(MPI) - Ngày 19/7/2018, trong khuôn khổ Chương trình Ốt-xtrây-li-a hỗ trợ cải cách kinh tế Việt Nam (AUS4REFORM), Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức Hội thảo với chủ đề: Đổi mới cơ chế giám sát của cơ quan đại diện chủ sở hữu trong tiến trình cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước (DNNN).
|
TS. Nguyễn Đình Cung, Viện trưởng CIEM phát biểu khai mạc Hội thảo. Ảnh: Minh Hậu (MPI) |
Phát biểu khai mạc Hội thảo, TS. Nguyễn Đình Cung, Viện trưởng CIEM cho biết, Bộ Kế hoạch và Đầu tư được giao nhiệm vụ xây dựng các văn bản hướng dẫn về Ủy ban quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp và thực hiện quyền, trách nhiệm của cơ quan đại diện chủ sở hữu.
Tại Nghị quyết số 09/NQ-CP ngày 03/02/2018, Chính phủ đã quyết định thành lập Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu đối với doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ và phần vốn nhà nước đầu tư tại công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên theo quy định của pháp luật. Theo dự kiến, Ủy ban sẽ quản lý một nguồn lực rất lớn, 820 tỷ đồng vốn chủ sở hữu nhà nước và 1,5 triệu tỷ đồng tài sản doanh nghiệp. Tuy nhiên, có nhiều hoài nghi về cách thức tổ chức và trách nhiệm giải trình của Ủy ban trong bối cảnh cơ chế giám sát hiện hành bị xem là thiếu hiệu lực và kém hiệu quả.
Dự án Hỗ trợ tái cơ cấu kinh tế nâng cao năng lực cạnh tranh Việt Nam (RCV) được xây dựng nhằm hỗ trợ thực hiện một số nội dung trong Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh giai đoạn 2013-2020 của Chính phủ Việt Nam sẽ giúp nghiên cứu về đổi mới cách thức và công cụ giám sát doanh nghiệp nhà nước (DNNN), trong đó phục vụ xây dựng các dự thảo Nghị định về cơ quan đại diện chủ sở hữu, Ủy ban quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp.
Tại Hội thảo, trình bày về việc đổi mới cơ chế giám sát của cơ quan đại diện chủ sở hữu trong tiến trình cơ cấu lại DNNN, ông Phạm Đức Trung, Trưởng ban Cải cách và phát triển doanh nghiệp, CIEM cho rằng, trong khung khổ giám sát của cơ quan chủ sở hữu, giám sát phải là công việc thường xuyên, liên tục. Quy trình gồm 5 bước: Giao mục tiêu, nhiệm vụ cho DNNN; theo dõi, kiểm tra, đánh giá; kiểm chứng, kiểm định kết quả thực hiện; giải trình trách nhiệm giám sát trước Chính phủ, Quốc hội và công khai kết quả giám sát.
Về công cụ giám sát, thông tin được đánh giá là nguồn lực quan trọng nhất của quản lý, là yếu tố quyết định hiệu quả giám sát. Cần có một cơ sở dữ liệu tập trung, thống nhất và đầy đủ về doanh nghiệp có vốn nhà nước, đảm bảo yêu cầu thông tin chặt chẽ giữa các cơ quan chủ sở hữu doanh nghiệp, đặc biệt trong thời đại công nghệ số cần phải kết nối trực tuyến, cập nhật thường xuyên, liên tục, công cụ an toàn, bảo mật, báo cáo tài chính điện tử,…
Tiếp đó, mục tiêu, nhiệm vụ giao cho doanh nghiệp phải thể hiện được mục đích, yêu cầu của cơ quan chủ sở hữu. Vì vậy, nhà nước, cơ quan chủ sở hữu phải chủ động phối hợp xây dựng các tiêu chí giao cho doanh nghiệp, vừa tạo cơ sở cho DNNN hoạt động, vừa là căn cứ để đánh giá DNNN. Các tiêu chí đánh giá gồm tài chính và phi tài chính. Chỉ tiêu đánh giá cần đa dạng nhưng phải có “trọng số” mức độ quan trọng đối với từng doanh nghiệp.
Về thực trạng công tác giám sát, đánh giá DNNN ở Việt Nam, theo Báo cáo của Đoàn giám sát của Quốc hội năm 2018 về kết quả giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại doanh nghiệp và cổ phần hóa giai đoạn 2011-2016, hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát của cơ quan đại diện chủ sở hữu, kiểm soát nội bộ chưa hiệu quả là một trong những nguyên nhân dẫn đến những vi phạm trong quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại doanh nghiệp.
Trong đó, các nguyên nhân chưa hiệu quả là từ hệ thống pháp luật, đã có nhiều quy định về thẩm quyền, chủ thể và đối tượng giám sát nhưng thiếu thống nhất về nội hàm/khái niệm/phạm vi hoạt động giám sát chủ sở hữu, gây chồng lấn giữa giám sát của chủ sở hữu với hoạt động thanh tra, kiểm tra thuộc chức năng quản lý nhà nước. Các quy định hướng dẫn chi tiết về cách thức, công cụ thực hiện giám sát của cơ quan đại diện chủ sở hữu chưa thực sự rõ ràng, dẫn tới những lúng túng trong tổ chức thực hiện, ảnh hưởng xấu tới hiệu quả giám sát. Không cơ quan nào có đủ thẩm quyền và khả năng theo dõi, đánh giá doanh nghiệp nhà nước đầy đủ, hiệu quả và toàn diện.
