Thực hiện Nghị quyết số 42/2012/NQ-HĐND ngày 06/12/2012 của Hội đồng nhân dân tỉnh về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2013, Nghị quyết số 43/2012/NQ-HĐND ngày 06/12/2012 của Hội đồng nhân dân tỉnh về Dự toán ngân sách địa phương và phương án phân bổ ngân sách cấp tỉnh năm 2013; Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành Quyết định số 1888/QĐ-UBND ngày 07/12/2012 giao chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2013; Quyết định số 1889/QĐ-UBND ngày 07/12/2012 giao dự toán ngân sách nhà nước năm 2013.
Thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 07/01/2013 của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2013; Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 07/01/2013 của Chính phủ về một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường, giải quyết nợ xấu; Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành Quyết định số 58/QĐ-UBND ngày 16/01/2013 về Kế hoạch chỉ đạo, điều hành thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước năm 2013.
Sáu tháng đầu năm 2013, với sự chỉ đạo quyết liệt của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh, sự nỗ lực phấn đấu của các cấp, các ngành, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân, kinh tế - xã hội của tỉnh đạt kết quả khá, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, quốc phòng được bảo đảm. Kết quả đạt được cụ thể trên các lĩnh vực như sau:
Phần I
TÌNH HÌNH KINH TẾ – XÃ HỘI 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2013
I. LĨNH VỰC KINH TẾ
1. Về tăng trưởng kinh tế
Tốc độ tăng trưởng kinh tế ước đạt 6,96% (cùng kỳ tăng 7,5%); trong đó: Nông, lâm nghiệp, thủy sản tăng 2,93% (cùng kỳ tăng 2,7%); công nghiệp - xây dựng tăng 9,11% (cùng kỳ tăng 9,76%) (công nghiệp tăng 12,52%, xây dựng tăng 4,93%); dịch vụ tăng 9,17% (cùng kỳ tăng 9%).
Nếu tính có giá trị sản xuất Công ty thủy điện Hòa Bình, tốc độ tăng trưởng kinh tế ước đạt 11,1% (cùng kỳ tăng 6,66%); trong đó: Nông, lâm nghiệp, thủy sản tăng 2,93% (cùng kỳ tăng 2,7%); công nghiệp - xây dựng tăng 15,34% (cùng kỳ tăng 7,38%) (công nghiệp tăng 16,74%; xây dựng tăng 4,93%); dịch vụ tăng 9,17% (cùng kỳ tăng 9%).
2. Về sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản
Sản xuất nông nghiệp có nhiều thuận lợi; những khó khăn chủ yếu như thiếu nước tưới, lốc xoáy, dịch bệnh lở mồm long móng trên đàn gia súc đã được chỉ đạo giải quyết, khắc phục kịp thời. Giá trị sản xuất ước đạt 3.110 tỷ đồng, trong đó: Giá trị sản xuất nông nghiệp: 2.685 tỷ đồng, lâm nghiệp: 359 tỷ đồng, thủy sản: 66 tỷ đồng.
Tổng diện tích gieo trồng vụ đông xuân ước đạt 80.130 ha, tăng 2,2% so với cùng kỳ; sản lượng ước đạt 190.592 tấn, tăng 8,3% so với cùng kỳ. Diện tích gieo cấy lúa đạt 16.578 ha, tăng 0,7% so với cùng kỳ, năng suất ước đạt 56 tạ/ha, sản lượng 92.836 tấn, tăng 1,7% so với cùng kỳ. Diện tích gieo trồng ngô đạt 22.734 ha, năng suất ước đạt 43 tạ/ha, sản lượng 97.756 tấn, tăng 15,4% so với cùng kỳ.
Đã tập trung theo dõi tình hình mực nước ở các hồ chứa, tăng cường khai thác các công trình thuỷ lợi; chủ động điều tiết, sử dụng nước tiết kiệm, bảo đảm phục vụ cho sản xuất, sinh hoạt. Chiến dịch toàn dân làm thủy lợi đợt I thực hiện trên 109% kế hoạch, trong đó đào đắp 323.508m3, xây kè 20.389m3, phát dọn trên 1,41 triệu m2 kênh mương, huy động gần 335 nghìn công lao động, kinh phí ước đạt trên 21 tỷ đồng.
Đến hết tháng 6 năm 2013, trồng rừng tập trung 5.015 ha, đạt 71,6% kế hoạch, trồng cây phân tán 253.765 cây các loại; thực hiện tốt công tác chăm sóc, khoanh nuôi và bảo vệ rừng, độ che phủ rừng ổn định 46%.
Tổ chức tiêm vắc xin phòng bệnh được 59.000 liều tụ huyết trùng, Tiêm mao trùng trâu, bò; gần 70.000 liều lở mồm long móng cho trâu, bò, lợn; trên 43.000 liều dịch tả, phó thương hàn, lepto lợn; 63.000 liều vắc xin phòng chó dại.
Sản lượng thủy sản ước đạt 2.062 tấn; toàn tỉnh hiện có 2.200 ha diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản.
3. Về sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
Ngành công nghiệp tiếp tục đạt tăng trưởng ở mức khá; giá trị sản xuất công nghiệp ước đạt 3.209 tỷ đồng, giá trị tăng thêm tăng 12,52% so với cùng kỳ, thực hiện 48,5% kế hoạch (nếu tính Công ty thủy điện Hòa Bình, giá trị sản xuất ước đạt 7.258 tỷ đồng, giá trị tăng thêm tăng 16,74% so với cùng kỳ, thực hiện 47,1% kế hoạch).
Sản lượng điện ước đạt 4 tỷ kwh, tăng 11,1% so với cùng kỳ, giá trị tăng thêm tăng 17,57%; sản xuất giấy có mức tăng trưởng khá, sản lượng ước đạt 12.799 tấn, tăng 24,7% so với cùng kỳ; dệt may ước đạt 6,56 triệu sản phẩm, tăng 28,7% so với cùng kỳ; xi măng sản lượng tăng trưởng ổn định, đạt 297 nghìn tấn, tăng 5,1% so với cùng kỳ.
Tính đến nay đã có 58 dự án đầu tư vào các khu công nghiệp, trong đó: Có 14 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài với tổng số vốn đăng ký 327,24 triệu USD; 44 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đăng ký trên 5.310 tỷ đồng. Đã có 30 dự án đi vào hoạt động sản xuất, kinh doanh với doanh thu 20 triệu USD và 450 tỷ đồng, nộp ngân sách nhà nước 14,5 tỷ đồng, giải quyết việc làm cho trên 5.000 lao động.
4. Về thương mại, giá cả và dịch vụ
a) Về thương mại, giá cả:
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 4.500 tỷ đồng, tăng 26,5% so với cùng kỳ, thực hiện 45,3% kế hoạch (nếu loại bỏ yếu tố tăng giá, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tăng khoảng 23%).
