tháng doanh thu hoạt động lữ hành đạt 127,0 tỷ đồng, giảm 56,9% so với cùng kỳ.
Số lượt khách du lịch lữ hành tháng 11 ước tính đạt 2.145 lượt khách, giảm 28,8% so với tháng trước và giảm 93,1% so với cùng kỳ; 11 tháng ước tính đạt 376.026 lượt khách, giảm 54,1% so với cùng kỳ.
Số lượt khách quốc tế lữ hành tháng 11 ước tính đạt 420 lượt khách, giảm 7,9% so với tháng trước và giảm 96,5% so với cùng kỳ; 11 tháng đạt 34.051 lượt khách, giảm 78,4% so với cùng kỳ.
d. Dịch vụ khác
Ước tính doanh thu hoạt động dịch vụ tháng 11 đạt 120,7 tỷ đồng, tăng 1,2% so với tháng trước và giảm 7,9% so với cùng kỳ. Tính chung 11 tháng 2020 doanh thu hoạt động dịch vụ đạt 1.367,3 tỷ đồng, giảm 4,8% so với cùng kỳ.
Hoạt động dịch vụ 11 tháng năm 2020 do tác động của dịch bệnh Covid-19, đồng thời do tình hình mưa lũ diễn ra rất nghiêm trọng. Đợt mưa lũ cuối tháng 10 vừa qua đã vượt mốc lũ lịch sử năm 1979, gây thiệt hại nặng nề cho các địa phương trên toàn tỉnh đã ảnh hưởng đến các hoạt động dịch vụ nên doanh thu phần lớn các nhóm hàng dịch vụ đều giảm so với cùng kỳ.
Xét theo từng nhóm dịch vụ 11 tháng thì nhóm hoạt động kinh doanh bất động sản giảm 5,5%; nhóm hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ giảm 8,1%; nhóm dịch vụ giáo dục và đào tạo giảm 7,6%; nhóm dịch vụ vụ y tế và hoạt động trợ giúp xã hội tăng 5,6%; hoạt động dịch vụ nghệ thuật, vui chơi và giải trí giảm 3,8%; nhóm dịch vụ khác giảm 2,4%, trong đó, dịch vụ sửa chữa máy vi tính, đồ dùng cá nhân và gia đình giảm 2,5%; Hoạt động dịch vụ phục vụ cá nhân khác giảm 2,4% so với cùng kỳ.
e. Vận tải
Bước qua tháng 11 hoạt động vận tải tăng nhẹ so với tháng trước do tình hình thời tiết thuận lợi hơn. Cụ thể:
Tổng doanh thu vận tải tháng 11 ước tính đạt 308,9 tỷ đồng, tăng 1,4% so với tháng trước, giảm 1,6% so với cùng kỳ; cộng dồn 11 tháng đạt 3.639,1 tỷ đồng, tăng 0,7% so với cùng kỳ.
Trong đó: Doanh thu vận tải hành khách tháng 11 ước tính đạt 48,9 tỷ đồng, tăng 4,7% so với tháng trước, giảm 1,7% so với cùng kỳ; cộng dồn 11 tháng đạt 604,9 tỷ đồng, tăng 0,8% so với cùng kỳ. Doanh thu vận tải hàng hóa tháng 11 ước tính đạt 225,9 tỷ đồng, tăng 0,6% so với tháng trước, giảm 1,4% so với cùng kỳ; cộng dồn 11 tháng đạt 2.638,8 tỷ đồng, tăng 0,6% so với cùng kỳ. Doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải tháng 11 ước tính đạt 34,1 tỷ đồng, tăng 2,6% so với tháng trước, giảm 2,4% so với cùng kỳ; cộng dồn 11 tháng đạt 395,3 tỷ đồng, tăng 0,7% so với cùng kỳ.
Tổng số hành khách vận chuyển tháng 11 ước tính đạt 1,9 triệu hành khách, tăng 3,2% so với tháng trước, giảm 2,2% so với cùng kỳ; cộng dồn 11 tháng đạt 25,2 triệu hành khách, tăng 0,6% so với cùng kỳ. Tổng số hành khách luân chuyển tháng 11 ước tính đạt 88,9 triệu hk.km, tăng 3,0% so với tháng trước, giảm 2,4% so với cùng kỳ; cộng dồn 11 tháng đạt 1.112,7 triệu hk.km, tăng 0,7% so với cùng kỳ.
Khối lượng vận chuyển hàng hóa tháng 11 ước tính đạt 2,0 triệu tấn, tăng 3,3% so với tháng trước, giảm 1,5% so với cùng kỳ, cộng dồn 11 tháng đạt 24,2 triệu tấn, tăng 0,4% so với cùng kỳ. Tổng khối lượng hàng hoá luân chuyển tháng 11 ước tính đạt 107,9 triệu tấn.km, tăng 2,1% so với tháng trước, giảm 1,8% so với cùng kỳ; cộng dồn 11 tháng đạt 1.245,5 triệu tấn.km, tăng 0,5% so với cùng kỳ.
f. Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ
Chỉ số giá tiêu dùng
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 11 năm 2020 trên địa bàn tỉnh Quảng Bình tăng 0,48% so với tháng trước; tăng 1,38% so với cùng kỳ năm trước, tăng 0,36% so với tháng 12 năm trước; tăng 3,53% so với kỳ gốc 2019; CPI bình quân 11 tháng năm 2020 so với cùng kỳ năm trước tăng 2,11% (trong đó: Nhóm hàng hóa tăng 1,52%; nhóm dịch vụ tăng 4,81%).
Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính có 04 nhóm tăng và 03 nhóm giảm và 04 nhóm không đổi so với tháng trước, cụ thể như sau: Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 1,85%; nhóm may mặc, giày dép và mũ nón tăng 0,09%; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,02%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,01%; nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng giảm 0,69%; nhóm giao thông giảm 0,57%; nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,01%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình; nhóm đồ uống và thuốc lá; nhóm thuốc và dịch vụ y tế và nhóm giáo dục có chỉ số không đổi so với tháng trước.
