(MPI Portal) - Chiều ngày 24/12, tại Hà Nội, Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tổ chức họp báo công bố số liệu thống kê kinh tế - xã hội năm 2012. Ông Đỗ Thức, Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê chủ trì họp báo.
|
Lãnh đạo Tổng cục Thống kê tại buổi họp báo. Ảnh: Đức Trung (MPI Portal)
|
Tham dự buổi họp báo có ông Nguyễn Văn Liệu, ông Nguyễn Bích Lâm, bà Trần Thị Hằng, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê, đại diện các Bộ, ngành liên quan, các lãnh đạo thuộc Tổng cục cùng các cơ quan thông tấn, báo chí.
Tại buổi họp báo, bà Nguyễn Thị Ngọc Vân, Vụ trưởng Vụ Thống kê Tổng hợp, Tổng Cục Thống kê đã thông báo một số vấn đề cơ bản về tình hình kinh tế – xã hội năm 2012 với các nội dung cụ thể:
Tốc độ tăng trưởng sản phẩm trong nước năm 2012 tăng 5,03%
Về tốc độ tăng trưởng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2012 theo giá so sánh 1994 ước tính tăng 5,03% so với năm 2011, trong đó quý I tăng 4,64%; quý II tăng 4,80%; quý III tăng 5,05%; quý IV tăng 5,44%. Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,72%, đóng góp 0,44 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 4,52%, đóng góp 1,89 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ tăng 6,42%, đóng góp 2,70 điểm phần trăm.
Theo đánh giá, với kết quả tăng GDP đạt 5,03% thấp hơn nhiều so với chỉ tiêu Quốc hội đề ra là từ 6%-6,5% và thấp hơn so với cùng kỳ năm ngoái. Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước còn nhiều khó khăn thì đây là mức tăng trưởng hợp lý.
Về sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản, giá trị sản ở các lĩnh vực này năm 2012 theo giá so sánh 1994 ước tính tăng 3,4% so với năm 2011, bao gồm: nông nghiệp tăng 2,8%; lâm nghiệp tăng 6,4%; thuỷ sản tăng 4,5%.
Về sản xuất công nghiệp, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng 12/2012 ước tính tăng 5,0% so với tháng trước và tăng 5,9% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số sản xuất công nghiệp cả năm 2012 tăng 4,8% so với năm 2011, trong đó công nghiệp khai khoáng tăng 3,5%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,5%; sản xuất, phân phối điện, khí đốt tăng 12,3%; cung cấp nước, quản lý và xử lý nước thải, rác thải tăng 8,4%. Trong ngành sản xuất công nghiệp một số ngành công nghiệp có mức sản xuất tăng cao so với năm 2011 là: đóng tàu, sản xuất thiết bị truyền thông tăng, sản xuất phụ tùng và bộ phận phụ trợ, sản xuất linh kiện điện tử, sản xuất đường, sản xuất, truyền tải và phân phối điện...
Chỉ số giá tiêu dùng năm 2012 tăng 6,81%
|
Bà Nguyễn Thị Ngọc Vân, Vụ trưởng Vụ Thống kê Tổng hợp, Tổng Cục Thống kê đã thông báo một số vấn đề cơ bản về tình hình kinh tế – xã hội năm 2012.
Ảnh: Đức Trung (MPI Portal)
|
Về chỉ số giá tiêu dùng (CPI), bà Nguyễn Thị Ngọc Vân cho biết, CPI tháng 12/2012 tăng 0,27% so với tháng trước và tăng 6,81% so với tháng 12/2011. CPI bình quân năm 2012 tăng 9,21% so với bình quân năm 2011, xấp xỉ mức tăng 6,52% của năm 2009, thấp hơn nhiều so với mức tăng 11,75% của năm 2010 và mức tăng 18,13% của năm 2011. Mức tăng CPI đã chậm dần trong những tháng cuối năm, điều này thể hiện tính kịp thời và hiệu quả của việc triển khai Chỉ thị số 25/CT-TTg ngày 26/9/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường công tác quản lý, điều hành và bình ổn giá.
Các nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tháng 12/2012 so với tháng trước tăng cao hơn mức tăng chung là: May mặc, mũ nón, giày dép tăng 1,17%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,59%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,34%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,32%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,28% (Lương thực tăng 0,13%; thực phẩm tăng 0,28%; ăn uống ngoài gia đình tăng 0,4%). Các nhóm hàng hóa, dịch vụ có chỉ số giá thấp hơn mức tăng chung hoặc giảm gồm: Nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,15%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,14% (Dịch vụ y tế tăng 0,03%); giáo dục tăng 0,09% (Dịch vụ giáo dục tăng 0,05%); giao thông giảm 0,43%; bưu chính viễn thông giảm 0,02%.
Về nhóm hàng, nhóm hàng lương thực, thực phẩm tăng thấp hơn mức tăng chung (Lương thực tăng 3,26%, thực phẩm tăng 8,14%, CPI bình quân chung tăng 9,21%), trong khi năm 2011 đây là nhóm hàng có chỉ số giá tăng cao nhất và cao hơn nhiều so với mức tăng chung. Trong khi đó, chỉ số giá nhóm dịch vụ y tế có sự thay đổi lớn với chỉ số giá tăng mạnh, chỉ số giá nhóm giáo dục tuy mức tăng giảm so với năm trước nhưng vẫn ở mức cao.
Đầu tư phát triển tăng 7%
Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2012 theo giá hiện hành ước tính đạt 989,3 nghìn tỷ đồng, tăng 7% so với năm trước và bằng 33,5% GDP.