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) giảm liên tiếp trong tháng 4 và tháng 5; tháng 6 năm 2013 tăng 2,92% so với tháng 12 năm 2012; trong đó giảm khá mạnh ở các nhóm: Hàng ăn uống, nhà ở, điện, chất đốt, vật liệu xây dựng, giao thông, vàng; một số nhóm mặt hàng như quần áo, đồ dùng gia đình, đồ uống, giấy vở, văn hóa giải trí (phục vụ du lịch, lễ hội) có chỉ số giá tăng.
b) Về xuất, nhập khẩu:
Kim ngạch xuất khẩu ước đạt 41,73 triệu USD, tăng 22,5% so với cùng kỳ, thực hiện 41,7% kế hoạch năm. Kim ngạch nhập khẩu ước đạt 21,11 triệu USD, tăng 18,8% so với cùng kỳ, thực hiện 49% kế hoạch năm.
c) Về du lịch:
Tiếp tục tuyên truyền, quảng bá tiềm năng của tỉnh để thu hút đầu tư, thu hút khách du lịch và phát triển các loại hình dịch vụ du lịch. Đã phối hợp thực hiện chương trình hợp tác phát triển du lịch 8 tỉnh Tây Bắc mở rộng năm 2013. Tăng cường công tác chỉ đạo bảo đảm an ninh, an toàn, phòng chống cháy nổ, ô nhiễm môi trường; bảo đảm chất lượng dịch vụ và vệ sinh an toàn thực phẩm cho khách du lịch. Ước tính 6 tháng đầu năm 2013, có khoảng 885.000 lượt khách đến tham quan, du lịch, trong đó khách quốc tế là 150.000 lượt, khách nội địa là 735.000 lượt; thu nhập từ du lịch ước đạt 340 tỷ đồng, đạt 58% kế hoạch, tăng 20% so với cùng kỳ năm 2012.
d) Về vận tải:
Thực hiện vận chuyển 907 nghìn tấn hàng hoá, luân chuyển 85,68 triệu tấn hàng hoá.km; vận chuyển 1,52 triệu lượt hành khách, luân chuyển 163,41 triệu lượt hành khách.km. Vận tải đường thủy nội địa, đã vận chuyển 313 nghìn tấn hàng hoá, luân chuyển 22,7 triệu tấn hàng hoá.km; vận chuyển 176,3 nghìn hành khách, luân chuyển 1,39 triệu lượt hành khách.km.
5. Về tài chính, tiền tệ
a) Về tài chính:
Tổng thu ngân sách nhà nước ước đạt 750 tỷ đồng, bằng 44% dự toán Thủ tướng Chính phủ giao, bằng 38% Nghị quyết Hội đồng nhân dân tỉnh, trong đó: Thu cân đối ngân sách ước đạt 740,3 tỷ đồng; thu quản lý qua ngân sách ước đạt 9,72 tỷ đồng.
Thu ngân sách địa phương ước thực hiện 4.073,5 tỷ đồng, bằng 69% dự toán Thủ tướng Chính phủ giao, bằng 66% Nghị quyết Hội đồng nhân dân tỉnh; trong đó các khoản thu điều tiết trong cân đối 740,17 tỷ đồng; thu bổ sung từ ngân sách trung ương 2.427 tỷ đồng; thu quản lý qua ngân sách nhà nước 9,72 tỷ đồng.
Tổng chi ngân sách địa phương ước thực hiện 3.429 tỷ đồng, bằng 58% dự toán Thủ tướng Chính phủ giao, bằng 55% Nghị quyết Hội đồng nhân dân tỉnh; trong đó: Chi cân đối ngân sách ước thực hiện 2.847,2 tỷ đồng, bằng 59% dự toán Thủ tướng Chính phủ giao, bằng 55% Nghị quyết Hội đồng nhân dân tỉnh; chi từ nguồn bổ sung có mục tiêu ngân sách trung ương ước đạt 572 tỷ đồng, bằng 51% dự toán Thủ tướng Chính phủ giao, bằng 73% Nghị quyết Hội đồng nhân dân tỉnh; chi từ nguồn thu quản lý qua ngân sách nhà nước ước đạt 9,72 tỷ đồng, bằng 5% Nghị quyết Hội đồng nhân dân tỉnh.
Nhìn chung, thu ngân sách nhà nước 6 tháng đầu năm 2013 đạt thấp do kinh tế còn nhiều khó khăn; thu từ nguồn đấu giá quyền sử dụng đất đạt thấp do thị trường bất động sản chìm lắng. Tình trạng nợ thuế vẫn tiếp tục gia tăng, đến thời điểm tháng 4, tổng số nợ thuế có khả năng thu là 236 tỷ đồng, tăng 68% so với 31/12/2012, chiếm 15% tổng thu ngân sách nhà nước; số nợ thuế chủ yếu tập trung ở các huyện vùng động lực như: Thành phố Hòa Bình, huyện Lương Sơn, huyện Kỳ Sơn. Việc thực hiện hỗ trợ doanh nghiệp, cắt giảm thuế theo Nghị quyết số 02/NQ-CP cũng làm giảm số thu khoảng 31,5 tỷ đồng.
b) Về tiền tệ, ngân hàng:
Ngành ngân hàng đã tích cực triển khai thực hiện các giải pháp đề ra trong các Nghị quyết số 01/NQ-CP, Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 07/01/2013 của Chính phủ, Chỉ thị số 01/CT-NHNN ngày 31/01/2013 của Ngân hàng nhà nước Việt Nam về một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất - kinh doanh, hỗ trợ thị trường, giải quyết nợ xấu.
Về lãi suất huy động, lãi suất tiền gửi dưới 12 tháng được duy trì ở mức 7,5%/năm đối với các ngân hàng, 7,5-8%/năm đối với Quỹ tín dụng nhân dân. Lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi dưới 1 tháng là 2%/năm. Lãi suất huy động từ 12 tháng trở lên đối với các ngân hàng dao động ở mức 7-9,5%/năm. Lãi suất huy động từ 12 tháng trở lên đối với các Quỹ tín dụng nhân dân là 9,3-10,38%/năm.
Về lãi suất cho vay, các ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng đều nghiêm túc thực hiện điều chỉnh giảm lãi suất cho vay theo quy định.Lãi suất cho vay đối với các ngân hàng ở mức 7-14,5%/năm, lãi suất cho vay đối với các Quỹ tín dụng nhân dân ở mức 10,8- 15%/năm.Lãi suất cho vay áp dụng thấp nhất đối với 05 lĩnh vực ưu tiên (Doanh nghiệp nhỏ và vừa, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, nông nghiệp, nông thôn, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao) là 7-10%/năm (đối với các ngân hàng) và 9,9-11%/năm (đối với các Quỹ tín dụng nhân dân).
Tổng nguồn vốn huy động của các tổ chức tín dụng đến 20/5/2013 đạt 9.731 tỷ đồng, tăng 263 tỷ so với 31/12/2012; ước thực hiện đến 30/6/2013 đạt 9.940 tỷ đồng, tăng 472 tỷ đồng so với 31/12/2012.
Tổng dư nợ toàn tỉnh đến 30/6/2013 ước đạt 9.270 tỷ đồng, tăng 255 tỷ đồng so với 31/12/2012. Về chất lượng tín dụng, đến 30/6/2013 nợ xấu toàn địa bàn là 102 tỷ đồng, chiếm 1,1%/tổng dư nợ, trong đó: Nợ xấu của Ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển là 62 tỷ đồng, tỷ lệ nợ xấu 2,15%/tổng dư nợ; Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn là 31 tỷ đồng, tỷ lệ nợ xấu 1,22%/tổng dư nợ, Ngân hàng chính sách xã hội là 6,3 tỷ đồng, tỷ lệ nợ xấu 0,45%/tổng dư nợ.
Nhìn chung, lãi suất điều chỉnh giảm dần trong thời gian qua đã góp phần tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, tăng cơ hội đưa vốn vào sản xuất kinh doanh và tăng khả năng phục hồi kinh tế. Tuy nhiên tỷ lệ tăng trưởng tín dụng còn thấp (2,5% so với 31/12/2012) và thấp hơn cùng kỳ (6 tháng đầu năm 2012 tăng 3,87%) trong điều kiện lãi suất đã hạ cho thấy nền kinh tế vẫn chưa hấp thụ vốn, các doanh nghiệp chưa đẩy mạnh đầu tư, nhất là đầu tư dài hạn và mở rộng sản xuất, kinh doanh.
