Thanh Hóa thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 9 tháng đầu năm 2018 trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế thế giới tiếp tục cải thiện nhưng tiềm ẩn nhiều rủi ro, thách thức. Giá các mặt hàng thiết yếu như xăng dầu, sắt thép, chất đốt… tăng cao gây áp lực lên lạm phát tại nhiều quốc gia. Hoạt động thương mại toàn cầu duy trì đà tăng trưởng nhưng đối mặt nhiều khó khăn do căng thẳng thương mại giữa Mỹ với Trung Quốc và các đối tác lớn khác như Liên minh Châu Âu, Nhật Bản. Bên cạnh đó, xu hướng gia tăng chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch của các nước lớn, đặc biệt là những thay đổi trong chính sách thương mại của Mỹ đã tác động đến sản xuất và xuất khẩu của nước ta và các nước trong khu vực.
Ở trong nước, bên cạnh những thuận lợi từ kết quả tích cực trong năm 2017, kinh tế - xã hội nước ta cũng đối mặt không ít khó khăn, thách thức: Sức ép lạm phát tăng lên; số doanh nghiệp tạm dừng kinh doanh tăng cao; thuế nhập khẩu một số mặt hàng chủ yếu của Việt Nam vào Mỹ tăng cao; công nghiệp chế biến chế tạo có xu hướng tăng chậm lại; diễn biến thời tiết phức tạp.
Trước tình hình đó, các cấp, các ngành trong tỉnh đã tập trung triển khai thực hiện quyết liệt, có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội đã đề ra từ đầu năm nhằm tạo điều kiện phát triển sản xuất kinh doanh, tăng cường các hoạt động xúc tiến, thu hút đầu tư, đẩy nhanh tiến độ thực hiện và hoàn thành các dự án lớn trên địa bàn tỉnh, nên tình hình kinh tế - xã hội chín tháng đầu năm của tỉnh vẫn giữ được ổn định và có bước phát triển. Kết quả các ngành, lĩnh vực trong chín tháng đầu năm như sau:
1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
1.1. Nông nghiệp
a. Kết quả sản xuất vụ đông xuân
Sản xuất vụ đông 2017 - 2018 diễn ra trong điều kiện thời tiết, khí hậu không thuận lợi, do ảnh hưởng của bão số 10 trong tháng 9 và áp thấp nhiệt đới trong tháng 10 năm 2017 đã gây ra mưa lớn và ngập lụt ở nhiều địa phương trên địa bàn tỉnh; diện tích nhiều cây trồng vụ đông mới trồng bị ngập úng, mất trắng, phải gieo trồng lại. Vụ chiêm xuân điều kiện thời tiết thuận lợi; các loại cây trồng sinh trưởng, phát triển tốt và ít sâu bệnh; riêng đối với cây lúa, từ đầu vụ gieo trồng đến nay thời tiết thuận lợi, giai đoạn lúa mới cấy nền nhiệt độ ấm hơn nhiều năm nên nhanh bén rễ và sinh trưởng tốt; giai đoạn lúa đẻ nhánh, làm đòng, trổ bông có nhiều đợt mưa rào trên diện rộng nên phát triển tốt; bên cạnh đó, việc đưa thêm nhiều giống mới năng suất cao vào gieo trồng, kết hợp với việc chăm sóc của bà con nông dân nên phát triển khá đồng đều; đặc biệt ít xảy ra sâu bệnh trên diện rộng, nên năng suất lúa đạt cao nhất từ trước đến nay.
Tổng diện tích gieo trồng toàn tỉnh 254,9 nghìn ha, đạt 97,9% kế hoạch, giảm 2,9% so cùng kỳ; trong đó vụ chiêm xuân 208,9 nghìn ha, đạt 98,1% kế hoạch, giảm 1,6% so với cùng kỳ. Diện tích lúa 119,5 nghìn ha, vượt 2,2% kế hoạch, giảm 2,2% so cùng kỳ; ngô 30,3 nghìn ha, đạt 93,0% và giảm 14,4%; lạc 9,3 nghìn ha, đạt 96,1% và giảm 9,5%; đậu tương 914 ha, đạt 36,6% và giảm 55,3%; rau, đậu các loại 34,0 nghìn ha, đạt 76,1% và tăng 7,3%; ớt cay 3.548 ha, tăng 12,8%; cây thức ăn gia súc 6.634 ha, tăng 34,5%...
