Ngày 27/03/2013-16:09:00 PM
(MPI Portal) – Ngày 27/3, Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với các Bộ, ngành và địa phương tổ chức Hội nghị tổng kết 25 năm đầu tư nước ngoài tại Việt Nam dưới sự chủ trì của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng và Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh và sự tham dự của các đại biểu đại diện các Bộ, ngành trung ương, địa phương, các cơ quan nghiên cứu, các nhà khoa học, các hiệp hội doanh nghiệp trong nước và nước ngoài…
|
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng và Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh chủ trì Hội nghị Tổng kết 25 năm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Ảnh: Đức Trung (MPI Portal)
|
Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ban hành vào tháng 12 năm 1987 được cộng đồng quốc tế đánh giá là một bước ngoặt quan trọng trong việc thực hiện đường lối đổi mới, chuyển đổi mô hình quản lý kinh tế của Việt Nam. Sau hơn 25 năm thực hiện, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (ĐTNN) luôn là khu vực phát triển năng động và đóng vai trò tích cực trong quá trình phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế. ĐTNN là nguồn vốn bổ sung quan trọng trong tổng vốn đầu tư xã hội, góp phần đáng kể thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng năng lực sản xuất, đổi mới công nghệ, khai thông thị trường quốc tế, gia tăng kim ngạch xuất khẩu, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, đóng góp ngân sách nhà nước, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và tạo thêm việc làm.
|
Bộ trưởng Bùi Quang Vinh tại phát biểu khai mạc Hội nghị. Ảnh: Đức Trung (MPI Portal)
|
Phát biểu khai mạc Hội nghị, Bộ trưởng Bùi Quang Vinh cho rằng, ĐTNN có tác động lan tỏa đến các khu vực khác của nền kinh tế, trong đó có việc tạo sức ép cạnh tranh, thúc đẩy đổi mới và chuyển giao công nghệ, nâng cao hiệu quả sản xuất, khơi dậy các nguồn lực đầu tư trong nước; phát triển ngành công nghiệp phụ trợ, góp phần đưa Việt Nam từng bước tham gia chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu, gián tiếp tạo việc làm, góp phần mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế của Việt Nam. ĐTNN cũng đóng vai trò tích cực trong việc hỗ trợ cho quá trình cải cách doanh nghiệp trong nước, khuyến khích đổi mới thủ tục hành chính và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường.
Có thể nói rằng, kết quả thu hút ĐTNN thời gian qua về cơ bản đã đáp ứng yêu cầu đặt ra về mục tiêu thu hút vốn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết việc làm, tiếp thu công nghệ và kinh nghiệm quản lý, tuy kết quả của từng mục tiêu trong từng giai đoạn có khác nhau.
Mặc dù đã đạt được những kết quả quan trọng nêu trên, song việc thu hút ĐTNN thời gian qua chưa đạt được một số mục tiêu như kỳ vọng, đó là tỷ lệ dự án sử dụng công nghệ cao còn thấp, chưa thu hút được công nghệ nguồn, tỷ lệ việc làm mới tạo ra chưa cao. Tình trạng cấp Giấy chứng nhận đầu tư không phù hợp với quy hoạch; chưa quan tâm đầy đủ đến vấn đề an ninh quốc gia, an ninh lương thực; chưa chú ý đến hiệu quả sử dụng tài nguyên đất đai, khoáng sản còn diễn ra ở một số địa phương. Nhiều dự án chưa được thẩm tra, xem xét kỹ các khía cạnh công nghệ, kỹ thuật, môi trường, lao động… dẫn đến chất lượng dự án chưa cao. Hệ thống luật pháp, chính sách và thủ tục đầu tư còn nhiều quy định chưa đồng bộ, thiếu nhất quán, hay thay đổi và thời gian gần đây không còn đảm bảo tính cạnh tranh so với một số nước trong khu vực.