6. Về đầu tư phát triển
Đã phê duyệt kế hoạch chi tiết 1.752,88 tỷ đồng nguồn vốn ngân sách nhà nước được giao trong kế hoạch năm 2013; trong đó: Nguồn vốn xây dựng cơ bản tập trung là 266,5 tỷ đồng; nguồn vốn ngân sách Trung ương hỗ trợ có mục tiêu là 356,64 tỷ đồng (trong đó: nguồn vốn Nghị quyết số 37-NQ/TW là 86 tỷ đồng; Chương trình củng cố, nâng cấp đê sông 18 tỷ đồng; Chương trình ổn định dân cư vùng chuyển dân sông Đà 65 tỷ đồng; nguồn vốn CT 229 là 55,3 tỷ đồng; Chương trình phát triển và bảo vệ rừng bền vững 36,8 tỷ đồng; hỗ trợ đối ứng ODA 37,72 tỷ đồng…); nguồn vốn chương trình mục tiêu quốc gia 286,22 tỷ đồng (trong đó vốn đầu tư là 145,3 tỷ đồng); nguồn vốn trái phiếu Chính phủ 544,2 tỷ đồng. Nhìn chung, ngoài nguồn xây dựng cơ bản tập trung ổn định so với năm trước, đa số các nguồn hỗ trợ có mục tiêu của ngân sách Trung ương giảm (Nguồn Nghị quyết số 37-NQ/TW giảm 25,2%; nguồn CT 229 giảm 18,6%; nguồn hạ tầng du lịch giảm 62%; nguồn đầu tư nâng cấp đê sông giảm 54%; tổng các nguồn giảm 27% so với năm 2012); nguyên nhân chính do kinh tế suy giảm, khả năng thu ngân sách giảm dẫn đến phải thực hiện cắt giảm các nguồn chi.
Tiến độ giải ngân tính đến hết 31/5/2013: Nguồn vốn xây dựng cơ bản tập trung đạt 104,25 tỷ đồng, bằng 59,4% kế hoạch (không tính ngân sách cấp cho các huyện, thành phố và trả nợ vay, ứng trước); nguồn vốn Nghị quyết số 37-NQ/TW đạt 39,26 tỷ đồng, bằng 52,3% kế hoạch; nguồn vốn CT 229 đạt 36,59 tỷ đồng, bằng 70,6% kế hoạch; nguồn hỗ trợ đối ứng các dự án ODA đạt 6,39 tỷ đồng, bằng 32,2% kế hoạch; nguồn vốn ổn định dân cư vùng hồ sông Đà đạt 21,89 tỷ đồng, bằng 39,8% kế hoạch. Một số nguồn vốn lớn đã thực hiện giải ngân đạt từ 50 – 70% ngay trong 6 tháng đầu năm như: Xây dựng cơ bản tập trung, Nghị quyết số 37-NQ/TW, CT 229; nguyên nhân chủ yếu do vốn kế hoạch tập trung cho công trình chuyển tiếp, trả nợ khối lượng nên sau khi giao kế hoạch có thể giải ngân được ngay.
Năm 2013, các nguồn xây dựng cơ bản tập trung và hỗ trợ có mục tiêu từ ngân sách Trung ương do tỉnh quản lý chỉ có 21 dự án khởi công mới; trong khi dự kiến có 83 dự án hoàn thành. Việc bố trí vốn tập trung cho các dự án chuyển tiếp, dự án hoàn thành, trả nợ vốn vay, xử lý tồn tại các công trình đã hoàn thành, bố trí vốn bảo đảm tiến độ theo tinh thần Chỉ thị số 1792/CT-TTg, góp phần nhanh chóng đưa các dự án vào khai thác sử dụng, phát huy hiệu quả vốn đầu tư. Tuy nhiên việc hạn chế tối đa khởi công mới, cùng với suy giảm vốn đầu tư trong năm 2013 đã góp phần làm giảm cầu của nền kinh tế do hàng loạt doanh nghiệp xây dựng (gồm tư vấn và xây lắp) không có hợp đồng mới, không có nhu cầu tín dụng đầu tư, tiêu dùng vật liệu xây dựng giảm, công nhân mất việc làm,... đã ảnh hưởng đến tăng trưởng, phát triển kinh tế của tỉnh.
7. Về xúc tiến đầu tư, cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh
Tính đến 30/6/2013, đã có 14 dự án được cấp giấy chứng nhận đầu tư (tăng 7,7% so với cùng kỳ năm ngoái) với tổng số vốn đăng ký khoảng 2.307 tỷ đồng. Đến nay, trên địa bàn tỉnh có 394 dự án, trong đó 25 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài với tổng số vốn đăng ký 399 triệu USD, 369 dự án trong nước với tổng số đầu tư đăng ký khoảng 45.000 tỷ đồng.
Tính đến 07/6/2013 trên địa bàn tỉnh có 156 doanh nghiệp thành lập mới với tổng số vốn đăng ký 789,7 tỷ đồng, nâng tổng số doanh nghiệp trong toàn tỉnh là 2.290 doanh nghiệp với tổng số vốn đăng ký là 15.352 tỷ đồng (trong đó có 50 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động sản xuất kinh doanh). Tiến hành kiểm tra và thu hồi giấy chứng nhận đăng ký đối với 10 doanh nghiệp.
8. Về quản lý xây dựng, quản lý giao thông, vận tải
Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh đã phê duyệt Đề án nhà ở cho người có thu nhập thấp trên địa bàn thành phố Hòa Bình giai đoạn 2012- 2020, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển thị trường bất động sản và hỗ trợ an sinh xã hội.
Đã thực hiện kiểm định 4.700 lượt xe, bằng 95% so với cùng kỳ năm trước. Tổng số xe đạt tiêu chuẩn 4.196 lượt, đạt 89% số xe vào kiểm định. Công tác quản lý người lái, đào tạo, sát hạch được thực hiện theo đúng các quy định. Công tác cấp, đổi, di chuyển giấy phép lái xe được thực hiện nhanh chóng, thuận tiện. Triển khai thành công hệ thống cấp đổi giấy phép lái xe áp dụng công nghệ mới để quản lý dữ liệu thống nhất trên toàn quốc. Cấp giấy phép lái xe mô tô hạng A1 cho 6.000 học viên; cấp giấy phép lái xe ô tô cho 800 học viên; đổi giấy phép lái xe cho 2.600 trường hợp.
Về công tác giao thông nông thôn, thường xuyên chỉ đạo, hỗ trợ các địa phương thực hiện công tác bảo dưỡng các tuyến đường huyện, đường xã để bảo đảm giao thông thông suốt và duy trì kỹ thuật các tuyến đường này.
9. Về quản lý tài nguyên, môi trường
Ủy ban nhân dân tỉnh đã thu hồi đất cho thuê của 29 tổ chức, diện tích 61,43 ha; thu hồi và giao đất cho 21 tổ chức, diện tích 89,13 ha; cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho 43 tổ chức, diện tích 189,68 ha; ký hợp đồng thuê đất cho 28 tổ chức, diện tích 50,46 ha. Thực hiện ký hợp đồng cho các tổ chức đã hết thời gian ổn định đơn giá thuê đất. Triển khai và chỉ đạo thực hiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho các tổ chức sử dụng đất trên địa bàn tỉnh.
Chú trọng làm tốt công tác bảo vệ môi trường trong hoạt động khoáng sản, thực hiện ký quỹ cải tạo phục hồi môi trường; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm pháp luật về khoáng sản và kiểm tra các dự án đã cấp phép nhưng không tổ chức khai thác để đề xuất xử lý. Nghiên cứu phương án tiếp tục thực hiện khoanh định khu vực cấm, tạm thời cấm hoạt động khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh nhằm bảo vệ môi trường trong hoạt động khoáng sản.
Phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường cho 8 dự án mới. Tổ chức kiểm tra và thẩm định 04 đề án bảo vệ môi trường. Thực hiện giám sát quan trắc môi trường tại cơ sở được 130 đơn vị, tăng 32 đơn vị, đạt 32,6% so với cùng kỳ năm 2012.
