(MPI) – Tại Phiên khai mạc Kỳ họp bất thường lần thứ Nhất, Quốc hội khóa XV, sáng ngày 04/01/2022, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh đã trình bày báo cáo tóm tắt thẩm tra Tờ trình dự thảo Nghị quyết về chính sách tài khóa, tiền tệ để hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội.
|
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh trình bày Báo cáo thẩm tra. Ảnh: quochoi.vn |
Báo cáo thẩm tra nêu rõ, Ủy ban Kinh tế nhất trí với sự cần thiết thực hiện chính sách tài khóa, tiền tệ để hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội nhằm cụ thể hóa Kết luận số 20-KL/TW ngày 16/10/2021 của Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, các Nghị quyết của Quốc hội và phù hợp với yêu cầu thực tiễn.
Ủy ban Kinh tế cơ bản thống nhất với các quan điểm nêu tại Tờ trình, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh đề nghị xác định rõ và bổ sung quan điểm: Việc nâng cao tính tự chủ, khả năng chống chịu, thích ứng của nền kinh tế; chỉ sử dụng bội chi ngân sách nhà nước (NSNN) để chi đầu tư phát triển; Nguồn lực đưa ra phải hấp thụ được ngay trong 02 năm triển khai Chương trình (2022-2023).
Cụ thể, về quy mô tổng thể chính sách tài khóa, tiền tệ và các chính sách khác, Ủy ban Kinh tế cho rằng, một số chính sách hỗ trợ dự kiến triển khai nhưng chưa được tính toán vào quy mô hỗ trợ tổng thể của Chương trình. Đề nghị bổ sung, tính toán lại số liệu, làm rõ tổng quy mô của các chính sách hỗ trợ. Ngoài ra, đề nghị đánh giá tác động đầy đủ, nhiều chiều của việc thực hiện các chính sách nêu trên.
Về chính sách tài khóa, tăng bội chi ngân sách nhà nước, Ủy ban Kinh tế tán thành việc chấp nhận thâm hụt NSNN tăng ở mức cao hơn, mỗi năm tăng khoảng 1% đến 1,2% GDP trong 02 năm thực hiện Chương trình (2022-2023).
Về chính sách thuế, đa số ý kiến thống nhất với chủ trương miễn, giảm một số loại thuế, phí, trong đó thống nhất chính sách giảm thuế giá trị gia tăng 2% áp dụng cho các mặt hàng chịu thuế suất 10% nhưng đề nghị rà soát đối tượng áp dụng; cần tập trung vào các ngành, lĩnh vực cần được kích cầu, có tác dụng lan tỏa, cần loại trừ các sản phẩm chịu thuế tiêu thụ đặc biệt.
Đối với chính sách cho phép tính vào chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp đối với khoản chi ủng hộ, tài trợ của doanh nghiệp, tổ chức cho các hoạt động phòng, chống dịch COVID-19, đa số ý kiến cho rằng vấn đề huy động xã hội hóa trong giai đoạn tới chưa được đánh giá kỹ lưỡng, việc tính toán chi phí thực tế được khấu trừ có nhiều rủi ro, do đó, đề nghị thực hiện theo quy định của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp. Một số ý kiến tán thành với đề xuất nhưng đề nghị giới hạn đối với khoản ủng hộ, tài trợ bằng tiền.
Về chi trực tiếp từ NSNN cho đầu tư phát triển, Ủy ban Kinh tế thống nhất việc chi trực tiếp từ NSNN sử dụng để chi đầu tư phát triển. Tuy nhiên, đề nghị Chính phủ rà soát kỹ danh mục đề xuất, bảo đảm hiệu quả thiết thực, phù hợp với quy định của Luật Đầu tư công, phù hợp với khả năng hấp thụ, giải ngân vốn đầu tư công.
Về nguồn tăng thu, tiết kiệm chi năm 2021, đa số ý kiến nhất trí việc sử dụng 6,6 tỷ đồng từ nguồn tăng thu, tiết kiệm chi ngân sách trung ương năm 2021 để hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động và đề nghị cần có giải pháp phù hợp, hiệu quả, tránh trục lợi.
Về chính sách hỗ trợ lãi suất, đa số ý kiến nhất trí, tuy nhiên cần tập trung vào một số ngành, lĩnh vực quan trọng, các doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh có khả năng trả nợ, có khả năng phục hồi hoặc được bảo lãnh tín dụng; chú trọng khoản vay tạo dư địa cho phục hồi và phát triển như việc cải tạo chung cư cũ; xây dựng nhà ở xã hội, nhà cho công nhân thuê và thuê mua…; quy định rõ đối tượng, phạm vi, điều kiện vay vốn; kiểm soát chặt chẽ, tránh trục lợi chính sách.
Về tăng thêm hạn mức phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh cho Ngân hàng Chính sách Xã hội, Ủy ban Kinh tế tán thành với Tờ trình, tuy nhiên cần rà soát khả năng giải ngân, cân nhắc về mức tăng hạn mức cụ thể.
Về chính sách tiền tệ, Ủy ban Kinh tế đề nghị cần lượng hóa các giải pháp của chính sách tiền tệ để đánh giá tác động đến nền kinh tế. Bên cạnh đó, đề nghị xem xét thêm một số vấn đề như chủ động sử dụng đồng bộ, linh hoạt, hiệu quả các công cụ của chính sách tiền tệ để giảm mặt bằng lãi suất, nhất là trong các lĩnh vực ưu tiên; việc tiếp tục tái cấp vốn và gia hạn vay tái cấp vốn đối với Ngân hàng Chính sách Xã hội để cho người sử dụng lao động vay trả lương cho người lao động cần có giải pháp mang tính khả thi, tổ chức triển khai nhanh trong thực tế.