Trong triển khai thực hiện, thiếu thông tin đầy đủ, có tính xác thực cao và cập nhật về tài sản nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp trong nền kinh tế, đặc biệt, là vốn nhà nước tại doanh nghiệp đa sở hữu. Không dễ để trả lời câu hỏi vốn nhà nước đang nằm ở bao nhiêu doanh nghiệp? Giá trị thực tế như thế nào? Không rõ có tồn tại cơ sở dữ liệu về doanh nghiệp của từng cơ quan chủ sở hữu hay không, dẫn đến không thể giám sát tốt khi thiếu công cụ thông tin.
|
Toàn cảnh Hội thảo. Ảnh: Minh Hậu (MPI) |
Để đổi mới cơ chế giám sát của cơ quan đại diện chủ sở hữu, nhóm nghiên cứu kiến nghị xây dựng “big data”, hệ thống hạ tầng công nghệ thông tin để vận hành chức năng đại diện chủ sở hữu. Áp dụng cách thức và công cụ giám sát theo thông lệ tốt về quản lý DNNN, tập trung quyền sở hữu gắn với tập trung trách nhiệm và làm rõ cơ chế giám sát Ủy ban/cơ quan chủ sở hữu.
Việc xây dựng “big data” dựa trên nguyên tắc chung là dữ liệu thông tin phải được trở thành nguồn lực quan trọng nhất để quản trị DNNN, giúp cho quyết định quản lý của Ủy ban quản lý vốn và các cơ quan chủ sở hữu đúng đắn hơn, nhanh hơn, chất lượng hơn và hiệu quả hơn. Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về doanh nghiệp trực thuộc với tất cả các thông tin đa dạng, cần thiết cho quản lý và hệ thống hạ tầng công nghệ có liên quan, áp dụng công cụ thuật toán, phân tích dữ liệu, kể cả áp dụng trí tuệ nhân tạo cho công tác dự báo và ra quyết định. Trong đó, đầu tư xây dựng và vận hành hệ thống thông tin giám sát, kết nối trực tuyến tới từng doanh nghiệp, tự động đánh giá và đối chiếu với kế hoạch các chỉ số tài chính, hiệu quả hoạt động, nguồn vốn, nhiệm vụ xã hội, tiến độ dự án… trên cùng một cơ sở dữ liệu thu thập từ doanh nghiệp.
Đồng thời, thử nghiệm hệ thống quản lý trực tuyến của Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Trong đó, hệ thống phải được thiết kế đảm bảo tương thích, liên kết được với hệ thống Chính phủ điện tử, theo dõi, giám sát hoạt động, kết nối trực tiếp với doanh nghiệp, phân tích, đánh giá được “sức khỏe” của doanh nghiệp, đặc biệt các rủi ro về tài chính, quản trị,…
Về việc áp dụng cách thức và công cụ giám sát theo thông lệ tốt về quản trị DNNN cần tăng cường quản trị rủi ro trong giám sát, đầu tư vận hành hệ thống thông tin phân tích rủi ro, áp dụng các tiêu chuẩn về quản lý rủi ro, công bố thông tin cho DNNN tương đồng với các công ty niêm yết. Cơ quan chủ sở hữu phải chịu trách nhiệm cẩn trọng trong thẩm định, phê duyệt phương án huy động vốn, dự án đầu tư, mua sắm thuộc thẩm quyền.
Về cơ chế giám sát Ủy ban Quản lý vốn, Bộ Tài chính sẽ chủ trì giúp Chính phủ tổ chức giám sát việc thực hiện các quyền và trách nhiệm của Ủy ban và cơ quan đại diện chủ sở hữu. Chính phủ cần giao các chỉ tiêu hằng năm và trung hạn để làm căn cứ giám sát, đánh giá hiệu quả tài chính, xã hội và mục tiêu đầu tư tư vấn nhà nước, mức độ hoàn thành kế hoạch tái cơ cấu, tính hợp pháp, hợp lý và cẩn trọng của các quyết định do Ủy ban/cơ quan chủ sở hữu đã thực hiện trong kỳ báo cáo. Đồng thời, công khai thông tin về hoạt động của Ủy ban và các cơ quan chủ sở hữu.
Tại Hội thảo, chuyên gia tư vấn chính sách của Chương trình AUS4REFORM, các chuyên gia kinh tế hàng đầu Việt Nam và các đại biểu tham dự Hội thảo đã có những tham luận, chia sẻ thẳng thắn về cách thức tổ chức, trách nhiệm giải trình, cơ chế giám sát của cơ quan đại diện chủ sở hữu trong tiến trình cơ cấu lại DNNN./.
Thúy Quyên
Bộ Kế hoạch và Đầu tư