Nguyên nhân làm tăng CPI tháng 11 năm 2020:
- Trong tháng 11, miền Trung nói chung và tỉnh Quảng Bình nói riêng liên tiếp hứng chịu các đợt mưa lớn kéo dài do ảnh hưởng của áp thấp nhiệt đới và cơn bão số 13 - Vamco đổ bộ vì vậy đã tác động lớn đến giá cả của các nhóm mặt hàng, đặc biệt là nhóm lương thực, thực phẩm;
- Các mặt hàng thủy hải sản khan hiếm vì biển động, tàu bè không ra khơi đánh bắt được. Đồng thời giá các loại rau củ quả tăng do khâu vận chuyển từ các địa phương khác gặp nhiều khó khăn, trong khi các vựa rau lớn, vùng chuyên canh rau màu trên địa bàn tỉnh bị ngập lụt, hư hỏng dẫn đến nguồn cung khan hiếm khiến giá tăng mạnh;
- Giá gas tiếp tục được điều chỉnh tăng 20.000 đồng/bình 12kg từ ngày01/11/2020.
Bên cạnh các nhóm hàng hóa và dịch vụ tăng thì có 03 nhóm giảm đó là nhóm giao thông, nhóm bưu chính viễn thông và nhóm văn hóa, giải trí và du lịch, một số nguyên nhân làm giảm:
- Giá điện tháng này giảm mạnh 6,09% so với tháng trước do ảnh hưởng của mưa bão kéo dài nên Công ty Điện lực tiến hành cắt điện để đảm bảo an toàn cho người dân đồng thời do nhu cầu tiêu thụ điện của người dân giảm trong mùa mưa lạnh;
- Giá xăng dầu điều chỉnh giảm 1,82% so với tháng trước góp phần làm cho chỉ số giá nhóm giao thông giảm.
Chỉ số giá vàng 99,99%
Giá vàng trong tỉnh biến động theo giá vàng trong nước, bình quân tháng 11/2020 giá vàng tăng 0,94% so với tháng trước, giá vàng dao động quanh mức 5,36 triệu đồng/chỉ, tăng 38,87% so với kỳ gốc 2019, tăng 29,67% so cùng kỳ năm trước, tăng 29,67% so với tháng 12 năm trước, bình quân 11 tháng tăng 26,28% so với cùng kỳ.
Chỉ số giá đô la Mỹ (USD)
Giá đô la Mỹ (USD) tháng này có giá bình quân 23.090 đồng/USD, giảm 0,01% so với tháng trước, giảm 0,03% so với kỳ gốc 2019, giảm 0,23% so với cùng kỳ năm trước, giảm 0,11% so với tháng 12 năm trước và bình quân 11 tháng giảm 0,12% so với cùng kỳ.
7. Thu, chi ngân sách Nhà nước
Tổng thu ngân sách trên địa bàn 11 tháng năm 2020 ước tính thực hiện 4.674,1 tỷ đồng, đạt 85% so với dự toán địa phương, tăng 11,9% so với cùng kỳ; trong đó, thu nội địa thực hiện 4.504,1 tỷ đồng, bằng 86,6% dự toán địa phương, tăng 13,2% so với cùng kỳ; thu thuế xuất nhập khẩu thực hiện 170 tỷ đồng, đạt 56,7% dự toán địa phương, bằng 8648% so với cùng kỳ.
Trong tổng số thu cân đối ngân sách 11 tháng năm 2020 so với dự toán năm: Có 7/15 khoản thu đạt tiến độ (91,7%) dự toán cả năm, là thu từ khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nhà nước; Thuế thu nhập cá nhân, phí nông nghiệp, thu tiền thuê đất, thu tiền sử dụng đất, thu khác ngân sách và thu hoa lợi công sản; các khoản còn lại đều chưa đạt tiến độ dự toán năm.
So với cùng kỳ: Có 6/15 khoản có tăng trưởng so với cùng kỳ, đó là thu từ khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nhà nước; Thuế thu nhập cá nhân, thu tiền sử dụng đất, thu hoa lợi công sản, thu khác ngân sách và thu tiền thuê đất; các khoản còn lại đều giảm so với cùng kỳ.
Tổng chi ngân sách Nhà nước trên địa bàn đến thời điểm 22/11/2020 đạt 10.769,9 tỷ đồng, tăng 16,2% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó chi đầu tư xây dựng cơ bản đạt 3.554,3 tỷ đồng, tăng 43,5%; chi thường xuyên 7.215,6 tỷ đồng, tăng 6,2% so với cùng kỳ năm trước. Chi đầu tư xây dựng cơ bản tính đến thời điểm hiện tại tăng cao do thời gian gần đây Chính phủ tập trung nguồn vốn cho đầu tư công, UBND tỉnh đã chỉ đạo các sở, ngành, địa phương, đơn vị đẩy nhanh tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công.
II. XÃ HỘI
1. Giáo dục và đào tạo
a. Giáo dục
Theo báo cáo sơ bộ của Sở Giáo dục và Đào tạo, khai giảng năm học 2020 - 2021 toàn tỉnh có 590 trường, trong đó có 186 trường và cơ sở GDMN; 190 trường tiểu; 143 trường THCS; 30 trường Tiểu học & THCS; 6 trường THCS&THPT và 26 trường THPT; ngoài ra còn có 9 cơ sở giáo dục thường xuyên và 59 nhóm trẻ độc lập ngoài công lập. Số lớp Mầm non toàn tỉnh là 2.281 lớp, tăng 3,0% so với cùng kỳ năm học 2019-2020; trong đó công lập là 2.097 lớp, tăng 1,8%; ngoài công lập là 184 lớp, tăng 18,7% so với cùng kỳ. Số lớp Tiểu học là 3.207 lớp, tăng 2,8% so với cùng kỳ; trong đó công lập là 3.188 lớp, tăng 2,8%; ngoài công lập là 19 lớp, tăng 5,6% so với cùng kỳ. Số lớp Trung học cơ sở là 1.667 lớp, tăng 2,8% so với cùng kỳ; trong đó công lập là 1.659 lớp, tăng 2,7%; ngoài công lập là 8 lớp, tăng 33,3% so với cùng kỳ. Số lớp Trung học phổ thông là 808 lớp, tăng 3,1% so với cùng kỳ; trong đó công lập là 808 lớp, tăng 3,1% so với cùng kỳ.
Quy mô học sinh đầu năm học cấp học Mầm non 61.297 cháu, tăng 2,6% so với cùng kỳ năm học 2019 - 2020; trong đó công lập là 58.180 cháu, tăng 4,2%; ngoài công lập là 3.117 cháu, giảm 19,3% so với cùng kỳ. Cấp học Tiểu học 84.797 học sinh, tăng 2,7% so với cùng kỳ; trong đó công lập là 84.297 học sinh, tăng 2,7%; ngoài công lập là 500 học sinh, tăng 11,6% so với cùng kỳ. Trung học cơ sở 57.086 học sinh, tăng 3,5% so với cùng kỳ; trong đó công lập là 56.918 học sinh, tăng 3,5%; ngoài công lập là 168 học sinh, tăng 31,2% so với cùng kỳ. Trung học phổ thông 32.633 học sinh, tăng 2,1% so với cùng kỳ; trong đó công lập là 32.633 học sinh, tăng 2,1% so với cùng kỳ.