II.LĨNH VỰC VĂN HÓA - XÃ HỘI
1. Về Giáo dục và Đào tạo
Mạng lưới trường, lớp, chất lượng cán bộ quản lý, giáo viên, học sinh, sinh viên có bước tiến mới; chú trọng đổi mới phương pháp dạy, học và kiểm tra, đánh giá theo hướng phát triển năng lực tự học, tự nghiên cứu và làm việc theo nhóm, phát triển các kỹ năng mềm;... Các hoạt động dạy nghề tiếp tục phát triển theo hướng tăng cường đào tạo nghề trình độ, chú trọng đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Tiếp tục tập trung chỉ đạo thực hiện thí điểm mô hình trường học mới tại Việt Nam giành cho bậc tiểu học.
Tỷ lệ học sinh đỗ tốt nghiệp THPT năm học 2012 - 2013 đạt95,92% (giảm 3,95% so với năm học 2011 - 2012), thấp hơn so với trung bình cả nước (97,52%); Giáo dục thường xuyên đạt 91,81% (giảm 7,23% so với năm học 2011 - 2012), cao hơn trung bình cả nước (78,08%); tỷ lệ xét tốt nghiệp THCS đạt 99,81% (tăng 1,1% so với năm học trước).
Tham dự và tổ chức thành công giải bóng đá Hội khỏe phù đổng học sinh TH-THCS toàn quốc khu vực I, Cúp Milo lần thứ XI năm 2013.
Tích cực chỉ đạo thực hiện công tác phổ cập giáo dục; xây dựng Kế hoạch “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2012-2020”. Tập trung xây dựng trường đạt chuẩn Quốc gia; đến nay, toàn tỉnh có 176 trường đạt chuẩn Quốc gia, đạt tỉ lệ 24,6%. Bên cạnh đó, đã chủ động triển khai thực hiện kế hoạch “Năm giáo dục vùng khó khăn” thông qua các hoạt động dự giờ, trao đổi kinh nghiệm, tập huấn nghiệp vụ tại các trường khó khăn trên địa bàn tỉnh.
2. Về y tế, bảo hiểm xã hội
Công tác y tế dự phòng và vệ sinh an toàn thực phẩm được đẩy mạnh. Công tác thanh tra, kiểm tra các cơ sở giết mổ, sản xuất, chế biến thực phẩm được tăng cường, nhất là trong dịp Tết Nguyên đán; kiên quyết xử lý nghiêm và công khai các hành vi vi phạm an toàn thực phẩm. Các biện pháp phòng chống dịch bệnh trên gia súc, gia cầm được triển khai; phát hiện và xử lý kịp thời, không để dịch bệnh bùng phát, lây lan. Các cơ quan chức năng đã tăng cường phối hợp, giám sát tại các chốt kiểm dịch, kịp thời ngăn chặn và giảm thiểu việc xâm nhập, lây truyền dịch bệnh.
Sáu tháng đầu năm 2013, đã có 373,5 nghìn lượt người khám bệnh; điều trị nội trú trên 52 nghìn bệnh nhân, ngoại trú trên 9,4 nghìn bệnh nhân; công suất sử dụng giường bệnh là 53,98%. Đã ghi nhận 318 trường hợp mắc bệnh tay chân miệng lâm sàng, giảm 76,6% so với cùng kì năm 2012.
Đến hết tháng 5 năm 2013, đã có 57,9 nghìn người tham gia bảo hiểm xã hội, chiếm 11,8% lực lượng lao động; khoảng 745,9 nghìn người tham gia bảo hiểm y tế, chiếm tỷ lệ 92,54% dân số toàn tỉnh. Tổng số tiền thu trong 6 tháng đầu năm 2013 là 456 tỷ đồng, đạt 46% kế hoạch; tổng số tiền chi trả bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế là 628,6 tỷ đồng.
Đã thực hiện cấp 3.513 sổ bảo hiểm xã hội cho người lao động; cấp 599,9 nghìn thẻ bảo hiểm y tế. Hoạt động chi trả bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế được bảo đảm kịp thời, đầy đủ, tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động được hưởng quyền lợi theo quy định.
3. Về văn hóa, thể dục, thể thao
Hoạt động văn hoá, nghệ thuật, thể thao kỷ niệm 83 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, mừng Tết Nguyên đán được tổ chức sôi nổi, rộng khắp, đáp ứng yêu cầu chất lượng nghệ thuật, nội dung tư tưởng. Đoàn nghệ thuật tỉnh đã tổ chức 53 buổi biểu diễn (trong đó có 31 buổi biểu diễn phục vụ nhân dân vùng sâu, vùng xa trong tỉnh, 07 buổi biểu diễn phục vụ nhiệm vụ chính trị, 15 buổi biểu diễn doanh thu, ước phục vụ 38.200 lượt người xem). Công tác quản lý lễ hội được tăng cường; bản sắc văn hoá và các giá trị truyền thống của lễ hội được bảo tồn và phát huy, tạo sức hấp dẫn đối với du khách trong nước và quốc tế. Ý thức thực hiện nếp sống văn minh khi tham gia lễ hội của người dân có chuyển biến. Hoạt động bảo tồn và phát huy di sản văn hoá được quan tâm.
Đã tổ chức 05 giải thể thao cấp tỉnh có 640 lượt vận động viên tham gia; 22 giải thể thao cấp huyện; phong 292 đẳng cấp cho các vận động viên đạt tiêu chuẩn. Chỉ đạo các huyện, thành phố tổ chức Đại hội thể dục, thể thao các cấp, tiến tới Đại hội thể dục, thể thao tỉnh Hòa Bình lần thứ V năm 2014 (đến nay đã có 45% số xã, phường thị trấn tổ chức thành công Đại hội thể dục, thể thao).
Chỉ đạo các địa phương tiếp tục thực hiện Đề án xây dựng gia đình thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; thực hiện Luật phòng, chống bạo lực gia đình trên địa bàn tỉnh. Triển khai kế hoạch thực hiện đề án “Tuyên truyền giáo dục phẩm chất, đạo đức phụ nữ Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” thông qua các hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch năm 2013.
4. Về thông tin và truyền thông, phát thanh và truyền hình
Công tác thông tin tuyên truyền các sự kiện chính trị, xã hội trong toàn tỉnh được quan tâm thực hiện, như: đưa tin, phản ánh về không khí đón tết, vui Xuân; các hoạt động kỷ niệm 83 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam; các hoạt động thăm hỏi chúc tết của lãnh đạo tỉnh; phản ánh tình hình triển khai các Nghị quyết của Trung ương, Quốc hội, Chính phủ, Tỉnh ủy, các Quyết định, Chỉ thị của Ủy ban nhân dân tỉnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, nhất là nỗ lực của các cấp, các ngành trong thực hiện mục tiêu ổn định kinh tế, kiềm chế lạm phát, tăng trưởng hợp lý và bảo đảm an sinh xã hội; tuyên truyền về công tác sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Luật đất đai sửa đổi; đẩy mạnh thông tin, tuyên truyền về công tác bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam;…
Kịp thời phát hiện, ngăn chặn các hành vi lợi dụng mạng lưới viễn thông, internet phát tán các thông tin có nội dung trái pháp luật, phá hoại các trang thông tin điện tử. Đẩy mạnh công tác quản lý nhà nước về báo chí, xuất bản; bảo đảm cho hoạt động báo chí thực hiện đúng tôn chỉ, mục đích.
5. Về lao động việc làm, bảo đảm an sinh xã hội
Trong 6 tháng đầu năm 2013 đã giải quyết việc làm cho hơn 7.000 lao động. Công tác đào tạo nghề, giới thiệu việc làm và tuyển chọn các ứng viên, lao động thi thực tập sinh, làm việc tại nước ngoài tiếp tục được quan tâm; kết quả đã tuyển chọn được 30 ứng viên thực tập sinh đi Nhật Bản.
