Sáu tháng đầu năm 2018, kinh tế cả nước dự báo duy trì ổn định, phát triển và tăng trưởng ở mức cao, tiếp tục tập trung tái cơ cấu nền kinh tế để ổn định kinh tế vĩ mô bền vững trong trung hạn, kết quả 6 tháng đầu năm tăng trưởng kinh tế của Việt Nam dự báo có được bởi sự phát triển mạnh mẽ lĩnh vực công nghiệp chế tạo và xuất khẩu, gia tăng tiêu dùng nội địa, dòng vốn đầu tư dồi dào của các doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước, cũng như cải thiện lĩnh vực nông nghiệp. Tuy nhiên, cần phải tích cực hơn nữa trong cải thiện môi trường kinh doanh, giảm chi phí không chính thức cho khu vực DN. Cùng với đó, cần thúc đẩy nền kinh tế thị trường và khuyến khích khu vực DN đầu tư cho khoa học công nghệ, tận dụng cơ hội từ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4.
Ở tỉnh ta, tình hình kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm 2018 phát triển ổn định, và tăng trưởng cao, một số chỉ tiêu đạt khá như: sản xuất nông nghiệp nhất là cây lúa đạt kế hoạch đề ra và tăng cao so với cùng kỳ, nguồn thu ngân sách đạt cao so dự toán; sản xuất công nghiệp ổn định, các sản phẩm công nghiệp chủ lực như: xi măng, giày da xuất khẩu, các mặt hàng chế biến thủy hải sản có mức tăng khá, các dự án trong các khu công nghiệp đang tiếp tục đầu tư mở rộng; đời sống nhân dân được cải thiện, dịch bệnh được kiểm soát; an ninh chính trị, an toàn xã hội được giữ vững. Tuy nhiên, ở một số lĩnh vực cũng còn gặp khó khăn như: Tiến độ thực hiện và giá trị khối lượng giải ngân trong công tác xây dựng cơ bản đạt thấp so kế hoạch; hiện nay, tình hình thiệt hại tôm nuôi trên địa bàn tỉnh đang có dấu hiệu gia tăng do môi trường bất lợi, dịch bệnh phát sinh và giá cả tôm nuôi đang giảm mạnh làm ảnh hưởng không nhỏ đến người nuôi tôm... Cụ thể từng lĩnh vực đạt được như sau:
1. Tăng trưởng kinh tế
Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) 6 tháng đầu năm 2018 theo (giá so sánh 2010) ước tính tăng 8,52% so với cùng kỳ năm 2017. Trong mức tăng chung, khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 10,79%, đóng góp cho tăng trưởng chung 3,96 điểm phần trăm, trong đó riêng lĩnh vực nông nghiệp tăng 10,53%; đóng góp tăng trưởng 2,75 điểm phần trăm; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 6,82%, đóng góp tăng trưởng chung 1,33 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ tăng 7,59%, đóng góp tăng trưởng chung 3,05 điểm phần trăm; Thuế nhập khẩu, thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 5,15%, đóng góp tăng trưởng chung 0,18 điểm phần trăm.
Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) ước tính 6 tháng đầu năm 2018
|
(GRDP)
ước 6 tháng đầu năm 2018(triệu đồng)
|
Tốc độ tăng
So với 6 tháng đầu năm 2017 (%)
|
Đóng góp các khu vực vào tăng trưởng 6 tháng đầu năm 2018 (%)
|
Theo giá
hiện hành
|
Theo giá
So sánh 2010
|
Tổng sản phẩm trên ĐB (GRDP)
Tổng giá trị tăng thêm (VA)
Phân theo khu vực kinh tế
1. Nông, lâm, thủy sản
Riêng: - Nông nghiệp
- Thủy sản
2.Công nghiệp, xây dựng
Riêng: - Công nghiệp
3. Dịch vụ
4.Thuế nhập khẩu, thuế sản phẩm trừ trợ cấp SP.
|
39.401.777
38.036.282
14.571.993
9.746.224
4.637.942
7.663.085
4.793.449
15.801.203
1.365.495
|
28.247.634
27.268.464
10.575.294
7.510.757
2.988.097
5.426.950
3.399.395
11.266.220
979.170
|
8,52
8,65
10,79
10,53
11,90
6,82
9,66
7,59
5,15
|
8,52
8,34
3,96
2,75
1,22
1,33
1,15
3,05
0,18
|
Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) 6 tháng đầu năm 2018 theo (giá so sánh 2010) ước tính đạt 28.247,63 tỷ đồng, đạt 45,63% kế hoạch năm, tăng 8,52% so với cùng kỳ năm 2017.
Chia ra:
Khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản:Tổng giá trị tăng thêm (VA) ước tính 10.575,29 tỷ đồng, đạt 50,31% kế hoạch, tăng 10,79% so cùng kỳ, đóng góp tăng trưởng chung khu vực I là 3,96 điểm phần trăm, trong đó: Giá trị tăng thêm của ngành nông nghiệp 7.510,76 tỷ đồng, đạt 53,13% kế hoạch, tăng 10,53% (tăng 715,73 tỷ đồng) so cùng kỳ, đóng góp tăng trưởng 2,75 điểm phần trăm; giá trị tăng thêm ngành thủy sản ước đạt 2.988,10 tỷ đồng, đạt 44,53% kế hoạch, tăng 11,90% (tăng 317,81 tỷ đồng) so cùng kỳ, đóng góp tăng trưởng là 1,22 điểm phần trăm.
Khu vực công nghiệp và xây dựng:Tổng giá trị tăng thêm (VA) ước tính 5.426,95 tỷ đồng, đạt 41,59% kế hoạch, tăng 6,82%, đóng góp tăng trưởng chung khu vực II là 1,33 điểm phần trăm, trong đó lĩnh vực công nghiệp giá trị tăng thêm ước tính 3.399,40 tỷ đồng, đạt 43,96% kế hoạch, tăng 9,66% (tăng 299,45 tỷ đồng) so cùng kỳ, đóng góp tăng trưởng là 1,15 điểm phần trăm; giá trị tăng thêm ngành xây dựng 2.027,56 tỷ đồng, chỉ đạt38,13%kế hoạch, tăng 2,36% so cùng kỳ, đóng góp tăng trưởng trong khu vực II là 0,18 điểm phần trăm.
Khu vực dịch vụ:Tổng giá trị tăng thêm ước tính 11.266,22 tỷ đồng, đạt 43,69% kế hoạch, tăng 7,59% so cùng kỳ, đóng góp tăng trưởng chung là 3,05 điểm phần trăm, trong đó tăng cao nhất thuộc các ngành dịch vụ ăn uống và du lịch, vận tải... còn lại các ngành dịch vụ khác có mức tăng trưởng còn thấp hơn mức chung.
2. Tài chính, ngân hàng
2.1. Thu, chi ngân sách Nhà nước
Tổng thu ngân sách trên địa bàn6 tháng đầu năm 2018 dự kiến 5.334 tỷ đồng, đạt 55,17% dự toán HĐND tỉnh giao, tăng 15,35% so cùng kỳ năm 2017. Trong đó: thu nội địa 4.994 tỷ đồng, đạt 54,88% dự toán, tăng 9,83% so cùng kỳ, chiếm 93,63% trên tổng thu ngân sách của tỉnh. Đa số các khoản thu đều đạt cao so dự toán, trong đó: đạt cao nhất là thu thuế XNK, thuế TTĐB, thuế VAT hàng nhập khẩu 340 tỷ đồng, đạt 250% so dự toán, tăng 4,39 lần so cùng kỳ; thu tiền cho thuê mặt đất, mặt nước 529,96 tỷ đồng, đạt 176,66% dự toán, tăng hơn 4,2 lần so cùng kỳ; thu lệ phí trước bạ 252 tỷ đồng, đạt 66,33% dự toán, tăng 61,73%; thu xổ số kiến thiết 915,27 tỷ đồng, đạt 76,91% dự toán, tăng 24,10% so cùng kỳ; thu thuế CTN ngoài nhà nước 1.569,45 tỷ đồng, đạt 44,46% dự toán, tăng 12,46%. Bên cạnh đó vẫn còn một số khu vực, sắc thuế đạt thấp so dự toán cả năm và so với cùng kỳ năm trước như: thu thuế bảo vệ môi trường 149,52 tỷ đồng, đạt 33,23% dự toán, bằng 78,19% cùng kỳ; thu từ doanh nghiệp nhà nước TW 171,67 tỷ đồng, đạt 41,87% dự toán; bằng 87,58% cùng kỳ; thu tiền sử dụng đất 500 tỷ đồng đạt 50% dự toán, bằng 56,10% cùng kỳ; thu từ DN nhà nước địa phương 98,86 tỷ đồng, đạt 40,35% dự toán, bằng 89,48%...
Tổng chi ngân sách địa phương6 tháng đầu năm 2018 dự kiến 5.674,96 tỷ đồng, bằng 39,61% dự toán năm, tăng 3,82% so cùng kỳ năm trước. Trong đó: chi thường xuyên 3.724,64 tỷ đồng, đạt 46,83% dự toán năm, tăng 8,48%; chi đầu tư phát triển 1.919,9 tỷ đồng, đạt 59,44% dự toán năm, giảm 3,64% so với cùng kỳ năm trước.
2.2. Hoạt động Ngân hàng
Ước đến 30/6/2018, tổng nguồn vốn hoạt động ngân hàng đạt 82.000 tỷ đồng, tăng 15,28% so đầu năm, tăng 29,64% so cùng kỳ. Trong đó, vốn huy động tại địa phương đạt 51.800 tỷ đồng, tăng 19,27% so đầu năm, tăng 38,50% so cùng kỳ, chiếm 63,17%/ tổng nguồn vốn hoạt động.
Ước doanh số cho vay đến 30/6/2018 đạt 74.944 tỷ đồng (trong đó 80% doanh số cho vay là phục vụ sản xuất kinh doanh). Dư nợ cho vay 61.500 tỷ đồng, tăng 8,64% so với đầu năm, tăng 22,21% so với cùng kỳ.
Nợ xấu tiếp tục giảm do các TCTD đẩy mạnh các biện pháp xử lý và thu hồi nợ rủi ro đang theo dõi ngoại bảng, ước đến 30/6/2018 nợ xấu chiếm 0,93%/tổng dư nợ cho vay.