Toàn tỉnh đã rà soát, sắp xếp và ổn định đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên bảo đảm yêu cầu, nhiệm vụ cho năm học mới, đặc biệt là giáo viên dạy lớp 1. Các trường học và cơ sở giáo dục đã quán triệt đầy đủ chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước; nhiệm vụ của ngành trong năm học 2020-2021 và các năm tiếp theo, đặc biệt chú trọng chuẩn bị triển khai Chương trình giáo dục phổ thông, nâng cao chất lượng giáo dục mầm non đến toàn thể cán bộ, giáo viên, nhân viên. Đánh giá nghiêm túc về kết quả đạt được trong năm học qua, những tồn tại, hạn chế, khó khăn, vướng mắc; xây dựng phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp thực hiện trong năm học mới. Chủ động xây dựng, thực hiện kế hoạch tập trung đội ngũ để triển khai một số hoạt động đầu năm; tổ chức ôn tập, kiểm tra, thi lại cho học sinh, xét lên lớp, phân chia lớp học theo kế hoạch phát triển trường lớp và biên chế viên chức được giao; chú ý quan tâm đến những học sinh Tiểu học, Trung học cơ sở, học sinh dân tộc thiểu số có nguy cơ bỏ học để vận động đến trường. Sớm duy trì, ổn định được số lượng học sinh ngay từ đầu năm học.
Lũ lịch sử trong tháng 10, đã làm chia cắt các địa phương trong tỉnh; hầu hết các trường và điểm trường trong tỉnh bị ngập sâu trong nước lũ các tuyến đường bị chia cắt hoàn toàn; để đảm bảo an toàn cho học sinh, các trường và điểm trường đã cho học sinh nghỉ học. Sau lũ các cấp các ngành, các tổ chức cá nhân và ngành giáo dục trên tinh thần “nước lũ rút đến đâu khẩn trương khắc phục đến đó”, tập trung huy động lực lượng vệ sinh môi trường trong khuôn viên trường lớp sạch sẽ, an toàn trước khi đón học sinh trở lại trường. Để chia sẻ với những khó khăn và thiệt hại mà đợt mưa lũ lịch sử đã gây ra cho cán bộ, giáo viên, học sinh tỉnh Quảng Bình, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Công đoàn Giáo dục Việt Nam, đã hỗ trợ ngành Giáo dục Quảng Bình 3.200 triệu đồng (bao gồm: Tiền mặt, sách giáo khoa, các trang thiết bị, đồ dùng dạy học). Đồng thời, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, Công ty CP Đầu tư và Phát triển Giáo dục Đà Nẵng, Nhà xuất bản Đại học sư phạm Hà Nội, Công ty Thiết bị giáo dục và đồ chơi Tràng An và nhiều đơn vị, tổ chức, cá nhân cũng đã trao những phần quà hỗ trợ về cơ sở vật chất, sách, vở, bút,… trực tiếp cho các trường và ngành Giáo dục Quảng Bình nhằm sớm khắc phục hậu quả, ổn định công tác dạy và học trên địa bàn.
Để góp phần khắc phục thiệt hại, đồng thời giảm bớt khó khăn cho học sinh, phụ huynh học sinh, từng bước ổn định tình hình dạy, học, Sở Giáo dục và Đào tạo đã yêu cầu Phòng Giáo dục và Đào tạo, các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông thực hiện nghiêm các quy định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, HĐND, UBND tỉnh, Sở Giáo dục và Đào tạo về thực hiện các khoản thu năm học 2020 - 2021. Trong đó, Sở Giáo dục và Đào tạo yêu cầu Phòng Giáo dục và Đào tạo, cơ sở giáo dục mầm non và phổ thông thực hiện giãn thu các khoản thu theo quy định và khoản được phép thu; khoản thu Bảo hiểm Y tế, tiền ăn bán trú cho học sinh (nếu có) vẫn thực hiện theo quy định để bảo đảm quyền lợi cho học sinh; xem xét cắt giảm khoản thu chưa thực sự cần thiết trong năm học 2020 - 2021; tạm dừng các khoản thu theo thỏa thuận và đóng góp tự nguyện, kinh phí Ban đại diện cha mẹ học sinh; không tổ chức mua sắm, yêu cầu mặc đồng phục đối với học sinh ở vùng bị thiệt hại do mưa lũ... Các đơn vị căn cứ tình hình thực tế của địa phương, nhà trường, điều kiện hoàn cảnh của học sinh, gia đình học sinh, thống nhất với Hội cha mẹ học sinh, báo cáo cấp quản lý trực tiếp và chính quyền địa phương để có thể thực hiện thu trở lại trong thời gian thích hợp. Bên cạnh đó, Sở cũng yêu cầu các trường có giải pháp tích cực, thiết thực, phù hợp tình hình của địa phương, đơn vị, tranh thủ tối đa sự giúp đỡ, hỗ trợ của cơ quan, tổ chức đoàn thể, các doanh nghiệp, nhà hảo tâm, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, tạo điều kiện tốt nhất cho học sinh được đến lớp, tránh để xảy ra tình trạng học sinh của trường bỏ học vì hoàn cảnh khó khăn do mưa lũ gây ra.
b. Đào tạo
Trong năm học 2019 - 2020, vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, Trường Đại học Quảng Bình đã chủ động triển khai dạy học trực tuyến để ứng phó với đại dịch Covid-19; chất lượng đào tạo được giữ vững; tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp từ loại khá trở lên đạt trên 95%, nhiều sinh viên ra trường sớm tìm được việc làm phù hợp với ngành nghề đào tạo. Nhà trường tiếp tục xây dựng các ngành nghề đào tạo dựa trên định hướng phát triển nguồn nhân lực của tỉnh và các vùng lân cận đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030. Trong năm học, các hoạt động nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ của giảng viên và sinh viên tiếp tục có nhiều kết quả: Nhà trường đã tổ chức nghiệm thu 02 đề tài cấp tỉnh, 19 đề tài cấp cơ sở và 01 sáng kiến kinh nghiệm. Trường Đại học Quảng Bình đang chủ trì thực hiện 04 đề tài và 05 nhiệm vụ khoa học công nghệ cấp tỉnh. Công tác nghiên cứu khoa học của sinh viên cũng đã đạt được nhiều thành tích. Các hoạt động giao lưu, hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học, đào tạo được nhà trường duy trì và phát triển. Hiện nhà trường đang đào tạo cho 153 cán bộ và lưu học sinh Lào.