Về huy động nguồn lực, đa số ý kiến tán thành với giải pháp Chính phủ đã đưa ra, để bảo đảm tính khả thi, hiệu quả, đề nghị báo cáo cụ thể khả năng vay và trả nợ quốc gia cũng như các phương án huy động vốn theo lộ trình cụ thể, khả năng hấp thụ vốn. Đồng thời, cần nghiên cứu, làm rõ một số vấn đề, cụ thể: Báo cáo rõ tính khả thi của nguồn vốn vay ODA, ưu đãi nước ngoài theo hình thức hỗ trợ ngân sách để huy động ngay trong 02 năm 2022-2023; Phát hành trái phiếu Chính phủ bằng ngoại tệ chỉ thực hiện trong trường hợp cấp bách và phải báo cáo cấp có thẩm quyền;…
Ủy ban Kinh tế đề nghị theo dõi sát tình hình và có các kịch bản ứng phó. Đồng thời, cần tiếp tục tính toán các giải pháp căn cơ thực hiện phòng, chống dịch bệnh và dành nguồn lực cho Chương trình; việc vay nợ phải phù hợp với tiến độ sử dụng vốn, phù hợp với khả năng thực hiện và giải ngân các dự án đầu tư công, bảo đảm hiệu quả sử dụng vốn; trong trường hợp thu, chi ngân sách nhà nước khả quan hơn, cần nỗ lực duy trì các chỉ tiêu an toàn nợ trong mức cảnh báo.
Về phân bổ nguồn lực, đối với mở cửa nền kinh tế gắn với phòng, chống dịch bệnh, đa số ý kiến thống nhất với Tờ trình về tăng cường năng lực của hệ thống y tế. Tuy nhiên, cần rà soát, ưu tiên nguồn lực cho các dự án đã có đầy đủ thủ tục đầu tư, có thể thực hiện và giải ngân ngay; bổ sung giải pháp đầu tư phát triển con người, cơ chế huy động sự tham gia của khu vực kinh tế tư nhân vào hoạt động đầu tư nâng cao năng lực y tế.
Đối với lao động, việc làm và an sinh, xã hội, Ủy ban Kinh tế đề nghị cần có chính sách hợp lý hỗ trợ tiền thuê nhà trọ đối với nhóm lao động phi chính thức; bổ sung chính sách thu hút lao động quay trở lại làm việc cũng như chính sách hỗ trợ phát triển việc làm công tại các địa phương;…
Đối với doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh, tán thành tăng vốn điều lệ cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, nhưng đề nghị ưu tiên từ nguồn tăng thu, tiết kiệm chi NSTW tương ứng với số lợi nhuận sau thuế thực nộp NSNN của Ngân hàng; Hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh, phải gắn với thúc đẩy chuyển đổi số, khởi nghiệp sáng tạo; rà soát kỹ danh mục dự án đầu tư chuyển đổi số và chỉ đưa vào các dự án có tính lan tỏa và hỗ trợ cải thiện thủ tục hành chính cho doanh nghiệp, phục vụ chuyển đổi số quốc gia...
Đối với cải cách thể chế, Ủy ban Kinh tế đề nghị bên cạnh việc cải cách thủ tục hành chính và cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh có trọng tâm; cần khẩn trương ban hành Chiến lược tổng thể về phòng, chống dịch COVID-19 giai đoạn 2021-2023; sớm tổng kết các quy định pháp luật có liên quan đến công tác phòng, chống dịch COVID-19 để sửa đổi, bổ sung kịp thời; tập trung tháo gỡ các vướng mắc về cơ chế, chính sách, pháp luật liên quan đến nhà ở xã hội, nhà ở công nhân…
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh cũng nêu một số vấn đề xin ý kiến Quốc hội. Trong đó, đối với các vấn đề nêu tại mục VI của Tờ trình, gồm: Miễn, giảm thuế; Tính vào chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp đối với khoản chi ủng hộ, tài trợ của doanh nghiệp, tổ chức cho các hoạt động phòng, chống dịch Covid-19; Tăng hạn mức bảo lãnh Chính phủ đối với trái phiếu phát hành trong nước của Ngân hàng Chính sách Xã hội; Tăng vốn điều lệ cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Uỷ ban Kinh tế đã có ý kiến cụ thể tại mục II Báo cáo thẩm tra đầy đủ, đề nghị Chính phủ tiếp tục làm rõ để Quốc hội có cơ sở xem xét, quyết định.
Về đề nghị áp dụng thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án hạ tầng chiến lược, quan trọng, có quy mô lớn thuộc Chương trình, đề nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định theo thẩm quyền trên cơ sở quy định hiện hành. Đối với những vấn đề thuộc thẩm quyền của Quốc hội, Chính phủ báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội trình Quốc hội xem xét, quyết định; Về việc điều chỉnh linh hoạt giữa các nhiệm vụ chi của Chương trình, đề nghị thực hiện theo quy định của pháp luật hiện hành về thẩm quyền quyết định. Đối với những vấn đề thuộc thẩm quyền của Quốc hội phải báo cáo Quốc hội xem xét, quyết định; trường hợp cấp bách, có thể báo cáo Quốc hội giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định giữa hai kỳ họp của Quốc hội./.
Minh Trang
Bộ Kế hoạch và Đầu tư