Dư nợ cho vay theo ngành, lĩnh vực đều có mức tăng trưởng, cụ thể:
Cho vay nông nghiệp nông thôn 6 tháng đầu năm ước doanh số cho vay 24.500 tỷ đồng; dư nợ 32.300 tỷ đồng, tăng 10,79% so với đầu năm, tăng 23,95 so cùng kỳ. Trong đó: Cho vay xây dựng nông thôn mới trên địa bàn đạt 21.000 tỷ đồng, dư nợ 22.300 tỷ đồng, tăng 9,63% so đầu năm, tăng 18,74% so cùng kỳ; Cho vay chính sách hỗ trợ giảm tổn thất sau thu hoạch trong nông nghiệp theo Quyết định 68 của Thủ tướng Chính phủ 80 tỷ đồng, dư nợ 350 tỷ đồng, tăng 3,86% so đầu năm, tăng 3,55% so cùng kỳ.
Cho vay sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu ước đạt 7.000 tỷ đồng, tăng 41,10% so với cùng kỳ, Dư nợ 5.700 tỷ đồng, tăng 30,23% so đầu năm, tăng 56,77% so cùng kỳ. Trong đó: Doanh số cho vay xuất khẩu gạo 2.200 tỷ đồng, tăng 141,23% so cùng kỳ, dư nợ đạt 1.300 tỷ đồng, tăng 110,36% so đầu năm, tăng 146,68% so cùng kỳ; Doanh số cho vay xuất khẩu thủy sản đạt 4.800 tỷ đồng, tăng 18,55% so cùng kỳ, dư nợ 4.400 tỷ đồng, tăng 17,05% so đầu năm, tăng 41,52% so cùng kỳ.
Cho vay hỗ trợ phát triển thuỷ sản theo Nghị định 67/2014/NĐ-CP của Chính phủ:Từ đầu năm các tổ chức tín dụng đã ngừng ký hợp đồng cho vay theo Nghị định 67/2014/NĐ-CP và triển khai thực hiện chính sách tín dụng theo Nghị định 17/2018/NĐ-CP. Qua 5 tháng đầu năm đã giải ngân 19,81 tỷ đồng, lũy kế giải ngân từ đầu chương trình là 321,85 tỷ đồng (đạt 96,23%/tổng số tiền cam kết); dư nợ đạt 296,67 tỷ đồng và có 45/48 tàu đã hạ thủy.
Cho vay hỗ trợ nhà ở theo Nghị quyết 02/NQ-CP và Nghị quyết 61/NQ-CP: Từ đầu năm 2018, các ngân hàng thương mại tiếp tục thực hiện giám sát và thu hồi nợ theo quy định, đến thời điểm báo cáo, dư nợ còn 282 tỷ đồng của 618 khách hàng (617 cá nhân và 1 tổ chức).
Hoạt động của NHCSXH: Doanh số cho vay 6 tháng đầu năm 2018 đạt 406 tỷ đồng, giảm 2,17% so cùng kỳ. Dư nợ 2.920 tỷ đồng, tăng 4,21% so đầu năm, tăng 8,67% so cùng kỳ. Nợ quá hạn chiếm 3,49%/Tổng dư nợ.
Nhìn chung, 6 tháng đầu năm nay, nguồn vốn hoạt động và dư nợ cho vay tiếp tục tăng trưởng, tốc độ tăng trưởng và chất lượng tín dụng được nâng cao, tỷ lệ nợ xấu được kiểm soát; Cơ cấu tín dụng được tập trung cho các lĩnh vực kinh tế quan trọng…Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa thấp hơn mức tăng trưởng tín dụng chung của tỉnh, cho vay nhà ở theo NĐ 100/2015/NĐ-CP còn chậm triển khai thực hiện; nợ xấu trong phạm vi an toàn nhưng tăng về số tuyệt đối.
3. Đầu tư và xây dựng
Dự kiến tổng vốn đầu tư toàn xã hội trên địa bàn tỉnh 6 tháng đầu năm là 20.964,89 tỷ đồng, đạt 45,26% kế hoạch năm, tăng 0,60% so cùng kỳ. Chia ra: Vốn đầu tư phát triển do địa phương quản lý đạt 18.548,49 tỷ đồng, đạt 47,04% kế hoạch, tăng 15,78%; vốn đầu tư của Bộ ngành quản lý 2.416,41tỷ đồng, đạt 35,05% kế hoạch, bằng 50,13% so cùng kỳ.
Trong đó: Vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý đạt 1.919,9 tỷ đồng đạt 34,17% kế hoạch, giảm 6,36% so cùng kỳ; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 267,89 tỷ đồng, đạt 28,73% kế hoạch; vốn ngoài nhà nước của doanh nghiệp, hộ dân cư, hộ kinh tế cá thể 15.845,66 tỷ, đạt 50,23% kế hoạch, tăng 22,51%.
Theo Ban quản lý khu kinh tế,tiến độ triển khai đầu tư tại các khu công nghiệp như sau:
Tính đến tháng 6 năm 2018, tổng số dự án đầu tư trong 02 KCN (Thạnh Lộc, Thuận Yên) có 24 dự án đăng ký đầu tư, với tổng diện tích đăng ký 152,27 ha, tổng vốn đăng ký đầu tư dự kiến khoảng 6.335 tỷ đồng. Trong đó có 18 dự án đã cấp GCNĐKĐT, tổng diện tích đăng ký là 89,7 ha, tổng vốn đăng ký đầu tư là 5.794 tỷ đồng; 06 dự án còn lại đã thỏa thuận đầu tư và đang trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư, khảo sát vị trí dự án. Ước tính giá trị đầu tư của các dự án trong KCN 6 tháng đầu năm là 684,69 tỷ đồng. Cụ thể như sau:
KCN Thạnh Lộc: Có 21 dự án đăng ký đầu tư, với diện tích đăng ký 68 ha, tỷ lệ lắp đầy (giai đoạn 1) đạt 63,2%, vốn đăng ký đầu tư dự kiến khoảng 5.748 tỷ đồng. Trong đó 16 dự án đã cấp GCNĐKĐT, diện tích đăng ký là 57,43 ha, vốn đăng ký đầu tư là 5.154 tỷ đồng (06 dự án đã đi vào hoạt động; 01 dự án đã hoàn thành xây dựng nhà máy, đang vận hành chạy thử sản phẩm; 04 dự án đang triển khai xây dựng; 02 dự án tạm dừng thực hiện, triển khai chậm; 03 dự án đang thực hiện thủ tục thuê đất, ký quỹ; 01 dự án đang thực hiện thủ tục đăng ký đầu tư; 01 dự án đang lấy ý kiến sở, ngành; 02 dự án đã thoả thuận đầu tư; 01 dự án đang xin chủ trương đầu tư.
KCN Thuận Yên: Có 03 dự án đăng ký đầu tư, với diện tích đăng ký 84,27 ha, tỷ lệ lắp đầy đạt 97%, vốn đăng ký đầu tư dự kiến khoảng 587,05 tỷ đồng. Trong đó: 02 dự án đã cấp GCNĐKĐT, tổng diện tích đăng ký là 32,27 ha(01 dự án đi vào hoạt động kinh doanh; 01 dự án triển khai chậmvà 01 dự án đang chuẩn bị công tác đầu tư.
KKTCK Hà Tiên: Công ty CP Xuất nhập khẩu tỉnh Lào Cai đã có văn bản xin đăng ký đầu tư các khu chức năng tại KKTCK và được UBND tỉnh thống nhất cho nhà đầu tư điều chỉnh quy hoạch tổng thể các khu chức năng tại KKTCK Hà Tiên, BQLKKT đang chuẩn bị làm việc với nhà đầu tư về phương án điều chỉnh.
Khu nhà ở công nhân, diện tích 60,43 ha tại Thạnh Lộc: Có 03 doanh nghiệp tham gia đầu tư gồmCông ty CP Thương mại dịch vụ Hà Tĩnh, Công ty CP Aranya Việt Nam, Công ty CP Đầu tư và Phát triển Nguyên Long xin đăng ký. Hiện đang phối hợp với Sở Xây dựng trình UBND tỉnh đề xuất phương án lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án.
Giá trị sản xuất kinh doanh của các dự án trong 02 KCN Thạnh Lộc, Thuận Yên lũy kế từ đầu năm đến nay ước đạt khoảng 2.545 tỷ đồng. Nộp ngân sách tỉnh đạt 323,8 tỷ đồng. Số lượng lao động hiện đang làm việc tại 02 KCN Thạnh Lộc, Thuận Yên là 5.370 lao động.
Theo báo cáo của Ban quản lý khu kinh tế Phú Quốc:Tính đến ngày 01/6/2018 đã có 279 dự án được UBND tỉnh chấp thuận chủ trương còn hiệu lực trong các khu quy hoạch với diện tích 10.754 ha, trong đó có 249 dự án được cấp giấy chứng nhận đầu tư và quyết định chủ trương đầu tư với tổng diện tích 9.029 ha, tổng vốn đầu tư đăng ký 270.488 tỷ đồng, trong đó có 36 dự án đã đi vào hoạt động với diện tích 1.182 ha, tổng vốn đầu tư 14.758 tỷ đồng, 35 dự án đang triển khai xây dựng với diện tích 3.203 ha, vốn đầu tư dự kiến 95.731 tỷ đồng (trong đó có 6 dự án đã hoạt động một phần), các dự án còn lại đang hoàn thiện các thủ tục đầu tư. Lũy kế đến nay trên địa bàn huyện Phú Quốc có 28 dự án FDI với tổng vốn đăng ký 287 triệu USD…Tuy nhiên, mặc dù dự án trên địa bàn huyện được cấp chủ trương đầu tư rất nhiều nhưng số dự án được triển khai còn rất ít là do công tác thực hiện phương án bồi thường, hỗ trợ, bố trí tái định cư của các dự án mất rất nhiều thời gian (đa số dự án phải mất từ 1 đến 3 năm mới hoàn thành phương án để triển khai công tác chi trả cho người dân); Công tác bàn giao đất ngoài thực địa còn gặp nhiều khó khăn (do các hộ dân tranh chấp, khiếu kiện); một phần do diện tích đất bồi thường giải tỏa chưa xong, công tác phối hợp giữa nhà đầu tư và các cơ quan quản lý nhà nước chưa đồng bộ dẫn đến một số dự án bị người dân lấn chiếm, tái chiếm gây khó khăn cho công việc triển khai dự án…ảnh hưởng đến việc giao đất cho nhà đầu tư thực hiện dự án theo kế hoạch.
4. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
Giá trị sản xuất lĩnh vực nông, lâm, thủy sản 6 tháng đầu năm 2018 (theo giá so sánh 2010) ước tính đạt 28.498,33 tỷ đồng, đạt 48,74% kế hoạch, tăng 11,08% so cùng kỳ năm trước. Trong đó, nông nghiệp 15.268,87 tỷ đồng, đạt 53,10% kế hoạch, tăng 10,53% so cùng kỳ; lâm nghiệp 123,76 tỷ đồng, đạt 45,51% kế hoạch, giảm 4,92% so cùng kỳ; thủy sản 13.105,69 tỷ đồng, đạt 43,58% kế hoạch, tăng 11,90% so cùng kỳ năm 2017.