Xuất, nhập khẩu hàng hóa tăng 18,3%
Tổng cục Thống kê cho biết, trong năm 2012 kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 12 ước tính đạt 10,4 tỷ USD, tăng 0,5% so với tháng trước và tăng 15% so với năm 2011. Tính chung cả năm 2012, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu đạt 114,6 tỷ USD, tăng 18,3% so với năm 2011.
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu năm nay tăng cao chủ yếu ở khu vực có vốn đầu tư nước ngoài với các mặt hàng như: Điện tử, máy tính và linh kiện; điện thoại các loại và linh kiện, hàng dệt may, giày dép... Các mặt hàng trên đều thuộc nhóm hàng có tỷ trọng gia công cao, điều này phản ánh hiệu quả xuất khẩu và lượng ngoại tệ thực thu thấp.
Trong năm 2012, nhiều sản phẩm thuộc nhóm hàng công nghiệp có kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh như: Điện tử máy tính; điện thoại và linh kiện; máy móc, thiết bị phụ tùng. Nhiều nhóm hàng nông sản tăng khá về lượng xuất khẩu. Các mặt hàng xuất khẩu truyền thống vẫn giữ mức tăng khá như: Dây và cáp điện; sản phẩm gốm sứ; gỗ và sản phẩm gỗ; giày dép và hàng dệt may.
Cơ cấu kim ngạch hàng hóa xuất khẩu năm nay có sự thay đổi so với năm trước: Tỷ trọng nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản ước tính đạt 51,7 tỷ USD, tăng 49,9% và chiếm 45,1% (Năm 2011 là 35,6%), chủ yếu do tăng kim ngạch của điện thoại và linh kiện, ước tính tăng 6,2 tỷ USD (tăng 97,7%). Nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp đạt 39 tỷ USD, tương đương năm 2011 nhưng tỷ trọng giảm từ 40,3% năm 2011 xuống 34,1% năm 2012. Nhóm hàng nông, lâm sản đạt 17,7 tỷ USD, tăng 18% so với năm trước nhưng tỷ trọng không đổi với 15,4%. Nhóm hàng thuỷ sản đạt 6,2 tỷ USD, xấp xỉ năm 2011 và tỷ trọng giảm từ 6,3% năm 2011 xuống 5,4% năm 2012.
Về thị trường hàng hóa xuất khẩu của nước ta năm 2012, EU vươn lên là thị trường tiêu thụ hàng hóa lớn nhất với kim ngạch đạt 20,3 tỷ USD, tăng 22,5% so với năm 2011 và chiếm 17,7% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu.
Về nhập khẩu hàng hóa, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng 12 ước tính đạt 10,6 tỷ USD, tăng 6,5% so với tháng trước và tăng 13% so với năm 2011. Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu năm 2012 đạt 114,3 tỷ USD, tăng 7,1% so với năm trước. Về mặt hàng nhập khẩu năm nay, kim ngạch một số mặt hàng phục vụ gia công, lắp ráp tăng.
Cơ cấu kim ngạch hàng hóa nhập khẩu năm nay cũng có sự thay đổi so với năm 2011, nhóm tư liệu sản xuất ước tính đạt 106,5 tỷ USD, chiếm tỷ trọng cao nhất với 93,2%, tăng so với mức 90,6% của năm 2011, chủ yếu do tỷ trọng nhóm hàng máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng có liên quan đến lắp ráp hàng xuất khẩu tăng từ 29% lên 36,9%.
Về thị trường hàng hóa nhập khẩu năm nay, Trung Quốc tiếp tục là thị trường lớn nhất của nước ta với kim ngạch đạt 28,9 tỷ USD, tăng 17,6% so với năm 2011 và chiếm 25,3% tổng kim ngạch hàng hóa nhập khẩu; tiếp đến là ASEAN đạt 21 tỷ USD, tăng 0,3% và chiếm 18,3%; Hàn Quốc đạt 15,6 tỷ USD, tăng 18,4% và chiếm 13,6%; Nhật Bản đạt 11,7 tỷ USD, tăng 12,2% và chiếm 10,2%; EU đạt 8,8 tỷ USD, tăng 13,3% và chiếm 7,7%; Hoa Kỳ đạt 4,7 tỷ USD, tăng 4,7% và chiếm 4,1%.
Điểm đáng chú ý là năm 2012 Việt Nam xuất siêu 284 triệu USD và là năm đầu tiên xuất siêu kể từ năm 1993, trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài với mức xuất siêu đạt gần 12 tỷ USD, tập trung ở nhóm hàng gia công lắp ráp. Ngược lại, khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 11,7 tỷ USD. Đặc biệt năm 2012 lần đầu tiên Việt Nam xuất khẩu gạo đạt trên 8 triệu tấn, tương đương 3,7 tỷ USD.
Năm 2012 với các biện pháp tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội của Chính phủ đã mang lại những kết quả tích cực.Tính chung cả năm 2012, cả nước có 450,3 nghìn lượt hộ thiếu đói, giảm 27,6% so với năm 2011, tương ứng với 1911,8 nghìn lượt nhân khẩu bị thiếu đói, giảm 26,9%. Tỷ lệ hộ nghèo cả nước năm 2012 ước tính là 11,3 - 11,5%, giảm 1,1 - 1,3% so với năm 2011, thấp hơn mức giảm 1,6% của năm 2011 so với năm 2010./.
Tùng Linh
Cổng thông tin điện tử Bộ Kế hoạch và Đầu tư