Trong thời gian tới, các nguồn vốn đầu tư gián tiếp không ổn định do tình hình kinh tế thế giới diễn biến phức tạp, ODA đang có xu hướng giảm dần; do Việt Nam là nước có thu nhập trung bình thấp, nguồn vốn từ ngân sách và khu vực tư nhân trong nước còn hạn chế, thì ĐTNN càng trở thành nguồn lực quan trọng cho mục tiêu phục hồi, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng.
Bộ trưởng Bùi Quang Vinh nhấn mạnh, trong bối cảnh cạnh tranh thu hút ĐTNN ngày càng mạnh mẽ và gay gắt, để cải thiện môi trường đầu tư, tiếp tục thu hút và phát huy tối đa hiệu quả của nguồn vốn ĐTNN phục vụ phát triển kinh tế đất nước.
Hội nghị đã tập trung vào một số nội dung chính sau: Đánh giá vai trò và tác động của ĐTNN đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam, cũng như trên các lĩnh vực, địa bàn thuộc phạm vi quản lý của mình. Từ đó nêu quan điểm về mức độ sử dụng nguồn vốn ĐTNN trong giai đoạn tới; Đánh giá những tồn tại, hạn chế của ĐTNN thời gian qua và các nguyên nhân cơ bản, gồm các vấn đề liên quan đến công tác quản lý nhà nước về ĐTNN (hoạch định chính sách, xây dựng quy hoạch, phân cấp, quyền hạn và trách nhiệm, sự phối hợp giữa các bộ, ngành và địa phương, triển khai thực hiện, giám sát, kiểm tra, bộ máy nhân lực…) và môi trường đầu tư của Việt Nam (chính sách ưu đãi đầu tư, chính sách lao động, thủ tục…); Kiến nghị những giải pháp thiết thực và đột phá nhằm thu hút và quản lý ĐTNN nước ngoài trong thời gian tới, gồm nhóm giải pháp liên quan đến quản lý nhà nước và nhóm giải pháp nhằm tăng cường thu hút đầu tư.
|
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phát biểu chỉ đạo Hội nghị. Ảnh: Đức Trung (MPI Portal)
|
Phát biểu chỉ đạo Hội nghị, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh những thành quả mà ĐTNN mang lại cho Việt Nam trong 25 năm qua là vô cùng to lớn. Điều này đã được thể hiện qua các số liệu trong Đề án và báo cáo tổng hợp của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng như các tham luận, ý kiến phát biểu của các đại biểu dự Hội nghị. Có thể nói rằng, hai thành tựu nổi bật nhất về kinh tế đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ Đổi mới chính là Thương mại và Đầu tư nước ngoài.
Các thành tựu trên đạt được trước hết do đường lối Đổi mới đúng đắn của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong việc chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng thu hút ĐTNN.
Thực hiện nhất quán đường lối đổi mới, trong những năm qua, Chính phủ Việt Nam đã không ngừng cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh. Hệ thống pháp luật chính sách đầu tư đã không ngừng được hoàn thiện theo hướng ngày càng đơn giản, thông thoáng, minh bạch và thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư. Chính phủ cũng đã nỗ lực huy động các nguồn vốn đầu tư trong nước và nước ngoài để nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng, đào tạo nguồn nhân lực. Hệ thống quy hoạch ngành, lãnh thổ được rà soát, cập nhật và bổ sung tạo dựng khuôn khổ pháp lý thúc đẩy hoạt động cạnh tranh lành mạnh.
Thay mặt Chính phủ, Thủ tướng đã biểu dương những cố gắng, nỗ lực vượt bậc của các Bộ, ngành, địa phương, đặc biệt là Bộ Kế hoạch và Đầu tư vì đã có những đóng góp quan trọng vào sự thành công của hoạt động ĐTNN tại Việt Nam trong suốt 25 năm qua.
Theo Thủ tướng, bên cạnh những kết quả tích cực đạt được, hoạt động ĐTNN tại Việt Nam trong thời gian qua vẫn còn một số tồn tại, hạn chế cần phải giải quyết. Tỷ trọng ĐTNN trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp còn thấp; đầu tư từ các nước phát triển có thế mạnh về công nghệ tăng chậm; việc cung cấp nguyên liệu, phụ tùng của các doanh nghiệp trong nước cho các doanh nghiệp có vốn ĐTNN còn hạn chế; đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao tuy ngày càng gia tăng nhưng vẫn chậm,... Đặc biệt, công tác quản lý nhà nước về ĐTNN còn rất nhiều bất cập. Điều này đòi hỏi chúng ta cần phải có các giải pháp tổng thể để khắc phục dần những tồn tại nêu trên trong thời gian tới.