4.1. Nông nghiệp
* Về trồng trọt: Diện tích gieo trồng chính thức của 2 vụ lúa (vụ Mùa và vụ Đông xuân) 348.568 ha, đạt 101,03% kế hoạch, diện tích thu hoạch 348.568 ha (không có thiệt hại mất trắng), năng suất đạt 6,648 tấn/ha và sản lượng 2.317.392 tấn, đạt 103,00% so kế hoạch của 2 vụ (tăng 67.392 tấn so KH 2 vụ), tăng 19,69% so với năm trước (tăng 381.301 tấn so với 2 vụ năm trước).
Kết quả từng vụ đạt được như sau:
* Vụ Mùa: Kết thúc gieo trồng với diện tích 58.598 ha, đạt 106,54% kế hoạch, tăng 23,54 % so cùng kỳ (tăng 11.166 ha so cùng kỳ); tập trung ở các huyện như: An Biên 15.293 ha, An Minh 22.623 ha,Vĩnh Thuận 11.328 ha, Gò Quao 1.609 ha, U Minh Thượng 7.207 ha và Hà Tiên 538 ha.
Kết quả sản xuất vụ Mùa năng suất gieo trồng bình quân đạt 4,547 tấn/ha, tăng 1,678 tấn/ha so với cùng kỳ, sản lượng 266.418 tấn, tăng 21,10% kế hoạch (tăng 46.418 tấn so KH), tăng 95,39% so với cùng kỳ (tăng 130.640 tấn).
Diện tích, năng suất, sản lượng lúa vụ Mùa năm nay đều tăng với tỷ lệ khá cao so với cùng kỳ năm trước, nguyên nhân do thời tiết thuận lợi mưa nhiều vào thời điểm cuối năm nên ít bị ảnh hưởng của xâm nhập mặn, không có diện tích bị thiệt hại ( mất trắng).
*Vụ Đông xuân:Kết thúc vụ Đông xuân, diện tích gieo trồng 289.970 ha, đạt 99,99% so với kế hoạch, bằng 97,05% so với cùng kỳ tập trung ở các huyện như: Vĩnh Thuận 6.492 ha, U Minh Thượng 7.565 ha, An Biên 9.598 ha, An Minh 100 ha, Giang Thành 29.350 ha, Tân Hiệp 36.655 ha , Hòn Đất 80.329 ha, Rạch Giá 5.554 ha, Châu Thành 19.469 ha,Giồng Riềng 46.716 ha, Gò Quao 25.142 ha và Kiên Lương 23.000 ha. Kết quả sản xuất vụ Đông xuân năng suất gieo trồng bình quân đạt 7,073 tấn/ha, sản lượng đạt 2.050.974 tấn.
Sản xuất lúa vụ Đông xuân năm nay tuy diện tích gieo trồng giảm 2,95% (giảm 8.814 ha), nhưng do thời tiết thuận lợi, lúa ít bị sâu bênh nên năng suất tăng 17,41 % (tăng 10,49 tạ/ha) dẫn đến sản lượng tăng 13,96% (tăng 251.237 tấn) so với vụ Đông xuân năm trước.
Năm nay, giá lúa ở mức từ 5.300 đồng/kg lúa thường đến trên 6.000 đồng/kg lúa chất lượng cao, tăng bình quân 1.000 đồng/kg so với vụ Đông xuân năm 2017, với giá này người nông dân được lãi cao hơn so với mọi năm. Bà con nông dân rất phấn khởi, vui mừng được mùa, được giá.
* Vụ Hè thu (kể cả Xuân hè):Tính đến 30/6/2018 toàn tỉnh xuống giống được 285.000 ha, đạt 101,79% so với kế hoạch, giảm 8,16% so với cùng kỳ. Diện tích thu hoạch được khoảng 95.000 ha, năng suất ước đạt 5,8 tấn/ha.
Diện tích bị nhiễm sâu bệnh trên lúa Hè Thu hơn 7.000 ha, các đối tượng gây hại chủ yếu gồm: Vàng lùn – lùn xoắn lá 5.174 ha, xuất hiện ở các địa phương như: Giồng Riềng, Hòn Đất, Tân Hiệp, Giang Thành, Gò Quao, Châu Thành, trong đó có 413 ha bị nhiễm nặng do xuống giống không tuân thủ theo lịch thời vụ; bệnh Đạo ôn lá 629 ha, Rầy nâu 365 ha, Đạo ôn cổ bông 330 ha, sâu cuốn lá 305 ha…
Hiện nay đang vào mùa mưa, thời tiết diễn biến mưa, nắng xảy ra đan xen có thể ảnh hưởng đến thời kỳ sinh trưởng của cây lúa và sâu bệnh phát sinh. Vì vậy, các ngành chức năng tăng cường tuyên truyền, hướng dẫn bà con nông dân thăm đồng thường xuyên nhằm sớm phát hiện các loại dịch bệnh để có biện pháp phòng trị kịp thời, hiệu quả tránh thiệt hại xảy ra.
* Cây rau màu:Tính từ đầu năm đến nay, trên địa bàn tỉnh nông dân gieo trồng các loại cây màu chủ yếu như Dưa hấu trồng được 870 ha, đạt 60,00% kế hoạch năm, bằng 87,88% so cùng kỳ; khoai lang 750 ha, đạt 46,88% so kế hoạch, tăng 8,70% so cùng kỳ; rau đậu các loại 6.422 ha, đạt 67,60% so kế hoạch, tăng 13,52% so cùng kỳ năm trước...
* Chăn nuôi:Theo kết quả điều tra chăn nuôi 1/4/2018, đàn trâu hiện có 4.641 con, đạt 85,94% kế hoạch, giảm 5,38% so cùng kỳ; Đàn bò 11.650 con, đạt 93,20% kế hoạch, tăng 0,66% so cùng kỳ; Đàn heo hiện có 343.050 con, đạt 98,01% kế hoạch, giảm 0,27% (giảm 940 con) so cùng kỳ; Đàn gia cầm 5.629 ngàn con, đạt 93,82% kế hoạch, giảm 0,05% so với cùng kỳ.
Tổng đàn gia súc, gia cầm của tỉnh so kế hoạch và so với cùng kỳ đều giảm nhẹ, mặc dù giá thịt hơi các loại trên thị trường mấy tháng gần đây đã có chiều hướng tăng lên, nhất là giá thịt heo hơi đã tăng cao hơn từ 10 đến 20 ngàn đồng so với năm trước nhưng bà con nông dân chưa mạnh dạn đầu tư tái đàn vì tính ổn định của thị trường chưa chắc chắn.
Nông thôn mới:Từ đầu năm đến nay đã công nhận 9/11 xã đạt chuẩn nông thôn mới (đạt 81,8% kế hoạch 2018), tính đến nay có 49/118 xã đạt chuẩn nông thôn mới, chiếm 41,50%. Hiện nay vẫn còn 03 huyện chưa có xã đạt chuẩn nông thôn mới (Giang Thành, Kiên Hải, An Minh). Bình quân chung toàn tỉnh đạt 15,4 tiêu chí/xã.
4.2. Lâm nghiệp
Trong 6 Tháng đầu năm đã triển khai các công trình lâm sinh, đã giao khoán bảo vệ rừng được 7.580 ha, khoanh nuôi tái sinh rừng được 100 ha, chăm sóc rừng trồng được 425 ha; phân bổ cây giống và triển khai trồng được 169.832 cây các loại. Tỷ lệ che phủ của rừng đạt 10,96%.
Các ngành chức năng thường xuyên phối hợp với các địa phương tuyên truyền giáo dục, vận động nhân dân tăng cường tuần tra, kiểm soát nhằm bảo vệ rừng. Từ đầu năm đến nay đã xảy ra 02 vụ cháy rừng, với diện tích 8,99 ha. Tuy nhiên các vụ cháy không làm thiệt hại đến rừng. Hiện trạng chủ yếu là trảng năng, cỏ bàng, rừng tràm tái sinh rải rác và kênh mương ở Khu bảo tồn loài-sinh cảnh Phú Mỹ, huyện Giang Thành.
4.3. Thủy sản
Giá trị sản xuất thủy sản(giá so sánh 2010): Tháng 6 ước đạt 3.001,87 tỷ đồng, tăng 12,15% so với tháng trước, tăng 16,01% so với cùng kỳ, bao gồm: giá trị khai thác 1.296,26 tỷ đồng, bằng 99,92% so tháng trước và giá trị nuôi trồng 1.705,61 tỷ đồng, tăng 23,64% so tháng trước.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2018 giá trị sản xuất khai thác và nuôi trồng 13.105,69 tỷ đồng, đạt 44,53% so kế hoạch năm, tăng 11,90% so với cùng kỳ, trong đó giá trị khai thác 7.524,60 tỷ đồng, đạt 47,84% so kế hoạch, tăng 9,06% so cùng kỳ và giá trị nuôi trồng 5.581,09 tỷ đồng, đạt 40,74% kế hoạch, tăng 15,97% so cùng kỳ năm 2017.
Tổng sản lượng thủy sản(Khai thác và nuôi trồng)tháng 6 ước đạt 73.626 tấn, tăng 9,51% so tháng trước. Tính chung 6 tháng đạt 370.150 tấn, đạt 47,21% kế hoạch năm, tăng 7,41% (tăng 25.542 tấn) so cùng kỳ năm 2017.
Sản lượng khai thác:tháng 6 ước tính 50.080 tấn thủy hải sản các loại, bằng 100,62% so tháng trước, tăng 8,54% so cùng kỳ, trong đó cá các loại 37.555 tấn, tăng 1,36% so tháng trước; tôm các loại 2.964 tấn, giảm 5,76%; mực 6.058 tấn, tăng 0,63%; thủy hải sản khác 3.503 tấn, giảm 1,44% so tháng trước.
Tính chung 6 tháng, sản lượng khai thác được 286.718 tấn, đạt 51,75% kế hoạch năm, tăng 6,85% (tăng 18.385 tấn) so cùng kỳ năm trước. Bao gồm cá các loại 213.897 tấn, tăng 9,35% (tăng 18.293 tấn); tôm 17.571 tấn, tăng 0,28% (tăng 49 tấn); mực 35.471 tấn, tăng 4,20% (tăng 1.431 tấn) và thủy sản khác 19.779 tấn, giảm 6,56% (giảm - 1.388 tấn).