Trong năm học mới 2020 - 2021, chỉ tiêu tuyển sinh Trường Đại học Quảng Bình 1.205 chỉ tiêu hệ đại học, cao đẳng hệ chính quy; trong đó, hệ đại học 1.185 chỉ tiêu, cao đẳng sư phạm 20 chỉ tiêu. Trường Đại học Quảng Bình đã thông báo tuyển sinh và xét tuyển theo 3 phương thức gồm: Xét tuyển dựa vào kết quả Kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2020; Xét tuyển dựa vào kết quả học tập lớp 12 THPT; Xét tuyển dựa vào kết quả Kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2020 hoặc dựa vào kết quả học tập lớp 12 THPT kết hợp với thi tuyển năng khiếu theo tổ hợp xét tuyển tương ứng (áp dụng đối với ngành Giáo dục thể chất và giáo dục Mầm non).
Bước vào năm học mới 2020 - 2021, giữ vững mục tiêu "Đổi mới, hội nhập và phát triển bền vững", Trường Đại học Quảng Bình xác định chủ đề “Tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý và giảng dạy”; triển khai thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người học. Ngày 05/11/2020, Trường Đại học Quảng Bình đã tổ chức lễ khai giảng năm học 2020 - 2021; theo báo cáo của Trường Đại học Quảng Bình số thí sinh trúng tuyển đến ngày 16/11/2020 là 340 sinh viên; trong đó hệ Đại học là 312 sinh viên; hệ Cao đẳng giáo dục Mầm non là 28 sinh viên; số sinh đã nhập học năm học 2020-2021 tính đến ngày 03/11/2020 là 218 sinh viên; trong đó hệ Đại học là 190 sinh viên; hệ Cao đẳng giáo dục Mầm non là 28 sinh viên. Hiện tại Trường Đại học Quảng Bình vẫn đang tiếp tục công tác tuyển sinh theo kế hoạch tuyển sinh của Trường.
2. Công tác y tế
a. Y tế cơ sở
Đến nay, toàn tỉnh hiện có 100% xã/phường/thị trấn có trạm y tế; 100% trạm y tế xã, phường có bác sỹ làm việc; 100% thôn bản có nhân viên y tế hoạt động được trả phụ cấp ổn định; 100% trạm y tế đảm bảo đủ thuốc thiết yếu phục vụ nhu cầu khám chữa bệnh; dự ước đến cuối năm 2020 toàn tỉnh có 144/151 (đạt tỷ lệ 95,36%) trạm y tế xã, phường, thị trấn đạt tiêu chí quốc gia về y tế. Sở Y tế đã chỉ đạo các cơ sở khám chữa bệnh chuẩn bị đủ cơ số thuốc và các điều kiện cần thiết để sẵn sàng đón tiếp người bệnh đến khám, cấp cứu. Chú ý hỗ trợ tuyến dưới trong việc cấp cứu, khám chữa bệnh cho bệnh nhân, huy động đội cấp cứu ngoại viện sẵn sàng cấp cứu kịp thời trong mọi tình huống; thực hiện tốt các quy chế chuyên môn khám bệnh, chữa bệnh. Sau các đợt lũ trong tháng 10/2020, Sở Y tế đã chỉ đạo các trạm y tế khẩn trương tu sửa cơ sở nhà trạm nếu bị ngập, hư hỏng trong điều kiện có thể…để đón tiếp người bệnh đến khám và điều trị. Sử dụng các cơ số thuốc phòng chống lụt bão, thuốc bảo hiểm y tế để điều trị cho nhân dân. Đảm bảo các ca, kíp trực tại các trạm y tế, tuyệt đối không để tình trạng thiếu thuốc khi người dân đến khám bệnh. Giám sát các dịch bệnh có nguy cơ xảy ra sau mưa lũ, đồng thời tuyên truyền, hướng dẫn người dân cách phòng, chống các bệnh thường gặp sau lũ.
b. Công tác phòng chống các bệnh dịch lây
Theo báo cáo của Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh, trong tháng 10/2020, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 501 trường hợp sốt xuất huyết Dengue và 1 trường hợp tử vong tại huyện Bố Trạch; 233 trường hợp tiêu chảy; 7 trường hợp thủy đậu; 3 trường hợp quai bị; 658 trường hợp cúm; 8 trường hợp lỵ trực trùng; 4 trường hợp lỵ amip; 1 trường hợp sởi; 38 trường hợp Tay-chân-miệng; 5 trường hợp sốt rét; 2 trường hợp viêm gan virut B; 8 trường hợp viêm gan virut khác.
Luỹ kế từ đầu năm đến ngày 31/10/2020 trên địa bàn tỉnh Quảng Bình đã xảy ra 3.847 trường hợp sốt xuất huyết Dengue và 1 trường hợp tử vong; 2.288 trường hợp tiêu chảy; 152 trường hợp thủy đậu; 44 trường hợp quai bị; 5.741 trường hợp cúm; 23 trường hợp lao phổi; 79 trường hợp lỵ trực trùng; 33 trường hợp lỵ amip; 12 trường hợp sởi; 27 trường hợp sốt rét trong đó có 1 trường hợp tử vong; 1 trường hợp viêm gan A; 17 trường hợp viêm gan virut B; 6 trường hợp viêm gan virut C; 102 trường hợp viêm gan vi rút khác; 57 trường hợp Tay - chân - miệng; 1 trường hợp sốt vàng; 1 trường hợp uốn ván sơ sinh. Các trường hợp kể trên đều được phát hiện và điều trị kịp thời.