Để thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội cho giai đoạn 2010-2020, Chính phủ Việt Nam đã, đang và sẽ nỗ lực cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư kinh doanh nhằm huy động tối đa các nguồn lực trong nước và nước ngoài cho đầu tư phát triển. Chính phủ đang chuẩn bị các điều kiện thuận lợi cho việc thu hút ở mức cao nhất và sử dụng có hiệu quả nhất dòng vốn đầu tư nước ngoài đang tăng mạnh tại Việt Nam, trong đó có việc thực hiện có hiệu quả và đúng lộ trình các cam kết song phương và đa phương trong quá trình hội nhập quốc tế; tiếp tục hoàn thiện cơ chế thị trường, cải cách thủ tục hành chính, hệ thống tài chính, ngân hàng; tăng cường đào tạo nguồn nhân lực, khắc phục các yếu kém về kết cấu hạ tầng và phát triển ngành công nghiệp phụ trợ.
|
Toàn cảnh Hội nghị. Ảnh: Đức Trung (MPI Portal)
|
Trong những năm tới, Việt Nam phải tiếp tục huy động mọi tiềm năng và nguồn lực, kể cả nguồn lực trong nước và nguồn lực nước ngoài để phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. Việc tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn ĐTNN sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế đất nước. Điều này đòi hỏi sự nỗ lực phấn đầu không chỉ của Chính phủ mà còn là trách nhiệm của các Bộ, ngành, chính quyền các địa phương và sự đóng góp nhiệt tình, có hiệu quả từng nhà nhà đầu tư, doanh nghiệp và sự ủng hộ của toàn xã hội. Đặc biệt trong thời gian tới, vốn đầu tư từ Ngân sách nhà nước sẽ giảm dần, nguồn vốn ODA sẽ không duy trì được theo mức trước đây. Vai trò của nguồn vốn ĐTNN sẽ phát huy tích cực trong việc đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế đất nước. ĐTNN phải thực sự là nguồn lực quan trọng trong phát triển kinh tế, góp phần khai thác các nguồn lực trong nước, mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế, tạo nên sức mạnh tổng hợp để công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Thủ tướng đề nghị tất cả các Bộ, ngành và địa phương phải luôn quán triệt chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước. Nhà nước ta coi kinh tế có vốn ĐTNN là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế đất nước, được khuyến khích phát triển lâu dài, bình đẳng với các thành phần kinh tế khác. Đó cũng chính là một trong những nội dung quan trọng của đường lối Đổi mới, cải cách kinh tế và chủ động hội nhập về kinh tế, thương mại và đầu tư với tất cả các đối tác quốc tế.
Thủ tướng tin tưởng rằng, với các giải pháp đồng bộ, hiệu quả, quyết liệt của Chính phủ, sự quyết tâm và đồng lòng của các Bộ, ngành, địa phương, môi trường đầu tư của Việt Nam sẽ không ngừng được cải thiện. Việt Nam tiếp tục trở thành địa điểm tin cậy, an toàn, hiệu quả cho các dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. ĐTNN sẽ tiếp tục đóng vai trò xứng đáng trong sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam trong thời gian tới./.
Qua báo cáo tổng kết, đánh giá của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các tham luận, trình bày, đề xuất của các đại biểu đại diện cho các Bộ, các địa phương, các ý kiến tâm huyết từ các nhà khoa học và đề xuất của các tổ chức quốc tế, các hiệp hội doanh nghiệp, Thủ tướng đề nghị việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong giai đoạn tới cần tập trung vào định hướng chủ yếu sau:
Một là: Việc thu hút ĐTNN phải được quy hoạch theo ngành, lĩnh vực, đối tác phù hợp với lợi thế của từng vùng, từng ngành để phát huy hiệu quả đầu tư của từng địa phương, từng vùng và phù hợp tổng thể lợi ích quốc gia.