Về năng suất, sản lượng cây trồng: Do vụ đông xuân năm nay thời tiết thuận lợi, ít sâu bệnh; bên cạnh đó, việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, đưa các giống lúa lai có năng suất cao vào sản xuất đại trà ở các địa phương; đặc biệt là việc đầu tư cơ giới hoá đồng bộ vào sản xuất ở một số địa phương trong tỉnh đã tạo hiệu quả rõ rệt đối với năng suất, sản lượng cây trồng. Năng suất, sản lượng cây trồng vụ đông xuân năm 2018 ước đạt như sau: Năng suất lúa 66,7 tạ/ha, vượt 4,2% kế hoạch, tăng 2,6% so cùng kỳ; ngô 45,5 tạ/ha, giảm 1,3%; lạc 22,2 tạ/ha, tăng 2,8%; đậu tương 16,3 tạ/ha, tăng 5,2%; ớt cay 94,7 tạ/ha, giảm 21,1% so với vụ đông xuân năm 2017. Sản lượng lương thực có hạt 935 nghìn tấn, vượt 2,4% kế hoạch, giảm 2,4% so vụ đông xuân năm 2017; trong đó vụ chiêm xuân 868,3 nghìn tấn, vượt 4,8% kế hoạch và tăng 0,4% so cùng kỳ.
b. Sản xuất vụ thu mùa
Vụ thu mùa năm 2018, từ đầu vụ đến nay diễn biến thời tiết phức tạp, gây bất lợi đến sản xuất, đầu vụ gieo trồng gặp các đợt nắng nóng kéo dài, tiếp đến là các đợt mưa lớn do ảnh hưởng của bão và áp thấp nhiệt đới đã gây ra nhiều thiệt hại cho sản xuất. Theo kết quả điều tra diện tích gieo trồng cây hàng năm, vụ thu mùa năm 2018, toàn tỉnh gieo trồng được 165 nghìn ha, đạt 96,5% kế hoạch, giảm 1,1% so với cùng kỳ. Trong đó: Diện tích lúa 124,9 nghìn ha, vượt 1,6% kế hoạch, giảm 2,6% so với cùng kỳ; ngô 14.690 ha, đạt 77,4% kế hoạch, giảm 3,1% so cùng kỳ; lạc 1.186 ha, vượt 48,2% và giảm 4,0%; đậu tương 456 ha, đạt 45,6% và giảm 12,5%; khoai lang 1.526 ha, giảm 4,6%; rau các loại 10.999 ha, tăng 11,2%…
Theo báo cáo tiến độ sản xuất của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, hiện nay hầu hết diện tích lúa đang trong giai đoạn chín sáp đến đỏ đuôi, một số diện tích trà sớm đang thu hoạch; cây ngô trong giai đoạn chín sáp; cây lạc trong giai đoạn củ già; cây mía trong giai đoạn vươn lóng… Tính đến ngày 13/9/2018, toàn tỉnh đã thu hoạch được 4.892 ha lúa, đạt 3,9% diện tích lúa gieo cấy.
Do diễn biến thời tiết phức tạp, nên các loại sâu bệnh gây hại trên cây lúa như: sâu cuốn lá, sâu đục thân, rầy nâu, rầy lưng trắng đã phát sinh với mật độ tương đối cao, trên diện rộng tại nhiều địa phương trong tỉnh; ngoài ra, bệnh lùn sọc đen phương Nam, bệnh đạo ôn lá, bệnh khô vằn, bệnh bạc lá, bệnh đốm sọc vi khuẩn cũng đang gây hại rải rác tại một số huyện.
Từ những yếu tố tác động bất lợi đến vụ thu mùa năm nay nói trên, dự kiến năng suất nhiều loại cây trồng, đặc biệt là cây lúa giảm so với vụ thu mùa năm 2017. Dự kiến năng suất lúa mùa đạt khoảng 50 tạ/ha, đạt 94,3% kế hoạch, giảm 4,0% so cùng kỳ (giảm 2,1 tạ/ha); năng suất ngô 39,5 tạ/ha, bằng 91,9% kế hoạch và giảm 2,2% so cùng kỳ; sản lượng lương thực có hạt 682,3 nghìn tấn, đạt 94,6% kế hoạch và giảm 6,5% so với vụ mùa năm 2017.