Để hạn chế đến mức thấp nhất các nguy cơ ô nhiễm môi trường, phát sinh dịch bệnh, nhanh chóng khắc phục hậu quả, ổn định đời sống của người dân tại các địa phương sau các đợt lũ lớn; ngày 29/10/2020, UBND tỉnh đã có Quyết định số 4119/QĐ-UBND về việc phân bổ 10.000 lít hóa chất Benkocid và 20 tấn hóa chất Chlorine 65% min từ nguồn dự trữ Quốc gia để hỗ trợ cho các địa phương gồm: huyện Lệ Thủy được phân bổ 3.000 lít Benkocid, 02 tấn Chlorine 65% min; huyện Quảng Ninh 2.000 tấn Benkocid, 04 tấn Chlorine 65% min; thành phố Đồng Hới 500 lít Benkocid, 02 tấn Chlorine 65% min; huyện Bố Trạch 2.000 lít Benkocid, 03 Chlorine 65% min; thị xã Ba Đồn 800 lít Benkocid, 04 tấn Chlorine 65% min; huyện Quảng Trạch 500 lít Benkocid, 03 tấn Chlorine 65% min; huyện Tuyên Hóa 700 lít Benkocid, 01 tấn Chlorine 65% min; huyện Minh Hóa 500 lít Benkocid, 01 tấn Chlorine 65% min. UBND các huyện, thành phố, thị xã đã kịp thời tiếp nhận hàng, đúng về chủng loại, đủ về số lượng, chất lượng; nhanh chóng phân phối theo đúng chế độ, chính sách và đối tượng được sử dụng hàng hỗ trợ; quản lý, sử dụng hàng dự trữ Quốc gia đúng mục đích, tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật; đảm bảo không thất thoát, lãng phí hoặc sử dụng sai mục đích.
Các sở, ban, ngành, đoàn thể, cơ quan, đơn vị đã chủ động thực hiện công tác vệ sinh môi trường trong và xung quanh khuôn viên, thực hiện việc khử trùng, khử khuẩn nhằm xử lý nguy cơ phát sinh, lan truyền dịch bệnh sau lũ. UBND các huyện, thị xã, thành phố đã chỉ đạo UBND các xã, phường, thị trấn, cơ quan, tổ chức, đoàn thể, doanh nghiệp, trường học trên địa bàn huy động lực lượng thu gom bùn đất, vệ sinh môi trường, xử lý xác động vật, rác thải, cành cây trên tất cả các tuyến đường phố, ven sông, kênh mương, tại khu vực dân cư, công cộng; chỉ đạo Ban Quản lý các công trình công cộng, Công ty cổ phần Môi trường và Phát triển đô thị Quảng Bình tăng cường hoạt động thu gom, vận chuyển và xử lý triệt để rác thải phát sinh trên địa bàn, không để rác thải ứ động lâu ngày gây ô nhiễm môi trường và phát sinh dịch bệnh. Các nhà máy, cơ sở cung cấp nước sinh hoạt tập trung trên địa bàn tỉnh đã khẩn trương đi vào vận hành nhằm cấp nước sớm nhất cho người dân đảm bảo sinh hoạt và phục vụ vệ sinh môi trường tại chỗ. Các hộ dân đã tiến hành ngay việc súc, rửa, vệ sinh giếng nước lộ thiên, bể chứa nước, các đường ống dẫn, máy bơm, các giếng khoan,… không để dịch bệnh xảy ra do dùng nước ô nhiễm.
c. Chương trình phòng chống sốt rét
Tình hình sốt rét toàn tỉnh trong tháng 10/2020, tổng số lượt người điều trị sốt rét là 43 lượt người, đã điều trị khỏi bệnh là 5 người, trong đó không có bệnh nhân sốt rét ác tính và không có bệnh nhân tử vong do sốt rét; tiến hành xét nghiệm lam và test cho 4.369 lượt người, tỷ lệ ký sinh trùng/lam và test là 0,12%. Lũy kế từ đầu năm đến hết tháng 10/2020, tổng số lượt người điều trị sốt rét là 555 lượt người, đã điều trị khỏi bệnh là 27 người, trong đó có 01 bệnh nhân sốt rét ác tính và có 01 bệnh nhân tử vong do sốt rét; tiến hành xét nghiệm lam và test cho 40.843 lượt người, tỷ lệ ký sinh trùng/lam và test là 0,05%.
d. Tình hình nhiễm HIV/AIDS
Tiếp tục thực hiện các hoạt động tư vấn, hướng dẫn các hành vi an toàn phòng chống lây nhiễm HIV/AIDS nhằm hạn chế sự lây nhiễm từ các nhóm có nguy cơ cao ra cộng đồng. Từ đầu năm đến 31/10/2020 trên địa bàn tỉnh phát hiện 37 người nhiễm mới HIV, 28 người chuyển sang AIDS, 05 người tử vong do AIDS. Tổng số người nhiễm HIV cộng dồn là 1.485 người; tổng số bệnh nhân AIDS cộng dồn là 518 người; số bệnh nhân AIDS chết cộng dồn là 147 người.
e. Tình hình ngộ độc thức ăn và thực phẩm
Sở Y tế đã chủ trì và phối hợp với các cơ quan chức năng, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc tuân thủ đúng các quy định vệ sinh an toàn thực phẩm tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh, giết mổ, chế biến thực phẩm, bảo đảm tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm cho người tiêu dùng; qua kiểm tra đã xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm trong sản xuất, chế biến thực phẩm. Ghi nhận từ đầu năm đến 31/10/2020 đã xảy ra 02 vụ ngộ độc thực phẩm, 1 vụ ở xã Cảnh Dương (huyện Quảng Trạch) với 16 ca mắc và 1 vụ ở xã Bảo Ninh (thành phố Đồng Hới) với 7 ca mắc, các bệnh nhân đã được điều trị kịp thời nên không có tử vong xảy ra, ngoài ra còn có 203 ca ngộ độc thực phẩm nhỏ lẻ.
3. Hoạt động văn hóa, thể dục, thể thao
a. Hoạt động văn hóa
Thiết thực chào mừng Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Bình lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2020 - 2025, Thư viện tỉnh, Bảo tàng Tổng hợp tỉnh Quảng Bình tổ chức trưng bày sách, ảnh chào mừng Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Bình lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2020 - 2025. Tại không gian trưng bày, gần 1.000 ấn phẩm sách đã được sắp xếp theo các chủ đề một cách khoa học và đẹp mắt. Cùng với đó là 110 hình ảnh với chủ đề “Thành tựu kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng và công tác xây dựng Đảng, nhiệm kỳ 2015 - 2020”. Trưng bày sách, ảnh là hoạt động góp phần giúp cán bộ, đảng viên và người dân nắm rõ hơn về lịch sử vẻ vang của Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng bộ tỉnh Quảng Bình qua 90 năm xây dựng và phát triển; về những kết quả nổi bật của tỉnh đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh nhiệm kỳ qua. Đồng thời, tạo không khí vui tươi, phấn khởi, góp phần vào việc tổ chức thành công đại hội đảng bộ các cấp, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Bình lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2020 - 2025, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.