Hai là: Thu hút ĐTNN phải theo hướng chọn lọc các dự án có chất lượng, công nghệ hiện đại, thân thiện môi trường, tăng cường sự liên kết với các doanh nghiệp trong nước, phù hợp với định hướng tái cấu trúc nền kinh tế.
Ba là: Đa dạng hoá hình thức đầu tư, khuyến khích và tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài tham gia phát triển kết cấu hạ tầng.
Bốn là: Tăng cường thu hút các dự án quy mô lớn, sản phẩm cạnh tranh cao tham gia chuỗi giá trị toàn cầu của các tập đoàn xuyên quốc gia hàng đầu thế giới, từ đó xây dựng, phát triển hệ thống các ngành, các doanh nghiệp phụ trợ. Đồng thời, chú trọng đến các dự án có quy mô vừa và nhỏ có tác động tích cực đến kinh tế - xã hội của Việt Nam
Năm là: Chuyển dần thu hút ĐTNN hướng vào sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao.
Với những định hướng đó, Tôi đề nghị các Bộ, ngành, địa phương quán triệt và thực hiện một số nhiệm vụ sau:
Thứ nhất: Tiếp tục hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách liên quan đến đầu tư, kinh doanh để sửa đổi các nội dung không còn phù hợp, không đồng bộ, thiếu nhất quán, còn bất cập, chưa rõ ràng; bổ sung các nội dung còn thiếu. Đặc biệt, chính sách thu hút và ưu đãi đầu tư phải được xây dựng theo hướng thuận lợi và có tính cạnh tranh hơn so với các nước trong khu vực.
Thứ hai: Đẩy mạnh thu hút đầu tư vào kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; lựa chọn các dự án tiềm năng hấp dẫn, có tính khả thi cao theo các lĩnh vực ưu tiên để đưa vào danh mục dự án PPP, bố trí nguồn vốn ngân sách để đầu tư đối ứng cho các dự án PPP kêu gọi nhà ĐTNN. Có chính sách ưu đãi đủ sức hấp dẫn đối với một số dự án hạ tầng kinh tế - xã hội có quy mô lớn, có tính lan tỏa và tác động tích cực đến phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ ba: Tăng cường và có kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao để đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp. Hoàn thiện các quy định của pháp luật để tăng cường quản lý người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho lao động nước ngoài có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, có tính đến các trường hợp đặc thù và đảm bảo quản lý hiệu quả lao động nước ngoài tại Việt Nam.
Thứ tư: Sửa đổi, bổ sung các quy định về tiêu chí doanh nghiệp công nghệ cao theo hướng điều chỉnh và cụ thể hóa tiêu chí công nghệ cao phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam, có tính đến nhóm các dự án công nghệ cao có mức doanh thu hàng năm lớn và sử dụng nhiều lao động chất lượng cao.
Thứ năm: Tập trung phát triển Công nghiệp hỗ trợ theo hướng tập trung vào một số ngành, sản phẩm trọng điểm. Cụ thể hóa các tiêu chí xác định ngành, sản phẩm được hưởng ưu đãi theo diện công nghiệp hỗ trợ, nâng mức ưu đãi đủ sức hấp dẫn các nhà đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ; trong đó, đặc biệt ưu đãi cao hơn cho các doanh nghiệp đầu tư theo chuỗi dự án sản xuất sản phẩm lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ so với các dự án đơn lẻ.
Thứ sáu: Công bố rộng rãi các quy hoạch đã được phê duyệt, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài tiếp cận thông tin về quy hoạch để xây dựng kế hoạch đầu tư. Tập trung hoàn thiện thể chế về quy hoạch nhằm nâng cao chất lượng của các quy hoạch được phê duyệt và tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước đối với công tác quy hoạch phục vụ đầu tư phát triển. Tăng cường gắn kết giữa quy hoạch sử dụng đất với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội theo hướng ưu tiên quỹ đất để thực hiện dự án có trong quy hoạch đã được phê duyệt.