c. Chăn nuôi
Công tác phòng chống dịch bệnh cho đàn gia súc, gia cầm được tập trung chỉ đạo thường xuyên; chín tháng đầu năm, toàn tỉnh không xảy ra dịch bệnh lớn trên đàn gia súc, gia cầm. Đàn gia súc, gia cầm ổn định và phát triển, giá bán thịt lợn hơi tăng nên đàn lợn có xu hướng tăng. Kết quả tổng hợp suy rộng điều tra chăn nuôi kỳ 01/7/2017 như sau: Tại thời điểm 01/7/2018, toàn tỉnh có 811,4 nghìn con lợn, tăng 13,1% so với thời điểm 01/4/2018 và tăng 0,2% so với thời điểm 01/7/2017; 19,2 triệu con gia cầm, tăng 14,3% so với thời điểm 01/4/2018 và tăng 1,3% so với thời điểm 01/7/2017.
Sản lượng thịt hơi xuất chuồng 9 tháng đầu năm 2018 ước đạt 170,9 nghìn tấn, đạt 72,7% kế hoạch, tăng 2,9% so với cùng kỳ (riêng sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng ước đạt 105,5 nghìn tấn, tăng 3,1%); sản lượng gia cầm giết bán thịt 33,1 nghìn tấn, tăng 3,4% so với cùng kỳ.
1.2. Lâm nghiệp
Chín tháng đầu năm, được sự quan tâm chỉ đạo thường xuyên của các ngành chức năng, sự cố gắng của các chủ dự án, hộ lâm nghiệp, nên kết quả sản xuất lâm nghiệp tăng khá so cùng kỳ. Chín tháng đầu năm 2018, diện tích trồng rừng tập trung ước đạt 9.865 ha, đạt 98,7% kế hoạch, giảm 0,7% so với cùng kỳ; trồng cây phân tán 1,5 triệu cây, giảm 14,3%; diện tích rừng được chăm sóc 42 nghìn ha, đạt 100% kế hoạch, giảm 1,3%... Khai thác lâm sản: Gỗ 420,8 nghìn m3, đạt 76,5% kế hoạch, tăng 7,4% so với cùng kỳ; tre luồng 41,6 triệu cây, đạt 81,6% và tăng 3,4%; nứa nguyên liệu 60,3 nghìn tấn, đạt 82,5% và tăng 5,3% so với cùng kỳ…
Toàn tỉnh đã sản xuất được 17 triệu cây giống lâm nghiệp các loại, trong đó 9,2 triệu cây giống đủ tiêu chuẩn xuất vườn phục vụ trồng rừng trên địa bàn tỉnh.
Công tác bảo vệ, phòng cháy, chữa cháy rừng thường xuyên được quan tâm chỉ đạo, các ngành chức năng luôn phối hợp với các địa phương và ban quản lý dự án tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia bảo vệ và phát triển rừng. Tuy nhiên, do thời tiết nắng nóng, hanh khô kéo dài nên ngày 06/7/2018 đã xảy ra 1 vụ cháy rừng tại xã Châu Lộc, huyện Hậu Lộc và khu vực liền kề thuộc thôn Chà Là, xã Hoằng Khánh, huyện Hoằng Hóa, diện tích cháy 11,4 ha; 1 vụ cháy thực bì dưới tán rừng tại xã Hoằng Trung, huyện Hoằng Hóa, diện tích cháy 0,03 ha, không gây thiệt hại đến tài nguyên rừng. Cả 2 vụ cháy rừng không gây thiệt hại về người; ngay sau khi phát hiện cháy rừng, các lực lượng chức năng đã kịp thời phối hợp với người dân địa phương dập tắt hoàn toàn đám cháy.
1.3. Thuỷ sản
Chín tháng đầu năm 2018, thời tiết tương đối thuận lợi cho việc khai thác, đánh bắt thuỷ sản; mặt khác, ngư dân đã đầu tư nâng cấp, đóng mới, thay mới và cải hoán nhiều tàu thuyền có công suất lớn, phục vụ cho việc đánh bắt xa bờ; nên kết quả sản xuất thuỷ sản tăng so với cùng kỳ. Sản lượng thủy sản chín tháng đầu năm 2018 ước đạt 126,3 nghìn tấn, đạt 74,6% kế hoạch, tăng 7,0% so với cùng kỳ; trong đó, sản lượng nuôi trồng 39,7 nghìn tấn tăng 6,8%; sản lượng khai thác 86,6 nghìn tấn, tăng 7,1%, riêng khai thác xa bờ 40,1 nghìn tấn, tăng 7,3% so với cùng kỳ.