Thực hiện các nội dung liên quan trình và đã có Quyết định khen thưởng thành tích 20 năm triển khai xây dựng phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa. Đôn đốc, hướng dẫn BCĐ phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" các huyện, thị xã, thành phố đăng ký và bình xét danh hiệu gia đình văn hóa, thôn, bản, tổ dân phố văn hóa và cơ quan, đơn vị đạt chuẩn văn hóa năm 2020. Chú trọng việc chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện tiêu chí số 06 và 16 trong bộ tiêu chí quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016 - 2020. Thực hiện trang cấp thiết bị văn hóa cho cơ sở theo Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới, trong đó, chú trọng các xã thuộc địa bàn khó khăn, vùng sâu, miền núi (tổng kinh phí 2.069 triệu, 62 đơn vị thụ hưởng). Trong năm 2020 đã có 96,5% tổng số đám cưới trên địa bàn thực hiện theo nếp sống văn minh; có 95% tổng số đám tang thực hiện theo nếp sống mới. Tỷ lệ các danh hiệu văn hóa năm 2020 đều cao hơn cùng kỳ, ước tính có 85,3% hộ gia đình được công nhận danh hiệu "Gia đình văn hóa"; 81,6% thôn, bản, tổ dân phố đạt chuẩn văn hóa; 84% cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đạt chuẩn văn hóa.
b. Hoạt động thể dục, thể thao
Phong trào “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại’’ có bước phát triển mới về chất lượng, góp phần đáng kể vào việc duy trì và nâng cao thể chất cho nhân dân. Tỷ lệ người tham gia tập luyện thể dục thể thao thường xuyên ước tính đạt 32,4%, tăng 0,9 điểm % so với năm 2019. Tỷ lệ gia đình thể thao ước tính đạt 26,3%, tăng 0,5 điểm % so với năm 2019. Đến nay, toàn tỉnh có 720 câu lạc bộ TDTT và gần 2.700 điểm tập luyện; 1090 cộng tác viên TDTT trên địa bàn toàn tỉnh; 190 cơ sở kinh doanh hoạt động thể dục thể thao được cấp phép; 84 nhà thi đấu đa năng, 109 sân bóng đá các loại, 361 sân bóng chuyền, 236 sân cầu lông và hơn 60 bể bơi trong hệ thống trường học và cơ sở giáo dục.
Thể thao thành tích cao tỉnh Quảng Bình đã có bước tiến vững chắc trên đấu trường toàn quốc và quốc tế. Hiện nay, Quảng Bình có 52 vận động viên năng khiếu tập luyện thường xuyên (kể cả vận động viên tham gia Đội tuyển quốc gia và Đội tuyển trẻ quốc gia); có 14 vận động viên đạt đẳng cấp và 13 vận động viên được gọi vào Đội tuyển quốc gia và Đội tuyển trẻ quốc gia.
Lũy kế từ đầu năm đến nay, thể thao thành tích cao giành được 126 huy chương các loại (30 huy chương vàng, 39 huy chương bạc và 57 huy chương đồng).
4. Tình hình trật tự an toàn giao thông
a. An toàn giao thông
Theo báo cáo của Công an tỉnh, tháng 10 năm 2020 toàn tỉnh đã xảy ra 18 vụ tai nạn giao thông, giảm 7 vụ so với tháng 10 năm 2019, trong đó tai nạn giao thông đường bộ 18 vụ, giảm 7 vụ; tai nạn giao thông đường sắt và đường thủy không xảy ra. Số người chết do tai nạn giao thông 10 người, tăng 4 người so với tháng 10 năm 2019, trong đó tai nạn giao thông đường bộ chết 10 người, tăng 4 người. Số người bị thương do tai nạn giao thông 9 người, giảm 14 người so với tháng 10 năm 2019, trong đó tai nạn giao thông đường bộ bị thương 9 người, giảm 14 người.
Lũy kế 10 tháng năm 2020, toàn tỉnh đã xảy ra 113 vụ tai nạn giao thông, giảm 69 vụ so với cùng kỳ năm 2019; trong đó, tai nạn giao thông đường bộ 111 vụ, giảm 67 vụ so với cùng kỳ; tai nạn giao thông đường sắt 2 vụ, giảm 1 vụ; tai nạn giao thông đường thủy không xảy ra, giảm 1 vụ so với cùng kỳ. Số người chết do tai nạn giao thông 72 người, giảm 9 người so với cùng kỳ; trong đó, tai nạn giao thông đường bộ chết 71 người, giảm 7 người so với cùng kỳ; tai nạn giao thông đường sắt chết 1 người, giảm 2 người; đường thủy không có người chết do tai nạn giao thông, bằng cùng kỳ. Số người bị thương do tai nạn giao thông 104 người, giảm 33 người so với cùng kỳ; trong đó, tai nạn giao thông đường bộ bị thương 103 người, giảm 33 người; tai nạn giao thông đường sắt làm bị thương 1 người, tăng 1 người; đường thủy không xảy ra do tai nạn, giảm 1 người so với cùng kỳ năm 2019.
b. Tình hình cháy nổ
Từ đầu tháng 11 đến nay, toàn tỉnh đã xảy ra 1 vụ cháy với giá trị thiệt hại 170 triệu đồng; trong đó, cháy loại hình khác 1 vụ với giá trị thiệt hại 170 triệu đồng. Lũy kế từ đầu năm đến nay, toàn tỉnh đã xảy ra 35 vụ cháy với giá trị thiệt hại 7.288 triệu đồng; trong đó, cháy nhà đơn lẻ 10 vụ với giá trị thiệt hại 1.880 triệu đồng, cháy loại hình khác 8 vụ với giá trị thiệt hại 483 triệu đồng; cháy chợ 1 vụ với giá trị thiệt hại 15 triệu đồng, cháy phương tiện vận tải 7 vụ với giá trị thiệt hại 4.910 triệu đồng, cháy rừng 9 vụ với diện tích rừng bị cháy 64,56 ha. So với cùng kỳ năm trước số vụ cháy nổ giảm 9 vụ, số người chết giảm 1 người, số người bị thương giảm 1 người, giá trị thiệt hại do cháy nổ giảm 2.897,0 triệu đồng.