Thứ bảy: Quy định tiêu chuẩn môi trường và giới hạn ô nhiễm môi trường. Ban hành hạn ngạch ô nhiễm, quy định lượng phát thải đối với doanh nghiệp; yêu cầu doanh nghiệp phải đăng công khai về một số thông tin liên quan (loại chất thải, lượng thải, điểm thải, tiêu chuẩn môi trường,...).
Thứ tám: Hoạt động XTĐT cần gắn với mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội quốc gia; có sự điều phối thống nhất trong cả nước, được thực hiện theo kế hoạch và theo định hướng thu hút đầu tư nước ngoài và đầu tư ra nước ngoài nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động XTĐT, tránh chồng chéo và sử dụng kém hiệu quả nguồn lực của quốc gia.
Có chính sách vận động, thu hút đầu tư đặc thù đối với các dự án có quy mô lớn, có tính lan tỏa và tác động tích cực đến phát triển kinh tế - xã hội, trong đó chú trọng tới đầu tư từ các tập đoàn đa quốc gia và các đối tác trọng điểm (EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc...).
Chú trọng XTĐT đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ (gắn với các tập đoàn đa quốc gia đầu tư lớn vào Việt Nam).
Tập trung hỗ trợ các dự án đã được cấp Giấy chứng nhận đầu tư để các dự án này triển khai hoạt động thuận lợi và có hiệu quả, đây là hình thức xúc tiến đầu tư tại chỗ rất hữu ích.
Thứ chín: Chấn chỉnh công tác cấp Giấy chứng nhận đầu tư theo hướng: Đối với các dự án có quy mô lớn, có tác động xã hội, ngoài nội dung thẩm tra theo quy định chung của pháp luật, các cơ quan cấp GCNĐT phải xem xét, đánh giá dự án đáp ứng các yêu cầu về năng lực tài chính của nhà đầu tư (bao gồm cả việc quy định các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ triển khai dự án của chủ đầu tư). Đối với các dự án ĐTNN khai thác khoáng sản, việc chọn nhà đầu tư phải gắn khai thác với chế biến sâu, tạo ra giá trị gia tăng cao bằng công nghệ, thiết bị hiện đại và hệ thống xử lý môi trường để sử dụng nguồn tài nguyên có hiệu quả.Đối với một số địa bàn, khu vực có ảnh hưởng đến an ninh quốc phòng, cần lựa chọn nhà đầu tư nước ngoài phù hợp để đảm bảo hài hòa lợi ích về kinh tế và an ninh quốc phòng.
Thứ 10: Tăng cường trách nhiệm và cơ chế phối hợp trong quản lý sau cấp phép. Tập trung hỗ trợ các dự án đã được cấp GCNĐT. Định kỳ rà soát, phân loại các dự án ĐTNN để có hướng xử lý thích hợp theo nguyên tắc:
- Đối với các dự án đang hoạt động của các nhà đầu tư lớn, tập đoàn xuyên quốc gia, thuộc lĩnh vực khuyến khích đầu tư, có tính lan tỏa cao, các dự án nhỏ và vừa hoạt động hiệu quả, các cơ quan quản lý nhà nước cần thường xuyên nắm tình hình, kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc phát sinh và có cơ chế khen thưởng thỏa đáng.
- Đối với những dự án đã được cấp GCNĐT nhưng không phù hợp với định hướng về ngành, lĩnh vực, địa bàn,... và nhà đầu tư chưa triển khai hoặc triển khai không đúng tiến độ cam kết thì xem xét việc chấm dứt hoạt động và thu hồi GCNĐT hoặc điều chỉnh quy mô, mục tiêu. Việc chấm dứt hoạt động hoặc điều chỉnh các dự án này phải tiến hành minh bạch, đúng quy định của pháp luật, bảo đảm sự ổn định của môi trường đầu tư tại Việt Nam.
|
Thúy Quyên Cổng thông tin điện tử Bộ Kế hoạch và Đầu tư
(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)
|
|