Sản lượng nuôi trồng:tháng 6 ước đạt 23.546 tấn, tăng 34,83% so tháng trước (tăng 6.083 tấn). Trong đó: cá nuôi 4.312 tấn, tăng 21,09%; tôm nuôi 9.774 tấn, tăng 13,97% (tăng 1.198 tấn), bao gồm tôm sú đạt 7.103 tấn, tăng 22,04% (tăng 1.283 tấn) và tôm thẻ chân trắng 1.547 tấn, giảm 509 tấn; thủy sản khác 9.460 tấn, tăng 77,62% (tăng 4.134 tấn).
Tính chung 6 tháng, sản lượng nuôi trồng được 83.432 tấn, đạt 36,27% kế hoạch năm, tăng 9,38% (tăng 7.157 tấn) so cùng kỳ năm trước, trong đó: Cá nuôi 22.945 tấn, đạt 36,31% kế hoạch, giảm 2,10% (giảm 491 tấn); tôm các loại 33.344 tấn, đạt 48,32% kế hoạch, tăng 32,03% (tăng 8.089 tấn), trong đó: tôm thẻ chân trắng 9.930 tấn, đạt 56,74% kế hoạch, tăng 2,07 lần (tăng 5.139 tấn)…
Sản lượng nuôi trồng 6 tháng đầu năm tăng 7.157 tấn so với năm trước chủ yếu tăng từ sản lượng tôm nuôi các loại như: tôm sú tăng 2.663 tấn, tôm thẻ chân trắng tăng 5.139 tấn là do năm nay, thời tiết thuận lợi nên các cơ sở nuôi tôm công nghiệp vùng Tứ giác Long Xuyên cũng như các vùng khác trong tỉnh đã tích cực cải tạo, thả giống sớm hơn mọi năm và đã có sản phẩm thu hoạch liên tục từ đầu năm đến nay. Đồng thời, diện tích tôm sú, tôm càng vùng U Minh cũng tăng là do chuyển từ đất tôm lúa sang chuyên tôm, trong đó mô hình nuôi xen kết hợp tôm sú, tôm thẻ, tôm càng xanh đang mang lại hiệu quả rất cao.
Ước tính diện tích thả nuôi 6 tháng đầu năm là 146.250 ha các loại, trong đó diện tích tôm thả nuôi là 118.627 ha, trong đó nuôi tôm công nghiệp 1.759 ha (Hà Tiên 295 ha, Kiên Lương 983 ha, Giang Thành 164 ha, Hòn Đất 280 ha…).
Nhìn chung, sản xuất nông, lâm, thủy sản 6 tháng đầu năm nay tăng trưởng khá và ổn định so cùng kỳ. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi đạt được vẫn còn có khó khăn, do hiện nay diện tích lúa Hè thu nhiễm bệnh vàng lùn – lùn xoắn lá xảy ra trên các địa bàn trong tỉnh và có khả năng tăng diện tích nhiễm bệnh; tình hình thiệt hại tôm nuôi trên địa bàn tỉnh đang có dấu hiệu gia tăng do môi trường bất lợi, dịch bệnh phát sinh và giá tôm nuôi đang giảm mạnh làm ảnh hưởng không nhỏ đến người nuôi tôm.
5. Sản xuất công nghiệp
Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP):Tháng 6 ước tính chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 7,37% so tháng trước, tăng 14,4% so cùng kỳ năm trước. Ngành tăng cao nhất so tháng trước là ngành chế biến, chế tạo tăng 7,53%, trong đó ngành chế biến thực phẩm tăng 10,07%, ngành sản xuất đồ uống tăng 8,39%, ngành sản xuất trang phục tăng 11,70%; kế đến là ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý, xử lý rác thải tăng 7,16%; ngành khai khoáng tăng 6,97%; ngành sản xuất phân phối điện, khí đốt, nước đá tăng 5,54%.
Tính chung 6 tháng, chỉ số sản xuất công nghiệp toàn ngành tăng 9,35% so cùng kỳ, ngành tăng cao là ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý, xử lý rác thải tăng 12,82%; kế đến là ngành chế biến, chế tạo tăng 9,45%, trong đó: ngành sản xuất đồ uống tăng 23,54%, ngành chế biến, bảo quản thủy sản tăng 9,95%, ngành sản xuất xi măng tăng 17,41% ...; ngành sản xuất phân phối điện, khí đốt, nước đá tăng 8,86%; ngành khai khoáng tăng 2,89%.
Giá trị sản xuất công nghiệp(theo giá so sánh 2010): tháng 6 ước tính 3.477,3 tỷ đồng, tăng 7,94% so tháng trước, trong đó: ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 3.354,89 tỷ đồng, chiếm 96,47%/tổng số, tăng 8%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí đạt 64,38 tỷ đồng, tăng 6,97%; ngành khai khoáng đạt 40,8 tỷ đồng, tăng 7,16%; ngành cung cấp nước, xử lý chất thải, nước thải 17,24 tỷ đồng, tăng 1,77%.
Tính chung 6 tháng, giá trị sản xuất công nghiệp toàn ngành ước thực hiện 19.978 tỷ đồng, đạt 43,77% kế hoạch năm, tăng 9,35% so với cùng kỳ, trong đó: ngành công nghiệp chế biến, chế tạo 19.294,84 tỷ đồng, tăng 9,40%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí 343,27 tỷ đồng, tăng 9,00%; ngành khai khoáng 239,87 tỷ đồng, tăng 2,80%; ngành cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải 100,02 tỷ đồng, tăng 18,20% so cùng kỳ.
Một số sản phẩm công nghiệp trong 6 tháng có mức tăng khá cao so cùng kỳ như: xi măng Trung ương đạt 868,5 ngàn tấn, tăng 20,31%; xi măng Địa phương đạt 761 ngàn tấn, tăng 16,54%; cá đông 1,52 ngàn tấn, tăng 11,36%; tôm đông 1,66 ngàn tấn, tăng 8,50%; gạch không nung 3.280 ngàn viên, tăng 68,72%; giày dép 6.000 ngàn đôi, tăng 6,9 lần; Bia các loại 50.000 ngàn lít, tăng 39,02%...Nhìn chung mức sản xuất sản phẩm các ngành công nghiệp 6 tháng đầu năm đạt khá so với kế hoạch cũng như so với cùng kỳ năm trước.
Khó khăn hiện nay trong sản xuất chế biến là thiếu nguyên liệu về chủng loại, cơ cấu để chế biến thủy sản xuất khẩu; một số doanh nghiệp hiện nay phải nhập khẩu nguyên liệu thủy sản với giá cao hơn 5% so với nguyên liệu trong nước, nhằm đáp ứng đơn đặt hàng từ thị trường ngoài nước gia tăng.
Chỉ số tiêu thụtoàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 6 bằng 98,98% so tháng trước, tăng 4,17% so với cùng kỳ năm trước. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ tháng 6 tăng cao so với cùng kỳ năm trước như: Sản xuất đồ uống tăng 62,17%; sản xuất xi măng tăng 10,25%; sản xuất chế biến, bảo quản thủy sản và sản phẩm từ thủy sản tăng 13,03%... Còn lại một ngành có chỉ số tiêu thụ giảm so cùng kỳ đó là sản xuất clinker giảm 41,01%; thủy hải sản ướp đông giảm 26,27%...
Chỉ số tồn khongành công nghiệp chế biến chế tạo dự tính tháng 6 bằng 94,84% so với tháng trước, tăng 36,55% so cùng tháng năm trước. Một số ngành có chỉ số tồn kho giảm thấp hơn cùng kỳ như: sản xuất đồ uống giảm 50%; sản xuất xi măng 47,11%; sản xuất nước mắm bằng 20,83%... Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao như xay xát gạo tăng 75,75%, mực đông tăng 30,83%…
Chỉ số sử dụng lao độngcủa các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 1/06/2018 tăng 49,09% so với thời điểm này năm trước, trong đó lao động khu vực doanh nghiệp nhà nước giảm 2,20%; doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng 77,44% và doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 2,97%.
6. Thương mại, dịch vụ và giá cả
6.1. Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 6 đạt 9.361,6 tỷ đồng, tăng 12,15% so tháng trước, tăng 12,71% so cùng kỳ. Tính chung 6 tháng tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước thực hiện 47.905,65 tỷ đồng, đạt 50,16% kế hoạch năm, tăng 14,65% so cùng kỳ.
Doanh thu 6 tháng đầu năm 2018 trên từng loại hình kinh tế và ngành kinh tế đạt được như sau:
- Kinh tế Nhà nước: Ước thực hiện 1.757,05 tỷ đồng, đạt 70,28% kế hoạch, bằng 75,79% so cùng kỳ;
- Kinh tế ngoài Nhà nước: Ước thực hiện 46.148,59 tỷ đồng, đạt 49,62% kế hoạch, tăng 16,94%;
*Tổng mức bán lẻ hàng hóatháng 6 ước đạt 7.442,79 tỷ đồng, tăng 14,48% so tháng trước, tăng 14,85% so cùng kỳ. Tính chung 6 tháng tổng mức bán lẻ hàng hóa là 35.715 tỷ đồng, đạt 50,09% kế hoạch, tăng 15,54%.
* Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uốngtháng 6 đạt 1.033,62 tỷ đồng, tăng 3,52% so tháng trước. Tính chung 6 tháng dự kiến 6.283,97 tỷ đồng, đạt 50,64% so kế hoạch, tăng 10,02% so cùng kỳ. Bao gồm doanh thu dịch vụ lưu trú 1.855,67 tỷ đồng, tăng 9,79% và doanh thu dịch vụ ăn uống 4.428,3 tỷ đồng, tăng 10,12%.
*Doanh thu du lịch lữ hànhtháng 6 thực hiện 21,80 tỷ đồng, tăng 0,29% so tháng trước. Tính chung 6 tháng doanh thu du lịch lữ hành đạt 138,09 tỷ đồng, đạt 47,62% kế hoạch năm, tăng 64,41% so cùng kỳ năm trước.
*Doanh thu dịch vụ kháctháng 6 ước tính 863,38 tỷ đồng, tăng 4,50% so với tháng trước. Trong đó doanh thu dịch vụ vui chơi giải trí 297,20 tỷ đồng, tăng 2,94%; dịch vụ y tế và trợ giúp xã hội 79,29 tỷ đồng, tăng 2,94%.