5. Thiệt hại do thiên tai
Ngày 15/11/2020 vị trí tâm bão số 13 ngay trên vùng biển các tỉnh từ Hà Tĩnh đến Quảng Bình, sức gió mạnh nhấtcấp 8 - 9 (60-90km/h), giật cấp 12. Do ảnh hưởng của bão số 13 từ 15h ngày 15/11 đến ngày 16/11 khu vực Quảng Bình có mưa, mưa vừa, có nơi mưa to đến rất to. Tổng lượng mưa phổ biến khu vực phía nam từ 10-30mm; ở phía bắc từ 50 - 100mm, có nơi lớn hơn 130mm. Lũ trên sông Kiến Giang đạt đỉnh và xuống chậm, đỉnh lũ trên sông Kiến Giang tại Lệ Thủy 1,90m, dưới BĐ II 0,30m. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ bão số 13 đã làm bị thương 11 người, 2.021 nhà ở bị tốc mái; 15 điểm trường bị tốc mái; 10 nhà Văn hóa bị hư hỏng; 01 trạm y tế bị tốc mái 50%; 14 tàu bị thiệt hại (02 tàu công suất 420 CV đứt neo bị chìm, 01 tàu công suất 180 CV bị va đập thủng mạn 02 tàu trên 90CV bị mắc cạn và 01 Tàu dưới 20 CV bị chìm đã được trục vớt; 08 tàu <33CV bị chìm); 1.040 m kè ven biển bị sạt lở; Đập của Hồ Khe Nậy bị hư hỏng nặng; 100 ha cây Keo bị đổ gãy, Cao su đổ gãy10 ha; 12,68 ha cây ăn quả, cây lâu năm bị gãy đổ; 10 ha sắn bị ngập và gãy đổ; 10 ha tôm bị ngập trôi, cột điện hạ thế bị đỗ 4 ha; đường dây điện hạ thế bị đứt 8 ngàn mét…
Để chủ động ứng phó với bão số 13, ngày 13/11/2020UBND tỉnh đã có Công điện số 19/CĐ-UBND về việc triển khai ứng phó với cơn bão số 13; Công điện số 20/CĐ-UBND ngày 14/11/2020 về việc tập trung ứng phó với bão số 13. Theo đó, các cấp các ngành đã tiến hành di dời người dân ở các nhà yếu, không an toàn: 13.251hộ/43.280 khẩu (huyện Tuyên Hóa 471 hộ/1.536 khẩu; thành phố Đồng Hới 973 hộ/3.158 khẩu; huyện Minh Hóa 2.552 hộ/11.208 khẩu; huyện Quảng Trạch 762 hộ/1.961 khẩu; huyện Quảng Ninh 2.298 hộ/6.626 khẩu; huyện Bố Trạch 2.173 hộ/5.870 khẩu, huyện Lệ Thủy 2.110 hộ/8.077 khẩu, Ba Đồn 1.946 hộ/4.972 khẩu); Di dời do sạt lở đất, đã di dời: 1.008 hộ/4.092 khẩu (trong đó đã di dời từ trước: 108 hộ/438 khẩu). Cụ thể: Lệ Thủy 19 khẩu/76 khẩu; Quảng Ninh 34 hộ/128 khẩu; Bố Trạch 404 hộ/1.566 khẩu; Ba Đồn 3 hộ/15 khẩu; Tuyên Hóa 119 hộ/404 khẩu; Minh Hóa 321 hộ/1.343 khẩu. Tính đến 11h30 ngày 14/11/2020, toàn bộ 6.564/6.564 phương tiện tàu cá trong tỉnh, 147 tàu cá ngoại tỉnh (Quảng Ngãi, Nam Định, Quảng Ninh, Thanh Hóa) và 08 tàu vận tải trên địa bàn đã vào vị trí neo đậu an toàn.
Đã thành lập các đoàn công tác do lãnh đạo UBND chủ trì, tiến hành kiểm tra công tác chuẩn bị phòng, chống bão ở các địa phương trên địa bàn. Phân công các thành viên Ban Chỉ huy Phòng chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn kiêm phòng thủ dân sự tỉnh chỉ đạo các xã, phường, đơn vị thực hiện tốt công tác phòng chống mưa, lũ. Tổ chức trực ban 24/24, theo dõi chặt chẽ bản tin, cảnh báo diễn biến của bão số 13 để triển khai các biện pháp ứng phó phù hợp, kịp thời theo phương châm “4 tại chỗ”; tổ chức theo dõi chặt chẽ diễn biến của bão; kịp thời chỉ đạo, đôn đốc các sở, ngành, địa phương triển khai các biện pháp cụ thể ứng phó với bão, mưa lũ.
Trước đó, trong tháng 10, trên địa bàn tỉnh đã xãy ra hai đợt mưa lũ liên tiếp, đặc biệt đợt mưa lũ lịch sử từ ngày 16 đến ngày 20 tháng 10 (tại Lệ Thủy mực nước 4,88m trên báo động III 2,18m vượt đỉnh lũ lịch sử 0,91m, tại Mai Hóa 8,51m trên báo động III 2,03m...) gây thiệt hại nghiêm trọng, nhất là địa bàn huyện Lệ Thủy, Quảng Ninh, các địa phương lưu vực sông Gianh, sông Son. Mặc dù đã triển khai tích cực, quyết liệt các phương án ứng phó với mưa lũ, nhưng do cường suất mưa quá lớn nên đã gây thiệt hại lớn về người và tài sản trên phạm vi toàn tỉnh, ước tính tổng giá trị thiệt hại do bão, mưa lũ gây ra là 3.511,674 tỷ đồng; cụ thể:
Từ ngày 6 - 12/10/2020 và ngập lụt ở nhiều địa phương trên địa bàn tỉnh đã làm cho 2 người chết và 9 người bị thương; sản xuất kinh doanh, đời sống và tài sản của nhân dân và Nhà nước bị thiệt hại nặng nề; thiệt hại về nhà ở toàn tỉnh đã có 52 nhà bị hư hỏng, 20.006 nhà bị ngập; 498 nhà bị cô lập; 106 điểm trường bị ảnh hưởng, 367 phòng chức năng bị ngập; 30 phòng học hư hỏng; 17 trạm y tế bị ngập, 02 trạm y tế hư hỏng; chiều dài đê, kè thủy lợi bị sạt lở hư hỏng 2.280m, chiều dài kênh mương bị sạt lở, hư hỏng 37.712m; đập bị sạt lở bị hư hỏng 34 cái; khối lượng đất, đá, bê tông đường giao thông bị sạt lở 211.655 m3. Thiệt hại về nông nghiệp, thủy sản: 2.062,8 ha lúa, hoa màu, cây trồng bị hư hỏng; hạt giống hư hỏng 27 tấn; gia súc bị chết 119 con; gia cầm bị chết, cuốn trôi 63.106 con; diện tích nuôi trồng thủy sản thiệt hại: 1.171,8 ha; lồng bè nuôi thủy, hải sản 195 lồng; phương tiện khai thác thủy hải sản 06 chiếc; uớc tính tổng giá trị thiệt hại sơ bộ toàn tỉnh do mưa lũ đợt 1 là 655,7 tỷ đồng. Tiếp đến từ ngày 16 - 20/10/2020 do ảnh hưởng của bão số 8 đã gây ra đợt mưa lũ lịch sử, lũ đợt 2 đã làm cho đã làm 23 người bị chết; bị thương 188 người. Về tài sản: 109.254 hộ bị ngập, nặng nhất là huyện Lệ Thủy, Quảng Ninh; 1.679 nhà bị hư hại; gần 7.000 ha hoa màu, cây trồng bị hư hỏng; hạt giống, lương thực bị trôi, ẩm, ướt và hư hỏng: 41.231,6 tấn; diện tích nuôi trồng thủy sản thiệt hại: 3.789,3 ha; lồng bè nuôi thủy, hải sản: 491 lồng; Phương tiện khai thác thủy hải sản: 228 chiếc; có 68 điểm sạt lở, nguy cơ sạt lở và 894 hộ cần phải di dời; 147.638,5 m kênh mương bị sạt, trôi, hư hỏng; 2.280m đê, kè bị sạt lở hư hỏng: 345 công bị hư hỏng, trôi; 48 đập bị sạt lở; 110 trạm bơm bị hư hỏng; 69.849m đê, kè bị sạt lở hư hỏng; 22.716 m bờ biển, bờ sông bị sạt lở,… Ước tính tổng giá trị thiệt hại toàn tỉnh do đợt mưa lũ từ ngày 16 đến 22/10/2020 là 2.856,024 tỷ đồng.