Đã tổ chức mua và cấp thẻ bảo hiểm y tế cho các đối tượng được ngân sách nhà nước hỗ trợ gồm: 40.349 người nghèo, 450.309 người dân tộc thiểu số (thuộc các xã có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn), 5.160 đối tượng bảo trợ xã hội, 5.257 người cao tuổi. Ngân hàng chính sách xã hội tỉnh đã cho 4.645 lượt hộ nghèo vay vốn sản xuất với số tiền 71,4 tỷ đồng. Cho 351 em học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn vay 20,5 tỷ đồng để phục vụ học tập.
Thực hiện chu đáo việc thăm hỏi, động viên, tặng quà các bà mẹ Việt Nam anh hùng. Cấp kinh phí tặng quà của Chủ tịch nước và của tỉnh đến các gia đình chính sách, người có công nhân dịp Tết nguyên đán với tổng kinh phí là 4,63 tỷ đồng. Kịp thời giải quyết các chế độ ưu đãi đối với người có công; thường xuyên tổ chức điều dưỡng cho các thương binh, bệnh binh của tỉnh tại Trung tâm điều dưỡng người có công huyện Kim Bôi. Phối hợp với Quỹ Thiện Tâm - Tập đoàn VINGROUP triển khai hỗ trợ xây mới 50 nhà tình nghĩa cho các gia đình chính sách.
6. Về khoa học và công nghệ
Đã tổ chức kiểm tra trước nghiệm thu 22 đề tài thực hiện trong năm 2012 và 02 dự án thuộc chương trình nông thôn miền núi. Nhìn chung các đề tài đều hoàn thành các nội dung theo thuyết minh được phê duyệt. Nghiệm thu 10 đề tài, dự án, trong đó 05 đề tài nghiệm thu kết thúc và 05 đề tài nghiệm thu giai đoạn. Tổ chức xét chọn 11 đề tài và tuyển chọn 01 đề tài thực hiện năm 2013. Tích cực ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, triển khai thực hiện các đề tài, dự án ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nông lâm nghiệp.
Thực hiện 03 cuộc thanh tra về lĩnh vực tiêu chuẩn đo lường chất lượng, nhãn hàng hóa và sở hữu công nghiệp.
7. Về thanh tra, tư pháp
a) Về thanh tra:
- Thanh tra hành chính: Đã triển khai 35 cuộc thanh tra hành chính tại 114 đơn vị, tập trung vào các lĩnh vực: Quản lý tài chính, điều hành và sử dụng ngân sách, quản lý sử dụng đất đai, đầu tư xây dựng cơ bản, các chương trình mục tiêu quốc gia, tuyển dụng, bổ nhiệm và điều động cán bộ, công chức, viên chức trên địa bàn tỉnh… Đến nay, đã kết thúc 17 cuộc tại 63 đơn vị. Qua các cuộc thanh tra, đã phát hiện có 41 đơn vị sai phạm với tổng số tiền 3,68 tỷ đồng; kiến nghị thu hồi 3,56 tỷ đồng nộp ngân sách nhà nước; kiến nghị xử lý hành chính 14 cá nhân có sai phạm.
Kết quả cụ thể: Thực hiện 20 cuộc thanh tra tại 54 đơn vị trong lĩnh vực quản lý, dự án đầu tư xây dựng, phát hiện sai phạm trên 3 tỷ đồng, kiến nghị thu hồi 2,95 tỷ đồng, kiến nghị xử lý hành chính đối với 05 cán bộ. Tiến hành 04 cuộc thanh tra tại 27 đơn vị trong công tác quản lý, sử dụng đất, thu hồi 332 triệu đồng tiền thuê đất, tiền sử dụng đất, xử lý hành chính đối với 03 cán bộ, kiến nghị thu hồi 3,17ha đất do sử dụng không đúng mục đích. Các cuộc thanh tra còn lại tại 33 đơn vị tập trung vào lĩnh vực quản lý, sử dụng tài chính, ngân sách, đã thu hồi 276 triệu đồng, xử lý hành chính đối với 06 cán bộ.
- Thanh tra chuyên ngành: Thực hiện 54 cuộc tại 568 đơn vị, cơ sở; qua thanh tra đã phát hiện 514 đơn vị, cá nhân có sai phạm, xử phạt hành chính 368,5 triệu đồng.
Trong 6 tháng đầu năm 2013 đã tổ chức tiếp 512 lượt người (có 14 đoàn đông người) đến Trụ sở tiếp dân để khiếu nại, tố cáo, đề nghị, phản ánh (số lượt công dân tăng 70%, số đoàn đông người tăng 09 đoàn so với cùng kỳ). Tiếp nhận, phân loại và xử lý 498 lượt đơn thư các loại (tăng 17,73% so với cùng kỳ), gồm: 144 đơn khiếu nại; 60 đơn tố cáo; 294 đơn kiến nghị, phản ánh liên quan đến khiếu nại, tố cáo. Nội dung khiếu nại chủ yếu liên quan đến đất đai, tập trung vào việc đòi bồi thường tài sản trên đất bị thu hồi, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, việc thực hiện chính sách đối với người có đất bị thu hồi, khiếu nại liên quan đến tranh chấp địa giới hành chính, tranh chấp đất giữa các hộ liền kề, đề nghị đo đạc địa chính... Nội dung tố cáo tập trung vào việc tố cáo cán bộ mất dân chủ, lợi dụng chức quyền để tham nhũng, vụ lợi trong việc giao đất, bồi thường; tố cáo các sai phạm trong quản lý, thu chi tài chính...
b) Về tư pháp:
Thực hiện thẩm định 44 văn bản quy phạm pháp luật (09 Nghị quyết, 33 Quyết định, 02 Chỉ thị), trong đó: Cấp tỉnh 26 văn bản; cấp huyện 18 văn bản. Phối hợp với các ngành, đoàn thể, tham mưu, giúp cấp uỷ, chính quyền tổ chức tuyên truyền, phổ biến các Luật và các văn bản quy phạm pháp luật khác dưới nhiều hình thức. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả việc luân chuyển tủ sách pháp luật, đầu tư bổ sung thêm các đầu sách cho Tủ sách pháp luật.
Tiếp tục củng cố tổ chức, hoạt động của 2.038 tổ hoà giải với 12.341 hòa giải viên. Thực hiện trợ giúp pháp lý được 175 vụ việc; tổ chức 38 đợt trợ giúp pháp lý lưu động tại 62 điểm thuộc 24 xã của 06 huyện, thành phố.
8. Về cải cách hành chính, xây dựng chính quyền và tôn giáo
Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành Kế hoạch cải cách hành chính năm 2013, Kế hoạch kiểm tra công tác cải cách hành chính năm 2013 và Chỉ thị số 03/CT-UBND ngày 19/3/2013 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh về tiếp tục đẩy mạnh công tác cải cách hành chính trên địa bàn tỉnh; thành lập Ban chỉ đạo thực hiện đề án “Đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức”. Thành lập Sở Ngoại vụ tỉnh Hòa Bình, đi vào hoạt động chính thức từ tháng 4 năm 2013, bước đầu đã thực hiện tốt vai trò tham mưu công tác đối ngoại địa phương, quản lý hoạt động của các tổ chức phi chính phủ trên địa bàn tỉnh. Đôn đốc việc thực hiện Chỉ thị số 16/CT-UBND ngày 31/10/2012 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh về việc nâng cao tinh thần trách nhiệm và đạo đức công vụ, nghề nghiệp trong cán bộ, công chức, viên chức tỉnh Hòa Bình.