Tính chung 6 tháng doanh thu các hoạt động dịch vụ khác đạt 5.768,6 tỷ đồng, đạt 50,16% so kế hoạch năm, tăng 13,69% so cùng kỳ. Trong đó doanh thu dịch vụ kinh doanh bất động sản 1.694,09 tỷ đồng, tăng 8,42%; dịch vụ hành chính và hỗ trợ 209,79 tỷ đồng, tăng 14,54%; dịch vụ nghệ thuật, vui chơi và giải trí 2.950,41 tỷ đồng, tăng 19,62% ....
* Về công tác quản lý thị trường:6 tháng đầu năm 2018, Chi cục Quản lý thị trường tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường, chống buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, hàng kém chất lượng, đã kiểm tra 975 vụ việc, trong đó đã xử lý 172 vụ vi phạm, gồm 64 vụ vi phạm buôn bán vận chuyển hàng cấm, hàng nhập lậu; 17 vụ vi phạm về hàng giả, hàng kém chất lượng; 05 vụ vi phạm về đầu cơ, găm hàng, sai phạm trong lĩnh vực giá; 51 vụ vi phạm trong kinh doanh, 11 vụ vi phạm về vệ sinh an toàn thực phẩm và 24 vụ vi phạm khác. Đã xử lý các vụ vi phạm, thu phạt và bán hàng hóa tịch thu nộp ngân sách nhà nước 4,92 tỷ đồng.
Hoạt động xúc tiến đầu tư, thương mại và du lịchđược đẩy mạnh. Đã tổ chức 06 phiên chợ đưa hàng Việt về nông thôn tại các huyện trên địa bàn tỉnh; tham gia hỗ trợ doanh nghiệp tham dự sự kiện xúc tiến thương mại tại Bắc Mỹ; Hội trợ Thương mại khu vực miền Đông và Tây Nam bộ Phú Quốc – Kiên Giang năm 2018; Phối hợp với Công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ quốc tế TJ tổ chức buổi gặp gỡ các DN, HTX, tổ hợp tác trên địa bàn tỉnh nhằm trao đổi hợp tác thương mại đưa sản phẩm nông sản tỉnh Kiên Giang sang thị trường Hàn Quốc. Kết quả sản phẩm nước mắm và khóm xấy được chọn để xuất khẩu.
6.2. Xuất, nhập khẩu hàng hóa
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩutháng 6 ước đạt 45,05 triệu USD, tăng 0,84% so với tháng trước, trong đó: hàng nông sản 19,33 triệu USD, tăng 3,63%; hàng thủy sản 13,53 triệu USD, giảm 3,12%.
Tính chung 6 tháng, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu đạt 268,9 triệu USD, đạt 51,71% kế hoạch năm, tăng 45,03% so cùng kỳ năm trước. Trong đó: hàng nông sản 117,26 triệu USD, đạt 61,72% kế hoạch năm, tăng 44,66% so cùng kỳ; hàng thủy sản 81,58 triệu USD, đạt 38,85% kế hoạch, tăng 2,00%; hàng hóa khác 69,96 triệu USD, đạt 58,30% kế hoạch, tăng 2,87 lần so cùng kỳ năm trước.
Các mặt hàng xuất khẩu 6 tháng đạt khá so cùng kỳ năm trước như Gạo 226.679 tấn, tăng 34,12%; cá đông 1.311 tấn, tăng 17,68%; thủy sản đông khác 7.140 tấn, tăng 22,53%; Cá cơm sấy 297 tấn, tăng 33,78%; Riêng mặt hàng tôm đông 1.238 tấn, giảm 11,63%; mực, bạch tuộc đông 6.000 tấn, giảm 9,76%.
Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 45,03% so với cùng kỳ là do các mặt hàng xuất khẩu đều tăng về lượng so cùng kỳ, nhất là mặt hàng gạo tăng 34,12% về sản lượng, tăng 51,66% về giá trị (giá bình quân tăng 59 USD/tấn) và được xuất khẩu sang 11 thị trường (tăng 1 thị trường). xuất khẩu thủy sản tăng nhờ các thị trường truyền thống có nhu cầu trở lại. Ngoài ra, sản phẩm giày da xuất khẩu của Công ty cổ phần Giày Thái Bình đạt 4.236 ngàn đôi, tăng gấp 4 lần so cùng kỳ năm trước.
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩutháng 6 ước đạt 12 triệu USD, tăng 40,8% so với tháng trước, tăng 73,79% so cùng kỳ. Tính chung 6 tháng trị giá nhập khẩu ước 37 triệu USD, đạt 74,00% kế hoạch năm, giảm 1,13% so cùng kỳ. Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là nguyên liệu dùng cho sản xuất, lượng nhập trong 6 tháng gồm: thạch cao 93,7 ngàn tấn, tăng 11,95% so cùng kỳ; giấy Kratp 110 tấn, giảm 8,33% ; hạt nhựa 426 tấn, tăng 20,00%.
Theo Sở Công Thương: Việc cảnh báo của Ủy ban Châu Âu về chống khai thác hải sản bất hợp pháp dẫn đến giá xuất khẩu hầu hết các mặt hàng hải sản khai thác đều giảm so cùng kỳ như: Cá đông giảm 0,7 USD/Kg; Mực và Bạch tuộc đông giảm 0,4 USD/Kg; Riêng mặt hàng Tôm đông giảm 1,4 USD/Kg là do cạnh tranh giá xuất khẩu với các nước Ấn Độ, Băng –la –đet (do các nước này trúng mùa nên giá nguyên liệu giảm).
6.3. Chỉ số giá:
Chỉ số giá tiêu dùng(CPI) tháng Sáu tăng 0,39% so với tháng trước, trong đó: Khu vực thành thị tăng 0,41%, khu vực nông thôn tăng 0,38%. CPI tháng 06 tăng nhẹ là do có 4 nhóm hàng tăng, trong đó tăng cao nhất là nhóm hàng nhà ở, điện nước, chất đốt và VLXD tăng 1,51%, nhóm hàng giao thông tăng 1,18%, nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,32%, nhóm hàng văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,28%. Còn lại các nhóm hàng khác không tăng, không giảm hoặc tăng không đáng kể.
Tính đến tháng 12 năm trước (sau 06 tháng) chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng 4,04%; Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính, có 8 nhóm tăng, trong đó tăng cao nhất là nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 37,85%; kế đến là nhóm Giao thông tăng 6,01%; nhóm Văn hóa giải trí và du lịch tăng 5,13%; nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và VLXD tăng 4,83%; nhóm ăn uống và dịch vụ ăn uống tăng 0,99%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,26%... Còn lại các nhóm khác không tăng, không giảm, hoặc tăng không đáng kể.
* Chỉ số giá vàng:Giảm -1,62% so tháng trước, so cùng tháng năm trước tăng 3,81%. Giá vàng bình quân tháng 06/2018 là 3.585.000 đồng/chỉ, giảm 59.000 đồng/chỉ so với tháng trước.
* Chỉ số giá Đô la Mỹ:Tăng 0,46% so tháng trước, so với cùng tháng năm trước tăng 1,06%. Giá USD bình quân tháng 06/2018 là 22.979 đồng/1 USD, tăng 105 đồng/1 USD so với tháng 5/2018.
6.4 Vận tải
Vận tải hành khách:Tháng 6 ước tính 6,89 triệu lượt khách, giảm 1,82% so tháng trước; luân chuyển 423,11 triệu HK.km, giảm 0,24% so tháng trước. Tính chung 6 tháng vận tải hành khách ước đạt 39,71 triệu lượt khách, đạt 47,45% kế hoạch, tăng 5,51% so cùng kỳ năm trước; Luân chuyển 2.637,13 triệu HK.km, đạt 53,92% kế hoạch, tăng 1,30%. Bao gồm vận tải hành khách đường bộ 32,27 triệu lượt khách, tăng 6,26% so cùng kỳ; luân chuyển 2.112,39 triệu lượt khách.km, tăng 1,40%; vận tải hành khách đường sông 6,25 triệu lượt khách, tăng 2,27%; Luân chuyển 394,85 triệu lượt khách.km, tăng 1,12%; Vận tải hành khách đường biển 1,18 triệu lượt khách, tăng 2,78%; Luân chuyển 129,88 triệu lượt khách.km, tăng 0,23% so cùng kỳ năm trước.
Vận tải hàng hóa:Tháng Sáu vận tải hàng hóa ước tính 907 ngàn tấn, giảm 1,52% so tháng trước; luân chuyển 121,19 triệu tấn.km, giảm 0,77% so tháng trước. Tính chung 6 tháng vận tải hàng hóa ước tính 5,56 triệu tấn, đạt 47,33% kế hoạch năm, tăng 7,91% so cùng kỳ năm trước; Luân chuyển 741,69 triệu tấn.km, đạt 46,48% kế hoạch, tăng 7,86%. Gồm vận tải hàng hóa đường bộ 1,75 triệu tấn, tăng 8,80% so cùng kỳ; luân chuyển 238,51 triệu tấn.km, tăng 9,43%; Vận tải hàng hóa đường sông 2,19 triệu tấn, tăng 4,78%; luân chuyển 275,01 triệu tấn.km, tăng 4,84% so với cùng kỳ; vận tải hàng hóa đường biển 1,61 triệu tấn, tăng 11,44%; luân chuyển 228,17 triệu tấn.km, tăng 10,03% so cùng kỳ năm trước.
Trong 6 tháng doanh thu vận tải thực hiện trên 5.524,41 tỷ đồng, tăng 9,58% so cùng kỳ năm trước. Đã triển khai xây dựng được 177,62 Km/382 Km đường giao thông nông thôn, đạt 46,5% kế hoạch năm, nâng tổng số Km đường giao thôn nông thôn trên địa bàn tỉnh đến nay là 5.377,62 Km/7.084 Km đạt 75,91%.
6.5. Bưu chính - Viễn thông
6 tháng đầu năm 2018, hoạt động Bưu chính, Viễn thông đáp ứng tốt nhu cầu thông tin liên lạc phục vụ các cấp, các ngành cũng như cho mọi tầng lớp nhân dân trong tỉnh. Ước tính tổng doanh thu bưu chính và viễn thông 6 tháng được 1.268 tỷ đồng, đạt 50,36% kế hoạch, tăng 5,67% so cùng kỳ. Trong đó doanh thu viễn thông ước tính 1.150 tỷ đồng, đạt 50,04%, tăng 2,68%; doanh thu bưu chính được 118 tỷ đồng, đạt 53,64% so kế hoạch năm, tăng 47,50%.
Trên địa bàn tỉnh hiện có 06 doanh nghiệp hoạt động về lĩnh vực viễn thông (có 5 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ thông tin di động); 11 doanh nghiệp cung ứng dịch vụ bưu chính, chuyển phát. Số lượng trạm thu phát sóng thông tin di động (BTS) có 2.085 cột anten, trong đó 1.482 trạm 2G; 2.011 trạm 3G; 1.185 trạm 4G.