Trước, trong, sau lũ, Tỉnh ủy, HĐND tỉnh, UBND tỉnh đã chỉ đạo các cấp, các ngành triển khai đồng bộ, kịp thời các giải pháp phòng chống và khắc phục hậu quả. Triển khai các phương án ứng phó, cứu hộ, cứu nạn, di dời dân đến nơi an toàn; cứu trợ lương thực, nhu yếu phẩm cho nhân dân; tổ chức thăm hỏi, động viên kịp thời các gia đình bị thiệt hại, gia đình có người thiệt mạng, bị thương; đảm bảo nước uống, tăng cường dọn dẹp vệ sinh, tiêu độc khử trùng, phòng chống các loại dịch bệnh.
Ngay khi lũ lớn và sau lũ, hàng trăm đoàn cứu trợ của các cấp, các ngành, của những nhóm, hội thiện nguyện tự phát từ khắp cả nước đã tìm mọi cách đưa hàng cứu trợ về các vùng bị ngập sâu thuộc các địa phương trong tỉnh; nhờ đó đa số người dân đều đã được hỗ trợ kịp thời trong và sau lũ.Đồng thời, để hỗ trợ kịp thời giúp người dân vượt qua những khó khăn sau các đợt lũ; ngày 30/10/2020, UBND tỉnh đã có Quyết định số 4164/QĐ-UBND về việc phân bổ 2.500 tấn gạo từ nguồn dữ trữ Quốc gia cho các huyện, thị xã, thành phố để cứu đói cho Nhân dân bị ảnh hưởng do mưa lũ. Cụ thể, huyện Lệ Thủy 580 tấn; huyện Quảng Ninh 450 tấn; huyện Bố Trạch 420 tấn; thị xã Ba Đồn 290 tấn; huyện Minh Hóa 170 tấn; huyện Tuyên Hóa 350 tấn; huyện Quảng Trạch 210 tấn; thành phố Đồng Hới 30 tấn. UBND tỉnh giao Sở Lao động Thương binh và Xã hội chủ trì hướng dẫn các địa phương cấp phát gạo kịp thời, đúng đối tượng, đúng mục đích, chế độ quy định và phù hợp với tình hình khó khăn thực tế tại các địa phương, cơ sở và tổng hợp báo cáo kết quả thực hiện về UBND tỉnh theo quy định. Cục Dự trữ Nhà nước khu vực Bình Trị Thiên chủ trì, phối hợp với Sở Lao động - Thương binh và Xã hội và UBND các huyện, thị xã, thành phố tổ chức giao nhận gạo tại Trung tâm các huyện, thị xã, thành phố theo số lượng gạo được phân bổ.
Uỷ ban MTTQ Việt Nam tỉnh Quảng Bình đã kịp thời vận động, tiếp nhận và cứu trợ kịp thời cho người dân bị thiệt hại. Theo báo cáo của Uỷ ban MTTQ Việt Nam tỉnh Quảng Bình từ ngày 10/10/2020 đến ngày 18/11/2020 đã tiếp nhận ủng hỗ trợ tiền hiện vật từ các tổ chức cá nhân 89,7 tỷ đồng; ngoài ra các tổ chức cá nhân đăng ký ủng hộ tiền và hiện vật 13,2 tỷ đồng. Trong số những đoàn cứu trợ, có những đoàn liên hệ với chính quyền địa phương, có những đoàn đi tự túc, hoạt động nhiều cách thức khác nhau. Chính vì hoạt động thiện nguyện tự phát, khi nước lũ dâng cao, việc tiếp cận các hộ dân bị chia cắt gây nguy hiểm cho chính người đi cứu trợ và phát sinh ra một số hệ quả không mong muốn như, vào thời điểm nước lũ tại huyện Lệ Thủy lên đỉnh điểm, việc các đoàn cứu trợ tự đi đò vào các vùng ngập lũ không an toàn. Thực tế đã có đoàn cứu trợ bị lật thuyền vì gặp sóng lớn, nhưng may mắn có những thuyền gần đó cứu được hay là các đoàn đi vào các vùng lũ nhưng thiếu định hướng, không nắm được các thông tin tại địa phương, dẫn đến tình trạng cứu trợ nơi thừa, nơi thiếu. Với những vùng dễ tiếp cận, nhiều đoàn thiện nguyện hoạt động nên dẫn đến tình trạng “người cho nhiều hơn người nhận”. Trong khi đó, còn nhiều vùng người dân thực sự khó khăn, thiếu thốn nhưng lại chưa nhận được sự hỗ trợ nên ít nhiều đã tạo sự bất cập trong công tác cứu trợ./.
Website Cục thống kê tỉnh Quảng Bình