Tập trung thực hiện công tác quản lý địa giới hành chính, cụ thể: Tổ chức bàn giao trực tiếp hồ sơ quản lý về đất đai, nhân khẩu và các đối tượng chính sách tại 07 khu vực chồng lấn do lịch sử để lại giữa thành phố Hà Nội và tỉnh Hòa Bình. Phối hợp với Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội ký pháp lý nhân bản sơ đồ mốc của 6 mốc địa giới hành chính cấp tỉnh và 01 mốc địa giới hành chính cấp huyện giữa huyện Kỳ Sơn, tỉnh Hòa Bình với huyện Ba Vì, huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội; đồng thời triển khai việc lập mới, chỉnh lý hồ sơ, bản đồ địa giới hành chính cấp xã, huyện thuộc huyện Lương Sơn. Chủ trì, khảo sát, xây dựng phương án giải quyết tồn tại về địa giới hành chính giữa tỉnh Hòa Bình với các tỉnh Thanh Hóa, Ninh Bình tại 5 khu vực chồng lấn theo Chỉ thị số 364/CT-HĐBT.
Công tác tôn giáo 6 tháng đầu năm 2013 cơ bản ổn định; ngoài tổ chức các hoạt động sinh hoạt tôn giáo thường kỳ, một số tổ chức tôn giáo còn tổ chức các hoạt động từ thiện, nhân đạo và thăm hỏi, tạo lập mối quan hệ với các cấp chính quyền địa phương. Tuy nhiên vẫn còn xảy ra một số trường hợp vi phạm pháp luật về tôn giáo như: Đạo Tin lành đang có chiều hướng mở rộng địa bàn truyền đạo khi chưa được sự đồng ý của cơ quan chức năng.
9. Về công tác dân tộc
Tập trung chỉ đạo các cấp, các ngành bám sát cơ sở để nắm bắt tình hình đời sống, sản xuất trên địa bàn vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Trình Ủy ban Dân tộc xem xét, phê duyệt thôn đặc biệt khó khăn, xã thuộc vùng dân tộc và miền núi giai đoạn 2012-2015 theo Quyết định số 30/2012/QĐ-TTg ngày 18/7/2012 của Thủ tướng Chính phủ (toàn tỉnh có 575 thôn đặc biệt khó khăn, 33 xã khu vực I, 92 xã khu vực II, 85 xã khu vực III).
10. Về quốc phòng, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội
Duy trì nghiêm nhiệm vụ trực sẵn sàng chiến đấu ở các cấp, bảo đảm đủ quân số, vũ khí kỹ thuật, thông tin liên lạc thông suốt. Chỉ đạo làm tốt công tác xây dựng kế hoạch phòng chống lụt bão, phòng chống cháy nổ, cháy rừng và tổ chức hiệp đồng với các đơn vị đóng quân trên địa bàn. Hoàn thành nhiệm vụ tập huấn cán bộ các cấp năm 2013. Tổ chức ra quân huấn luyện kết hợp phát động đợt thi đua đột kích với quân số tham gia 9.011 người. Tổ chức diễn tập khu vực phòng thủ huyện Tân Lạc và Tổ chức Hội nghị sơ kết 1 năm thực hiện phong trào “Quân đội chung sức xây dựng nông thôn mới”.
Sáu tháng đầu năm, Công an tỉnh đã thực hiện có hiệu quả các đợt tấn công trấn áp tội phạm, bảo vệ tuyệt đối an toàn trong dịp Tết nguyên đán 2013, không xảy ra các vụ tiêu cực như đốt pháo nổ, đua xe trái phép... Làm chủ tình hình, quản lý chặt chẽ mọi hoạt động các loại đối tượng. Bảo vệ an toàn các địa bàn, mục tiêu, công trình trọng điểm, hoạt động của các đồng chí lãnh đạo Đảng, nhà nước, các lễ hội đầu xuân. Tăng cường tuần tra, kiểm soát bảo đảm trật tự, an toàn giao thông và trật tự công cộng. Công tác kiểm tra phòng chống cháy nổ, quản lý vũ khí, vật liệu nổ được tăng cường.
Trong 6 tháng đầu năm, đã phát hiện 335 vụ phạm pháp hình sự, giảm 6,43% so với cùng kỳ năm 2012. Điều tra khám phá 265/335 vụ án, đạt tỷ lệ 79,1%; riêng án rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng đạt 96,3%; trong đó tội phạm và vi phạm về trật tự xã hội xảy ra 266 vụ, làm chết 11 người, bị thương 87 người, tài sản thiệt hại khoảng 4,7 tỷ đồng. Tình hình mua bán, vận chuyển ma túy trên địa bàn tỉnh diễn biến hết sức phức tạp, đặc biệt là ở 2 xã Hang Kia, Pà Cò và trên tuyến Quốc lộ 6A. Sáu tháng đầu năm, đã xảy ra 55 vụ tai nạn giao thông làm chết 52 người, bị thương 43 người, so với cùng kỳ năm trước tăng 3 vụ (5,8%), tăng 4 người chết (8,3%), giảm 01 người bị thương.
III. KHÓ KHĂN, YẾU KÉM
Nhìn chung, tình hình kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm 2013 đã đạt được một số kết quả nhất định, tuy nhiên vẫn còn không ít khó khăn, tăng trưởng kinh tế chưa đạt yêu cầu kế hoạch đề ra (tăng trưởng 6,96%, trong khi kế hoạch là 11%). Sản xuất nông, lâm nghiệp chi phí đầu vào cao, một số nơi khó khăn về thời tiết, dịch bệnh. Sản xuất công nghiệp đạt chỉ số phát triển khá do có một số sản phẩm mới và tăng cao; tuy nhiên vẫn còn nhiều sản phẩm tiêu thụ chậm, có hàng tồn kho, nhiều doanh nghiệp vẫn còn trong tình trạng khó khăn, nhất là lĩnh vực khai thác khoáng sản, sản xuất vật liệu xây dựng.
Thu ngân sách nhà nước đạt thấp, bằng khoảng 38% Nghị quyết Hội đồng nhân dân tỉnh; các huyện vùng động lực vẫn gặp khó khăn về nguồn thu như: huyện Kỳ Sơn đạt 35,5% kế hoạch, huyện Lương Sơn đạt 26,9% kế hoạch, dẫn đến nhiệm vụ thu ngân sách nhà nước các tháng cuối năm còn rất nặng nề, nguy cơ hụt thu cao.
Về đầu tư công, năm 2013 nhiều nguồn vốn bị cắt giảm so với năm 2012, làm cho đầu tư ngân sách nhà nước giảm khoảng 27% so với năm 2012, sẽ ảnh hưởng đến tăng trưởng của ngành xây dựng trong cả năm 2013.
Năm 2012 và 2013, do thực hiện Chỉ thị số 1792/CT-TTg ngày 15/10/2011 của Thủ tướng Chính phủ, Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 của Chính phủ, đồng thời với việc giảm khoảng 27% vốn đầu tư năm 2013, dẫn đến hệ quả nhiều doanh nghiệp xây dựng (gồm cả tư vấn và xây lắp) gặp khó khăn, không ít doanh nghiệp đóng cửa, ngừng hoạt động hoặc hoạt động cầm chừng. Các doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng tồn kho nhiều, sản xuất đình trệ. Tín dụng ngân hàng cho lĩnh vực xây dựng và sản xuất, kinh doanh vật liệu xây dựng giảm sẽ góp phần làm giảm tổng cầu và suy giảm kinh tế.
Lãi suất đã giảm ở mức tương đối thấp (7-14,5%/ năm), 5 lĩnh vực ưu tiên lãi vay chỉ 7-10%/năm; tuy nhiên mức dư nợ của tỉnh còn quá thấp, tăng trưởng chậm (6 tháng đầu năm chỉ tăng 2,5% so với tháng 12 năm 2012), tổng dư nợ mới đạt 9.270 tỷ đồng, cho thấy việc đưa vốn vào sản xuất, nhu cầu vốn cũng như khả năng tiếp cận, hấp thụ vốn tín dụng còn hạn chế.