Về bưu chính: Có 190 điểm phục vụ (trong đó 01 Bưu cục cấp I; 14 bưu cục cấp II; 29 bưu cục cấp III; 02 Kiốt; 131 điểm BĐ-VHX; 13 thùng thư công cộng).
Phát hành báo trung ương 597.867 tờ/cuốn; báo địa phương 1.040.458 tờ; phát hành báo chí công ích 1.339.853 tờ.
Về viễn thông: Số thuê bao hiện có trên mạng 1.819.353 thuê bao. Trong đó Thuê bao điện thoại cố định 57.380 thuê bao (giảm 13,07% so với năm 2017); thuê bao điện thoại di động 1.761.973 (giảm 3,05% so với năm 2017); mật độ thuê bao điện thoại 103,6 thuê bao/100 dân. Tổng số thuê bao Internet hiện có trên mạng 182.050 thuê bao (tăng 20,9% so với năm 2017).
6.6. Du lịch
Tổng lượt khách du lịch tháng Sáu ước tính 665,21 ngàn lượt khách, tăng 8,23% so tháng trước. Trong đó lượt khách đến các cơ sở kinh doanh du lịch đạt 311,36 ngàn lượt khách, tăng 3,69%; số khách quốc tế 33,43 ngàn lượt khách, tăng 3,31%. Khách đến các cơ sở kinh doanh du lịch bao gồm: số lượt khách từ cơ sở lưu trú du lịch phục vụ đạt 293,95 ngàn lượt khách, tăng 3,81%; khách du lịch đi theo tour đạt 17,41 ngàn lượt khách, tăng 1,67% so tháng trước.
Tính chung 6 tháng, tổng lượt khách du lịch đạt 3.837,88 ngàn lượt khách, đạt 54,05% kế hoạch, tăng 21,18% so cùng kỳ. Trong đó lượt khách đến các cơ sở kinh doanh du lịch 1.622,86 ngàn lượt khách, đạt 51,52% kế hoạch, tăng 17,49%. Trong đó: Số khách quốc tế 308,58 ngàn lượt khách, đạt 71,76% kế hoạch, tăng 59,80%; khách du lịch đi theo tour đạt 87,13 ngàn lượt khách, đạt 42,50% kế hoạch, tăng 26,52%.
Trong 6 tháng đầu năm nay, số khách du lịch đến tỉnh tăng chủ yếu từ một số tuyến du lịch trên các tuyến biển thuộc các xã đảo ở 2 huyện Kiên Hải, Kiên Lương và huyện đảo Phú Quốc. Tuy nhiên, công tác quản lý nhà nước về du lịch tại một số địa phương còn nhiều bất cập, nhận thức của các doanh nghiệp, hộ kinh doanh về chấp hành các quy định của pháp luật đối với hoạt động du lịch còn nhiều hạn chế, tình trạng tăng giá, đeo bám khách, kinh doanh mất vệ sinh… vẫn thường xảy ra, nhất là trong những dịp lễ, tết đã làm ảnh hưởng đến tình hình kinh doanh trong lĩnh vực du lịch trên địa bàn trong thời gian qua.
7. Một số tình hình xã hội
7.1.Tình hình đời sống dân cư: Trong 6 tháng đầu năm, tình hình sản xuất nông lâm ngư nghiệp có nhiều thuận lợi, năng suất, sản lượng đều tăng hơn năm trước nên đời sống của các tầng lớp dân cư trong tỉnh ổn định và tăng khá hơn. Công tác an sinh xã hội và các chính sách hỗ trợ người nghèo, người có công và các đối tượng chính sách khác được các ngành, các cấp quan tâm hỗ trợ kịp thời.
Nguồn hàng hóa trước trong và sau tết Mậu Tuất trên địa bàn tỉnh khá dồi dào, phong phú, giá cả hợp lý, sức mua tăng cao đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân; Giá cả các mặt hàng tiêu dùng và dịch vụ tuy có tăng nhưng không đột biến, không làm ảnh hưởng đến sức mua của bà con.
Tình hình sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp có chiều hướng phát triển hơn, có nhiều doanh nghiệp thành lập mới hoặc quay trở lại kinh doanh tạo thêm công việc cho người lao động phổ thông, lương chi trả cho công nhân cũng khá hơn so với các năm trước. Tuy nhiên bên cạnh đó, vẫn còn một bộ phận công nhân người lao động còn gặp nhiều khó khăn, cần được giúp đỡ về đời sống vật chất cũng như đời sống tinh thần để họ an tâm lao động sản xuất.
7.2. Lao động, việc làm
Sáu tháng đầu năm 2018 toàn tỉnh đã giải quyết việc làm cho 19.972 lượt người, đạt 57,06% kế hoạch, tăng 15,21% so năm trước, trong đó giải quyết việc làm trong tỉnh 9.362 lượt người; ngoài tỉnh 10.554 lượt người, xuất khẩu lao động 56 người. Giải quyết trợ cấp Bảo hiểm thất nghiệp cho 13.632 lao động. Tổ chức 03 phiên giao dịch việc làm năm 2018.
Trong 6 tháng đầu năm các cơ sở đào tạo nghề tổ chức đào tạo nghề cho 11.550 người, đạt 46,2% kế hoạch, trong đó: Cao đẳng 189 người, Trung cấp nghề 31 người, sơ cấp nghề và dạy nghề dưới 3 tháng 11.330 người.
7.3. Về chính sách an sinh xã hội
Công tác giảm nghèo:Theo kết quả điều tra hộ nghèo, cận nghèo tháng 10 năm 2017, toàn tỉnh còn 26.833 hộ nghèo chiếm tỷ lệ 6,20%, hộ cận nghèo còn 20.781 hộ chiếm tỷ lệ 4,80% (Tỷ lệ hộ nghèo theo tiêu chí tiếp cận đa chiều).
Các cấp uỷ Đảng, Chính quyền, Đoàn thể các địa phương trong tỉnh đã vận động doanh nghiệp và trích ngân sách hỗ trợ quà tết các hộ nghèo, hộ cận nghèo theo thu nhập đa chiều, nhân dịp tết Nguyên đán Mậu Tuất năm 2018 với tổng số trên 53 ngàn suất quà, tổng trị giá 53,79 tỷ đồng (ngân sách nhà nước hỗ trợ 33,52 tỷ đồng và nguồn vận động xã hội 20,27 tỷ đồng).
Bảo trợ xã hội:Trong 6 tháng đầu năm ước chi trả trợ cấp xã hội cho đối tượng bảo trợ xã hội 50.841 người, với tổng kinh phí 134 tỷ 994 triệu đồng.
Tổ chức các hoạt động thăm tặng quà chăm lo cho trẻ em nhân dịp tết Nguyên đán năm 2018, toàn tỉnh, thăm tặng quà, tiền mặt với tổng kinh phí trên 3 tỷ 409 triệu đồng, có 8.730 trẻ em được tặng quà, tiền, học bổng.
Thực hiện chính sách với người có công:Tỉnh ủy, UBND tỉnh đã tổ chức Lễ phong tặng, truy tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước Mẹ Việt Nam anh hùng đợt VIII/2018 có 74 mẹ (trong đó, phong tặng 02 mẹ; truy tặng 72 mẹ) và Lễ trao tặng 43 Huân chương Độc lập cho các gia đình có nhiều liệt sĩ hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Trong 6 tháng đầu năm thực hiện xác lập, thẩm định hồ sơ người có công 1.235 hồ sơ. Triển khai xây dựng và sửa chữa nhà ở cho người có công với cách mạng trên địa bàn tỉnh được 572/4.041 căn nhà đạt 14,15% so KH (xây mới 299/2.459 căn; sửa chữa 273/1.582 căn), giải ngân vốn 12.570 triệu đồng.
7.4. Tình hình Giáo dục
Năm học 2017-2018 đã kết thúc, toàn tỉnh hiện có 670 trường, giảm 01 trường so với năm học trước, (bao gồm 155 trường mầm non, tăng 01 trường; Tiểu học 294 trường, giảm 02 trường; Trung học cơ sở 123 trường, giảm 01 trường; Phổ thông cơ sở 46 trường, tăng 01 trường; Trung học phổ thông 52 trường, không tăng giảm); học sinh huy động đến trường được 342.317 học sinh, tăng 6.511 học sinh, trong đó giáo dục mầm non tăng 4.383 học sinh; tổng số giáo viên 18.847 người, tăng 0,43%, tăng 80 giáo viên so năm học trước, trong đó giáo dục mầm non tăng 188 giáo viên; bậc tiểu học giảm 38 giáo viên; bậc trung học cơ sở, giảm 44 giáo viên và bậc trung học phổ thông giảm 26 giáo viên.
Toàn tỉnh có 232 trường đạt chuẩn quốc gia (MN 46, TH 123, THCS 60, THPT 03), đạt tỷ lệ 34,52%, tăng 31 trường so với năm học trước. Có 602 đơn vị, trường học đạt chuẩn Xanh – Sạch – Đẹp và An toàn, đạt tỷ lệ 87,75% so với tổng số toàn tỉnh.
Hiện có 145/145 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi (gồm 40 xã đạt mức độ 2 và 105 xã đạt mức độ 3).
7.5. Hoạt động Văn hóa, Thể thao
Trong 6 tháng đầu năm 2018, tổ chức tốt các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể thao phục vụ kỷ niệm các ngày lễ lớn, các sự kiện chính trị quan trọng, đảm bảo nội dung tư tưởng và chất lượng nghệ thuật được nâng lên, có ý nghĩa thiết thực như Lễ hội đón Giao thừa tết Nguyên đán Mậu Tuất 2018 trên địa bàn thành phố Rạch Giá, thị xã Hà Tiên, huyện Phú Quốc và An Minh; Lễ kỷ niệm 56 năm ngày hy sinh của AHLLVTND Phan Thị Ràng (09/01/1962 - 09/01/2018) tại huyện Hòn Đất; kỷ niệm 282 năm Ngày thành lập Tao đàn Chiêu Anh Các (1736 - 2018) tại thị xã Hà Tiên; kỷ niệm 88 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930 - 03/02/2018); kỷ niệm 43 năm Ngày Giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2018); Lễ giỗ Quốc tổ Hùng Vương - Lễ hội Đền Hùng năm 2018 tại huyện Tân Hiệp; Tết cổ truyền Chôl - Chnăm - Thmây của đồng bào dân tộc Khmer; kỷ niệm 17 năm Ngày Gia đình Việt Nam (28/6/2001 - 28/6/2018) và Tháng hành động quốc gia PCBLGĐ năm 2018… Đồng thời, chỉ đạo tổ chức lễ hội đầu năm tại các di tích lịch sử văn hóa, các di tích có cơ sở tôn giáo đảm bảo an toàn, trang trọng, đáp ứng tốt nhu cầu văn hóa tâm linh của nhân dân.
Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc:Tổ chức trưng bày tại Bảo tàng tỉnh phục vụ 4.932 lượt khách tham quan, trong đó có 208 lượt khách nước ngoài; trưng bày lưu động 02 cuộc tại huyện Hòn Đất, Tân Hiệp, thu hút 16.000 lượt khách tham quan. Sưu tầm được 16 hình ảnh, tư liệu bổ sung; 03 hiện vật văn hóa Óc Eo; 300 hình ảnh, tư liệu về tín ngưỡng Hùng Vương. Hoàn chỉnh hồ sơ lý lịch gốm Hòn Dầm (phân loại, khảo tả, đo đạc) được 800 hiện vật.
Thư viện:Hệ thống thư viện công cộng được củng cố và duy trì hoạt động thường xuyên; tổ chức nhiều hoạt động nhân Ngày Sách Việt Nam (21/4) và hưởng ứng Ngày Sách và bản quyền thế giới (23/4). Thư viện tỉnh bổ sung 15.822 bản sách, 48 loại báo, tạp chí mới và đưa 61.632 lượt sách báo, tạp chí phục vụ 40.301 lượt bạn đọc (tăng 115,90% so với cùng kỳ, đạt 93,42% so với kế hoạch năm).Tổ chức 14 cuộc trưng bày, giới thiệu sách mới, sách chuyên đề nhân kỷ niệm các ngày lễ lớn; Tổ chức khai mạc Ngày Sách Việt Nam lần thứ 5 và hưởng ứng Ngày Sách và bản quyền thế giới (23/4) tại Thư viện tỉnh với chủ đề“Sách và Gia đình”(từ ngày 20/4 - 22/4/2018), gồm 14 đơn vị tham gia với 22 gian hàng, trưng bày hơn 120.000 bản sách các loại, thu hút hơn 10.000 lượt khách tham quan.
Thể thao thành tích cao: Phối hợp tổ chức 02 giải thể thao khu vực, toàn quốc và quốc tế như: Giải Xe đạp toàn quốc tranh Cúp Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ 30 năm 2018 (đón và đưa Đoàn đua thi đấu chặng 28 và 29), thu hút gần 10.000 lượt người xem và cổ vũ; Giải Tour xe đạp toàn quốc về nông thôn tranh Cúp Gạo Hạt Ngọc Trời năm 2018 (khai mạc tại huyện Phú Quốc, đón và đưa Đoàn đua thi đấu chặng 1, 2 và 3), thu hút gần 10.000 lượt người xem và cổ vũ.
Tập trung lực lượng vận động viên tham dự, thi đấu thành công 12 giải thể thao khu vực, toàn quốc và quốc tế, đạt 33 huy chương (11 HCV, 11 HCB và11 HCĐ), có 05 vận động viên đạt đẳng cấp thế giới; nổi bật là tham gia Giải Vô địch Cúp các Câu lạc bộ Boxing toàn quốc năm 2018 (đạt 01 HCV), Giải Cờ vua toàn quốc - Tranh cúp LienVietPostBank năm 2018 (đạt 01 HCB), Giải Rowing và Canoeing vô địch các CLB toàn quốc (đạt 01 HCĐ), Giải Điền kinh Cúp tốc độ Thống nhất Thành phố Hồ Chí Minh (đạt 01 HCV, 02 HCB và 02 HCĐ).
Thể dục thể thao quần chúng:100% xã, phường, thị trấn thuộc huyện, thị xã, thành phố tổ chức thành công Đại hội Thể dục Thể thao cấp huyện và cấp xã. Tổ chức thành công Đại hội Thể dục thể thao tỉnh Kiên Giang, lần thứ VIII năm 2018.Tính đến ngày 15/5/2018, đã tổ chức 11/18 môn thể thao trong khuôn khổ Đại hội (tính đến ngày 30/6/2018 sẽ tổ chức 14/18 môn); thu hút trên 30.000 lượt người đến xem và cổ vũ. Kết quả hiện tại: Đối với Khối các huyện, thị xã, thành phố: Gò Quao hạng nhất (21 HCV, 08 HCB và 04 HCĐ), Châu Thành hạng nhì (16 HCV, 06 HCB và 07 HCĐ), Rạch Giá hạng ba (10 HCV, 15 HCB và 11 HCĐ); Khối các cơ quan, doanh nghiệp: Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh hạng nhất (01 HCV và 01 HCB), Công an tỉnh hạng nhì (05 HCB và 05 HCĐ).
Thường xuyên đẩy mạnh cuộc vận động“Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại”với nhiệm vụ trọng tâm là tổ chức Ngày chạy Olympic vì sức khỏe toàn dân tỉnh Kiên Giang năm 2018, có 143/145 xã, phường, thị trấn trong toàn tỉnh đồng loạt triển khai Ngày chạy Olympic vì sức khỏe toàn dân tỉnh Kiên Giang năm 2018, với 124.200/1.792.594 số dân toàn tỉnh tham gia (đạt 6,92%, tăng 0,06% so với năm 2017); trung bình mỗi xã, phường, thị trấn có 869 người tham gia, chạy cự ly tối thiểu từ 500m đến 01km; riêng 02 xã đảo Nam Du thuộc huyện Kiên Hải và Hòn Thơm, huyện Phú Quốc do điều kiện khó khăn về đường chạy, huy động đối tượng tham gia... nên không thể tổ chức.
7.6 Tình hình y tế
Trong 6 tháng, các cơ sở y tế trong tỉnh đã khám và điều trị cho 2.485.888 lượt, đạt 55,24% kế hoạch; điều trị nội trú 131.736 bệnh nhân, đạt 57,28% kế hoạch. Tỷ lệ khỏi bệnh 85,64%, tỷ lệ tử vong 0,13%. Công suất sử dụng giường bệnh chung là 87,19%. Tỷ lệ BN được khám chữa bệnh bằng YHCT đạt 13,67%.
So với cùng kỳ, số lượt khám bệnh tăng 103.849 lượt, điều trị nội trú tăng 12.251 bệnh nhân; công suất giường bệnh tăng 1,57%; Tỷ lệ khám chữa bệnh bằng YHCT giảm 0,23%.
Tình hình dịch bệnh trong tháng (từ ngày 16/05/2018 – 15/06/2018)
Bệnh Sốt xuất huyết:trong tháng toàn tỉnh ghi nhận có 221 cas mắc, tăng 123 cas so với tháng trước. Tích lũy từ đầu năm đến nay là 617 cas mắc, không có tử vong; so với cùng kỳ năm 2017 tăng 151 cas.
Bệnh Tay Chân Miệngcó 33 cas mắc, giảm 10 cas so với tháng trước. Tích lũy số mắc từ đầu năm đến nay 200 cas mắc, không có tử vong; so với cùng kỳ năm 2017 giảm 309 cas.
Các bệnh truyền nhiễm kháccó xu hướng giảm mạnh cụ thể: Số cas mắc trong tháng/lũy kế từ đầu năm như sau: Tả (0/0), Thương hàn (6/36), Viêm não virus (1/9), Viêm màng não do NMC (0/0), Cúm A H5N1 (0), Sởi (0).
Chương trình phòng chống HIV/AIDS:Trong tháng thực hiện xét nghiệm 6.548 mẫu máu, phát hiện mới 15 cas HIV dương tính, tính chung từ đầu năm đã phát hiện mới 70 cas. Trong tháng, điều trị ARV cho 28 bệnh nhân HIV/AIDS, trong đó có 01 trẻ em dưới 15 tuổi. Tích lũy số bệnh nhân điều trị ARV là 1.597 người, trong đó có 94 trẻ dưới 15 tuổi. Tính đến thời điểm báo cáo, số người còn sống ở địa phương nhiễm HIV là 2.581 người, trong giai đoạn AIDS là 1.664 người. Số người điều trị Methadone mới trong tháng là 08 người, lũy kế có 105 người đang điều trị.
Phòng, chống các bệnh xã hội và bệnh nguy hiểm cho cộng đồng
Trong tháng phát hiện 0 BN phong, phát hiện mới 225 BN lao, 01 BN tâm thần phân liệt và 02 BN động kinh, Lũy kế từ đầu năm phát hiện 02 BN phong, 1265 BN lao, 20 BN tâm thần phân liệt và 21 BN động kinh. Số quản lý đến nay là 406 BN phong, 3.947 BN lao, 2.175 BN tâm thần phân liệt và 2.712 BN động kinh. Điều trị khỏi bệnh 184 BN lao, tính chung từ đầu năm số điều trị khỏi bệnh lao là 1.169 người.
Từ đầu năm đến nay, ngành y tế đã phối hợp với các ngành, cơ quan chức năng chủ động kiểm soát chặt chẽ tình hình dịch bệnh, khống chế kịp thời không để dịch bệnh xảy ra trên diện rộng; cải tiến các quy trình khám, chữa bệnh…nên chất lượng khám chữa bệnh tiếp tục được nâng lên. Tỷ lệ người tham gia BHYT ước 6 tháng đầu năm 2018 đạt 83,14% (KH năm 2018 là 84%).
7.7. Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm
Tính từ đầu năm đến nay đã thực hiện thanh tra, kiểm tra 9.471 cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống, phát hiện 1.530 cơ sở chưa đảm bảo VSATTP, qua đó nhắc nhở 1.387 cơ sở và hướng dẫn cho các cơ sở hoàn thành tốt việc đảm bảo an toàn thực phẩm tại cơ sở và xử lý 143 cơ sở gồm cảnh cáo 26 cơ sở, cam kết 93 cơ sở và phạt tiền 24 cơ sở với tổng số tiền phạt 32.300 ngàn đồng. Bên cạnh đó còn phạt phụ với hình thức tiêu hủy sản phẩm tại chỗ với số lượng 75 loại bằng 1.215,6kg.
Xảy ra 01 vụ ngộ độc thực phẩm tại hộ gia đình ông Nguyễn Văn Phúc, Tổ 1, ấp Trung Đoàn, xã An Minh Bắc, huyện U Minh Thượng với 10 người mắc, 2 người nhập viện, tử vong 01 người (cùng kỳ 2017 không có vụ ngộ độc thực phẩm nào). Ghi nhận có 92 cas ngộ độc thực phẩm mắc lẻ (giảm 08 cas so với cùng kỳ), không có tử vong (chủ yếu là ngộ độc rượu).