Thu hút các dự án đầu tư cho sản xuất kinh doanh cũng như phát triển doanh nghiệp gặp khó khăn (tính đến 10/6/2013 đã có 14 dự án được cấp giấy chứng nhận đầu tư, tăng 7,7% so với cùng kỳ năm 2012, nhưng vẫn thấp hơn nhiều so với cùng khoảng thời gian của những năm từ 2010 trở về trước). Bên cạnh đó nhiều dự án đăng ký, hoặc đang thực hiện cũng gặp khó khăn trong huy động vốn và khả năng đưa sản phẩm vào thị trường.
Công tác cải cách hành chính, giải quyết khiếu nại tố cáo, phòng, chống tham nhũng, lãng phí gắn với việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI) đạt những kết quả thiết thực nhưng chưa có chuyển biến đột phá. Chất lượng công vụ ở một số cơ quan, đơn vị còn thấp. Kỷ luật, kỷ cương trong thực thi nhiệm vụ đôi lúc còn chưa nghiêm túc.
Các lĩnh vực giáo dục, y tế, khoa học công nghệ, môi trường, văn hóa, xã hội vẫn còn những điểm hạn chế như chất lượng khám chữa bệnh chưa cao; chất lượng giáo dục chưa đồng đều; chất lượng lao động thấp;... tiếp tục tác động đến phát triển kinh tế - xã hội địa phương.
Tình hình tai nạn giao thông, các tệ nạn xã hội như ma túy, mại dâm, cờ bạc vẫn còn diễn biến phức tạp.
Phần II
NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN 6 THÁNG CUỐI NĂM 2013
Căn cứ các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2013 đã được Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân tỉnh, Ủy ban nhân dân tỉnh đề ra, đồng thời xuất phát từ thực tiễn tình hình 6 tháng đầu năm 2013, Ủy ban nhân dân tỉnh xác định nhiệm vụ trọng tâm trong 6 tháng cuối năm 2013 như sau:
1. Tiếp tục quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc Nghị quyết 01/NQ-CP ngày 07/01/2013, Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 07/01/2013 của Chính phủ và Quyết định số 58/QĐ-UBND ngày 16/01/2013 của Ủy ban nhân dân tỉnh về việc Kế hoạch chỉ đạo điều hànhthực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước năm 2013.
2. Rà soát, điều chỉnh kế hoạch vốn, đẩy mạnh việc giải ngân các công trình, dự án sử dụng ngân sách nhà nước, không để các vướng mắc làm hạn chế giải ngân, tạo điều kiện cho doanh nghiệp có vốn, tiếp tục duy trì doanh thu, phát triển sản xuất. Kiểm tra, thanh tra, giám sát các công trình, dự án đầu tư để kịp thời xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm pháp luật, đầu tư kém hiệu quả, lãng phí trong sử dung vốn đầu tư.
Chủ động tiếp xúc với các nhà đầu tư, các tổ chức quốc tế, các cơ quan chính phủ nước ngoài, các bộ, ngành trung ương để tìm kiếm nguồn vốn đầu tư cho tuyến đường cao tốc Hòa Lạc – thành phố Hòa Bình.
Thực hiện công tác chuẩn bị đầu tư năm 2014 nguồn ngân sách nhà nước theo hướng đáp ứng yêu cầu của Chỉ thị số 1792/CT-TTg ngày 15/10/2011 của Thủ tướng Chính phủ; đồng thời bảo đảm có độ mở để kích cầu (trực tiếp là lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dựng), tăng nhu cầu tín dụng (nhờ việc doanh nghiệp có được các hợp đồng xây lắp, tiêu thụ sản phẩm vật liệu xây dựng), giải quyết khó khăn cho các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ, yếu thế thông qua các hợp đồng tư vấn, xây lắp.
3. Bám sát tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, tập trung tháo gỡ khó khăn, giải quyết hàng tồn kho, mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa, đặc biệt là lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ để tạo nguồn thu, chống thất thu, hụt thu ngân sách trong năm 2013.
Thực hiện các biện pháp tăng thu, tăng cường kiểm tra rà soát, đánh giá khả năng các khoản thu, khai thác nguồn thu, chống thất thu, nợ đọng thuế, quản lý chặt chẽ, khai thác hiệu quả nguồn thu.
Tập trung khai thác các khoản thu liên quan đến đất đai để bù đắp các khoản hụt thu. Trong đó, đẩy mạnh tiến độ giải quyết các thủ tục hành chính đối với các dự án thực hiện đấu giá đất, giao đất có thu tiền, các dự án thuê đất để thực hiện thu các khoản thu vào ngân sách nhà nước. Đôn đốc các dự án đã trúng thầu, các dự án thuê đất còn nợ tiền thu sử dụng đất và tiền thuê đất kịp thời nộp vào ngân sách nhà nước.
Thực hiện kịp thời việc miễn, giảm, gia hạn thời hạn nộp thuế và các khoản thu ngân sách Nhà nước cho một số đối tượng doanh nghiệp, hộ kinh doanh cá nhân theo Nghị quyết số 02/NQ-CP của Chính phủ, góp phần đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp.
Các cấp, các ngành chủ động xây dựng phương án điều hành nhằm bảo đảm cân đối ngân sách, ưu tiên các chế độ, chính sách chi cho con người và các nhiệm vụ cấp thiết. Thực hiện tiết kiệm thêm 10% dự toán chi thường xuyên còn lại của các tháng cuối năm (trừ chi tiền lương, phụ cấp, các khoản chi cho con người theo chế độ). Tiết kiệm 30% dự toán vốn sự nghiệp của các chương trình mục tiêu quốc gia đã phân bổ cho nhiệm vụ công tác nước ngoài, chi hội nghị, hội thảo, sơ kết, tổng kết, chi tham quan học tập.
Đối với các huyện, thành phố, trong trường hợp có hụt thu lớn so với dự toán, ngân sách các cấp phải chủ động sử dụng nguồn lực tài chính của địa phương để bù đắp; đồng thời thực hiện rà soát, sắp xếp lại các nhiệm vụ chi theo thứ tự ưu tiên, cắt giảm các nhiệm vụ chi tương ứng với số hụt thu; trường hợp vẫn không bảo đảm cân đối, cần báo cáo cơ quan chức năng để chỉ đạo xử lý.
4. Chỉ đạo, giám sát các ngân hàng, tổ chức tín dụng trên địa bàn tập trung thực hiện nghiêm túc các giải pháp tiền tệ, tín dụng, lãi suất theo Nghị quyết số 01/NQ-CP, Nghị quyết số 02/NQ-CP của Chính phủ, Chỉ thị số 01/CT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam.
Tháo gỡ các thủ tục, rào cản, tăng khả năng tiếp cận vốn tín dụng của các doanh nghiệp. Thực hiện mở rộng tín dụng đi đôi với an toàn hoạt động. Phấn đấu tăng trưởng tín dụng của các tổ chức tín dụng trên địa bàn năm 2013 đạt khoảng 13 – 14% so với năm 2012. Thực hiện có hiệu quả các chương trình, chính sách tín dụng nhằm phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn, các chương trình tín dụng đối với các đối tượng chính sách và bảo đảm an sinh xã hội.
5. Tiếp tục nghiên cứu, thực hiện các giải pháp giải quyết hàng tồn kho, đặc biệt đối với các doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng. Tổ chức các hội chợ, chương trình “Đưa hàng Việt Nam về nông thôn”, khơi thông thị trường nhằm giảm hàng tồn kho, thúc đẩy sản xuất.
Tăng cường kiểm soát thị trường, giá cả, theo dõi chặt chẽ diễn biến thị trường, các yếu tố ảnh hưởng tới giá cả hàng hóa để kịp thời đề xuất các giải pháp nhằm kiểm soát giá, bình ổn thị trường, nhất là mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và đời sống nhân dân. Có biện pháp hiệu quả để bảo đảm cung ứng hàng hóa thiết yếu cho vùng sâu, vùng xa, nhất là những thời điểm khó khăn, thiên tai, dịch bệnh.