7.8. Tình hình an toàn giao thông
Theo Ban An toàn Giao Thông tỉnh từ ngày 16/05/2018 đến 15/06/2018. Toàn tỉnh xảy ra 18 vụ tai nạn giao thông, làm 10 người chết, 11 người bị thương. Trong đó số vụ TNGT nghiêm trọng là 12 vụ, làm 10 người chết và 05 người bị thương. So với tháng trước Số vụ tai nạn giao thông tăng 02 vụ, giảm 03 người chết, tăng 03 người bị thương. Trong đó số vụ TNGT nghiêm trọng giảm 01 vụ, giảm 03 người chết, tăng 01 người bị thương.
Trong 6 tháng đầu năm (từ 16/12/2017 đến 15/06/2018) trên toàn tỉnh xảy ra 109 vụ tai nạn giao thông, làm 76 người chết, 68 người bị thương. Trong đó số vụ TNGT nghiêm trọng 83 vụ, 76 người chết, 40 người bị thương. So với cùng thời điểm năm trước, giảm 05 vụ TNGT, tăng 20 người chết, giảm 14 người bị thương. Trong đó số vụ TNGT nghiêm trọng giảm 02 vụ, giảm 20 người chết và giảm 10 người bị thương.
Tình hình tai nạn giao thông từ đầu năm đến nay tuy có giảm số vụ, nhưng lại tăng số vụ tai nạn rất nghiêm trọng (02 vụ, 06 người chết), dẫn đến số người chết tăng rất cao (tăng 20 người) so với năm 2017, nguyên nhân chủ yếu là do ý thức của một số người khi tham gia giao thông không tuân thủ quy định an toàn giao thông như lấn đường, sử dụng rượu bia, không chú ý quan sát…các ngành chức năng cần tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền kết hợp với thường xuyên tuần tra, kiểm soát trên các tuyến đường Quốc lộ nhằm nâng cao ý thức tự giác chấp hành luật lệ khi tham gia giao thông của người dân hơn nữa để phòng ngừa và giảm thiểu tai nạn giao thông trong thời gian tới.
7.9. Tình hình cháy, nổ và thiên tai
Tình hình cháy nổ:Từ ngày 16/05/2018 đến 15/06/2018 toàn tỉnh xảy ra 03 vụ cháy nhưng không thiệt hại về người (huyện Châu Thành 01 vụ, Phú Quốc 01 vụ, Giang Thành 01 vụ), nguyên nhân do sự cố điện và bất cẩn khi dùng lửa, không có vụ nổ nào xảy ra. Ước thiệt hại khoảng 570 triệu đồng.
Tính chung 6 tháng đầu năm trên địa bàn tỉnh xảy ra 19 vụ cháy, 01 vụ nổ, làm 02 người thiệt mạng, không có người bị thương. Thiệt hại ước tính lũy kế 4 tỷ 645 triệu đồng.
Tình hình thiên tai:Từ ngày 16/5 đến 15/6/2018, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra những cơn mưa giông gió lớn, kèm lốc xoáy đã làm sập 25 căn nhà (Giang thành 2 căn, Kiên lương 01, An Biên 09, An Minh 10, U Minh Thượng 03)và tốc mái 53 căn nhà, trong đó huyện Giang Thành lốc làm tốc mái một trụ sở ấp. Ứớc thiệt hại 1.030 triệu đồng.
Tính từ đầu năm đến nay, thiên tai đã làm 01 phương tiện bị chìm, 01 người chết, 01 người bị thương, sập 35 căn nhà, tốc mái 66 căn nhà, ước thiệt hại về vật chất là 1.390 triệu đồng. Ngoài ra, do giông lốc làm hư hỏng 14 lồng bè nuôi cá, 2 chiếc ghe, 2 chiếc xuồng và 01 giàn lưới đánh bắt hải sản. Ước thiệt hại 1.203 triệu đồng. Các cấp chính quyền đã kịp thời đến thăm hỏi, động viên và hỗ trợ tiền và hiện vật cho những gia đình bị nạn để bà con khắc phục khó khăn trước mắt, ổn định cuộc sống.
8. Nhận xét, kiến nghị.
Thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm 2018 của tỉnh bên cạnh kết quả đạt được, vẫn còn không ít khó khăn: tình hình thời tiết từng lúc diễn biến phức tạp, vốn đầu tư giải ngân thấp, ngành công nghiệp chế biến còn gặp khó khăn do thiếu nguyên liệu cho sản xuất, giá một số mặt hàng nông sản sụt giảm...
Tăng trưởng kinh tế 6 tháng đầu năm 2018 (GRDP) tăng 8,52% (Đứng thứ 2/13 tỉnh ĐBSCL sau Long An). Nhìn tổng thể tăng trưởng có cao hơn, nhưng tổng sản phẩm trong tỉnh (GRDP) so với KH vẫn còn thấp hơn cùng kỳ năm trước (6 tháng 2018 tổng GRDP đạt 45,63% KH, 6 tháng 2017 đạt 47,38% (giảm 1,75%). Cho nên, tăng trưởng kinh tế ở 6 tháng ĐN 2018 chưa thật sự ổn định và vững chắc. Vì vậy, UBND tỉnh cần phải tập trung chỉ đạo để đạt KH cao hơn và đảm bảo thực hiện tốt các chỉ tiêu mà Nghị quyết HĐND tỉnh đã đề ra trong năm 2018.
Cục Thống kê xin kiến nghị một số vấn đề như sau:
1. Trong lĩnh vực nông nghiệp, năm nay sản xuất lúa trên 2 vụ Đông Xuân và vụ mùa năng suất và sản lượng đều đạt so với kế hoạch và tăng cao hơn năm trước là do thời tiết năm nay diễn ra thuận lợi. Tuy nhiên, các cơ quan chức năng cần phải tăng cường công tác theo dõi, dự báo tình hình mưa bão, quản lý vận hành hệ thống cống kiểm soát lũ, ngăn mặn, giữ ngọt phục vụ sản xuất. Tăng cường công tác quản lý giống các loại, tuyên truyền vận động khuyến cáo người dân trồng lúa tăng diện tích sản xuất giống lúa chất lượng cao trong từng vụ sản xuất để nâng cao sản lượng lúa hàng hóa xuất khẩu. Kết hợp chỉ đạo sản xuất theo mô hình cánh đồng lớn theo hướng hợp tác, liên kết sản xuất gắn với bao tiêu sản phẩm, đẩy mạnh phát triển sản xuất rau màu, cây công nghiệp tạo nguồn nguyên liệu phục vụ chế biến và xuất khẩu, góp phần tăng thu nhập cho người nông dân.
Tập trung chỉ đạo sản xuất vụ lúa Hè Thu (kể cả vụ Xuân Hè) và vụ Thu đông đạt kế hoạch về năng suất, sản lượng góp phần làm đạt và vượt giá trị sản xuất ngành nông nghiệp so kế hoạch đã đề ra.
2. Về lĩnh vực thủy sản:Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát chất lượng nguồn giống thủy sản, nhất là giống tôm nuôi để có kế hoạch chỉ đạo sản xuất hợp lý, kịp thời và hiệu quả. Thực hiện tốt công tác quan trắc môi trường, cập nhật thông tin tình hình dịch bệnh tôm nuôi để cảnh báo trên các phương tiện thông tin đại chúng; khuyến khích, hướng dẫn các cơ sở thực hiện nuôi tôm nước lợ áp dụng tiêu chuẩn VietGAP và các tiêu chuẩn quốc tế khác theo yêu cầu của thị trường. Đồng thời, tích cực tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc nhằm hỗ trợ kịp thời và vận động các doanh nghiệp người dân tăng thêm diện tích nuôi tôm công nghiệp. Tăng cường quản lý tốt ngư trường kịp thời ngăn chặn và xử lý các vi phạm quy định quản lý khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản ở vùng biển ven bờ, khuyến khích đầu tư phát triển một số nghề khai thác thủy sản mang lại hiệu quả kinh tế cao như lưới rê, lưới vây, chụp mực...nhằm tăng tỷ lệ sản phẩm khai thác có giá trị cao và góp phần thực hiện tốt về công tác phát triển và bảo vệ nguồn lợi thủy sản. Các ban, ngành chức năng có liên quan tăng cường công tác tuyên truyền, vận động ngư dân khai thác hải sản trên địa bàn tỉnh thực hiện nghiêm quy trình đánh bắt hải sản trên biển theo hướng dẫn của Ủy ban Châu Âu.
3.Tình hình xuất khẩu, cần phải tăng cường công tác xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm, phát triển thị trường; chú trọng thông tin về thị trường; tập trung thực hiện nâng cao chất lượng hàng hóa, nhất là các mặt hàng chế biến thuỷ sản xuất khẩu, hàng nông sản nhằm đáp ứng yêu cầu thị trường thế giới trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt; tạo điều kiện hỗ trợ về vốn cho các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh xuất khẩu.
4.Về lĩnh vực công nghiệp – Đầu tư: Duy trì và phát triển thế mạnh của một số ngành công nghiệp chế biến. Cần đẩy nhanh tiến độ xây dựng cơ sở hạ tầng tại các khu công nghiệp hiện có nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho các nhà đầu tư, các doanh nghiệp có đủ tiềm lực để đầu tư phát triển vào các ngành công nghiệp có khả năng cạnh tranh, có công nghệ thích hợp, vừa đáp ứng yêu cầu tiêu dùng trong nước, vừa đáp ứng xuất khẩu, đồng thời giải quyết việc làm cho lực lượng lao động tại địa phương.
5.Ngành du lịch kết hợp với các ngành, các cấp thường xuyên thực hiện tốt việc đẩy mạnh công tác thông tin xúc tiến, quảng bá du lịch, tổ chức nhiều chương trình, sự kiện với nhiều loại hình phong phú, đa dạng, hấp dẫn du khách trong và ngoài tỉnh. Đồng thời chỉ đạo các địa phương tập trung quản lý tốt các điểm du lịch, bảo đảm an ninh, an toàn, vệ sinh môi trường, vệ sinh thực phẩm phục vụ khách nhất là trên các tuyến đảo ven biển; tăng cường công tác đào tạo nguồn nhân lực làm công tác du lịch và lực lượng lao động tại các cơ sở kinh doanh du lịch nhằm nâng cao chất lượng phục vụ và xây dựng hình ảnh điểm đến thân thiện, ứng xử tốt với khách du lịch nhằm thu hút nhiều khách đến tỉnh ta trong thời gian tới./.
File đính kèm: Kien_Giang_thang_6_(so_lieu_1).pdfKien_Giang_thang_6_(so_lieu_2).pdf
Website Cục thống kê Kiên Giang