6. Tập trung chỉ đạo sản xuất, bảo đảm cho nông nghiệp nông thôn tăng trưởng bền vững, nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của từng sản phẩm. Tăng cường công tác dự báo dịch bệnh; theo dõi dịch bệnh cây trồng vật nuôi để có giải pháp cụ thể, kịp thời hạn chế lây lan dịch bệnh. Thực hiện có hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, quy hoạch bố trí sắp xếp lại dân cư nông thôn tại các vùng thiên tai, vùng đặc biệt khó khăn; ổn định dân cư phát triển kinh tế - xã hội vùng chuyển dân lòng hồ sông Đà; Chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn; tập trung phòng, chống lụt bão, giảm nhẹ thiên tai; bảo vệ phát triển rừng bền vững, bảo đảm diện tích trồng rừng, giữ vững độ che phủ rừng ổn định.
7. Tiếp tục tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư triển khai các dự án, sớm đi vào sản xuất kinh doanh. Tập trung giải quyết những hạn chế để nâng cao chỉ số cạnh tranh của tỉnh, kết hợp với tăng cường các biện pháp xúc tiến đầu tư.
Thực hiện tốt công tác cấp chứng nhận đăng ký kinh doanh, tiếp tục áp dụng hệ thống thông tin mạng để cải cách thủ tục hành chính trong cấp chứng nhận đăng ký kinh doanh, chứng nhận đầu tư. Tăng cường kiểm tra, nắm bắt thông tin các doanh nghiệp, dự án đầu tư, nhất là những doanh nghiệp khó khăn, đang ngừng hoạt động để kịp thời đề xuất các biện pháp để hỗ trợ tháo gỡ cho doanh nghiệp, nhà đầu tư.
8. Tổ chức tốt chương trình học hè cho học sinh; bồi dưỡng giáo viên hè theo kế hoạch. Tổng kết năm học 2012 – 2013. Bảo đảm đầy đủ cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên và các điều kiện khác để triển khai kế hoạch năm học 2013 – 2014. Tổ chức khai giảng và “Ngày toàn dân đưa trẻ em đến trường” năm học 2013 – 2014. Tiếp tục triển khai thực hiện Kế hoạch “Năm giáo dục vùng khó khăn”.
9. Thực hiện tốt công tác y tế dự phòng, công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân; nâng cao sức khỏe, chất lượng cuộc sống, chất lượng nguồn nhân lực. Tạo điều kiện để mọi người dân được cung cấp dịch vụ y tế cơ bản, có chất lượng.
Chủ động phòng chống dịch bệnh, không để dịch bệnh nguy hiểm xảy ra trên địa bàn. Bảo đảm phát hiện dịch và dập dịch sớm, điều tra, xác minh cũng như triển khai các biện pháp chống dịch kịp thời, hạn chế thấp nhất ảnh hưởng của dịch bệnh tới sức khỏe nhân dân. Giảm tối đa tỷ lệ mắc và chết do một số bệnh truyền nhiễm gây dịch.
10. Tiếp tục chỉ đạo phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”; tiến hành rà soát, bổ sung, điều chỉnh hương ước, quy ước xây dựng thôn, làng, xóm, tổ dân phố văn hóa cho phù hợp với các tiêu chí xây dựng nông thôn mới. Tổ chức Hội nghị biểu dương làng văn hóa tiêu biểu xuất sắc tỉnh Hòa Bình 5 năm, giai đoạn 2008 – 2013.
Chuẩn bị tốt các điều kiện tổ chức thành công Ngày hội văn hóa, thể thao, du lịch các dân tộc Tây Bắc lần thứ XIII năm 2013 tại Hòa Bình. Tiếp tục chỉ đạo các huyện, thành phố tiến hành Đại hội thể dục thể thao các cấp theo tiến độ đề ra.
11. Thực hiện các biện pháp bảo đảm an sinh xã hội, ổn định đời sống nhân dân, nhất là đối với người nghèo, đối tượng chính sách và người làm công ăn lương trong điều kiện khó khăn hiện nay. Triển khai đồng bộ các cơ chế, chính sách tạo việc làm, giải quyết việc làm, đào tạo nghề, nhất là đối với người nghèo, lao động nông thôn; triển khai thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia việc làm, đào tạo nghề cho nông thôn, doanh nghiệp, xuất khẩu lao động.
12. Đẩy mạnh thực hiện cải cách hành chính, đặc biệt là các thủ tục liên quan đến đầu tư, hoạt động doanh nghiệp, các dịch vụ hành chính công có liên quan đến đời sống của nhân dân. Tổ chức kiểm tra công tác cải cách hành chính; khảo sát chất lượng hoạt động của bộ phận tiếp nhận và trả kết quả của các cấp, các ngành trên địa bàn. Xác định vị trí việc làm trong cơ quan, đơn vị để quản lý, sử dụng và nâng cao chất lượng công vụ, công chức. Sắp xếp lại các trường học do Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố quản lý thành trường liên cấp ở những nơi có quy mô nhỏ, hạn chế tối đa việc thành lập mới tổ chức bộ máy trực thuộc.
Kiểm tra việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở tại các cơ quan, đơn vị và các huyện, thành phố; các xã, phường, thị trấn. Nghiên cứu, ban hành Quy chế hoạt động của xóm, bản, tổ dân phố; tiêu chí phân loại xóm, bản, tổ dân phố thuộc tỉnh Hòa Bình; chỉ đạo việc sáp nhập xóm, bản, tổ dân phố theo hướng dẫn của Bộ Nộ vụ. Thực hiện phân loại xã, huyện, tỉnh theo Nghị định số 159/2005/NĐ-CP và Nghị định số 15/2007/NĐ-CP của Chính phủ.
Thực hiện kiên quyết và đồng bộ các giải pháp phòng, chống tham nhũng, tăng cường tính công khai, minh bạch, đề cao vai trò giám sát của nhân dân; phối hợp với các cơ quan chức năng trong việc thanh tra, kiểm tra kinh tế -xã hội, đầu tư, quản lý đất đai, tài chính, doanh nghiệp góp phần ngăn chặn và đẩy lùi tham nhũng.
13. Các sở, ban, ngành và Ủy ban nhân dân các huyện thành phố tập trung xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2014. Việc xây dựng kế hoạch cần quan tâm đến các giải pháp hỗ trợ thị trường, tăng cường sản xuất để phục hồi kinh tế; bên cạnh đó vẫn tiếp tục ưu tiên các giải pháp của Chính phủ để ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát.
Thực hiện kiểm điểm giữa kỳ thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 – 2015 của tỉnh và các ngành, địa phương.
14. Chủ động nắm chắc tình hình, xử lý mọi tình huống, chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu bảo đảm giữ vững thế trận quốc phòng, an ninh. Tổ chức lễ giao quân đợt 2. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo đảm an ninh gắn chặt với phát triển kinh tế - xã hội. Thực hiện tốt công tác phòng chống tội phạm, kiềm chế, giảm dần tai nạn giao thông, tăng cường vai trò của chính quyền, các ngành, tổ chức đoàn thể, tổ chức xã hội trong công tác phòng chống ma túy, mại dâm ngay tại địa bàn xã, phường, thị trấn.
15. Các sở, ban, ngành, Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố tiếp tục triển khai thực hiện các nhiệm vụ của ngành, địa phương. Tăng cường trách nhiệm trong việc phối hợp giữa ngành với ngành, giữa ngành với cấp, giữa thủ trưởng các cơ quan khối nhà nước với cơ quan khối đảng, Ủy ban mặt trận tổ quốc và các đoàn thể, tổ chức chính trị xã hội các cấp trong việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ./.