Toàn tỉnh hiện có 7.201 tàu thuyền có động cơ khai thác hải sản biển, với tổng công suất 628,7 nghìn CV; so với cùng kỳ tăng 1,0% về số tàu, tăng 15,5% về công suất; trong đó, tàu xa bờ (từ 90 CV trở lên) có 1.816 tàu, với tổng công suất 490,2 nghìn CV; so với cùng kỳ tăng 9,5% về số tàu, tăng 19,5% về công suất.
Thực hiện Nghị định số 67/2014/NĐ-CP ngày 07/7/2014 của Chính phủ về một số chính sách phát triển thuỷ sản và Nghị định số 89/2015/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 67/2014/NĐ-CP; hiện nay, toàn tỉnh đã đóng mới, nâng cấp và đưa vào hoạt động khai thác 58 tàu, gồm 23 tàu vỏ thép và 35 tàu vỏ gỗ.
2. Sản xuất công nghiệp
Chín tháng đầu năm 2018, năng lực sản xuất của ngành công nghiệp do có thêm một số doanh nghiệp thuộc khu vực ngoài Nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài hoàn thành đầu tư đi vào sản xuất kinh doanh cuối năm 2017 và những tháng đầu năm 2018; đặc biệt Nhà máy Lọc hóa dầu Nghi Sơn chính thức chạy thử và có sản phẩm thương mại từ đầu tháng Năm và tiếp tục sản xuất ổn định trong những tháng tiếp theo, đã đóng góp lớn cho tăng trưởng của ngành công nghiệp, tạo ra bước tăng trưởng đột biến về thu ngân sách nhà nước và là động lực thúc đẩy phát triển mạnh mẽ kinh tế - xã hội của tỉnh.
Chỉ số sản xuất công nghiệp toàn ngành ước tính tháng 9/2018 tăng 16,49% so với tháng trước, tăng 64,20% so với tháng cùng kỳ; trong đó, công nghiệp khai khoáng tăng 11,21% so với tháng trước, tăng 2,15% so với tháng cùng kỳ; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 18,39% so với tháng trước, tăng 67,99% so với tháng cùng kỳ; sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà không khí giảm 6,74% so với tháng trước, tăng 27,20% so với tháng cùng kỳ; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 1,44% so với tháng trước, tăng 6,05% so với tháng cùng kỳ. Tính chung 9 tháng đầu năm 2018, chỉ số sản xuất công nghiệp toàn ngành tăng 28,57% so với cùng kỳ; trong đó, công nghiệp khai khoáng tăng 5,38%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 29,97%; sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà không khí tăng 17,17%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 6,65% so cùng kỳ. Tính riêng từng quý: Chỉ số sản xuất công nghiệp toàn ngành quý I năm 2018 tăng 11,44% so với quý I năm 2017 (riêng công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 10,97%); quý II năm 2018 tăng 25,38% so với quý II năm 2017 (riêng công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 27,30%); quý III năm 2018 tăng 50,22% so với quý III năm 2017 (riêng công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 52,80%).
Trong toàn ngành công nghiệp, các ngành có chỉ số sản xuất tính chung 9 tháng đầu năm 2018 tăng so với cùng kỳ gồm: Sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế gấp 5,2 lần; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất gấp 2,3 lần; sản xuất máy móc, thiết bị chưa được phân vào đâu tăng 57,84%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 28,97%; sản xuất sản phẩm thuốc lá tăng 26,99%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 25,77%; sản xuất phương tiện vận tải khác tăng 23,64%; in, sao chép bản ghi các loại tăng 19,51%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà không khí tăng 17,17%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 12,80%; sản xuất đồ uống tăng 9,88%; khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 7,23%; sản xuất trang phục tăng 5,35%... Các ngành có chỉ số sản xuất giảm so với cùng kỳ gồm: Sản xuất xe có động cơ giảm 64,28%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học giảm 62,89%; sản xuất kim loại giảm 29,26%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa giảm 10,27%...
Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 9/2018 dự kiến giảm 3,40% so với tháng trước, tăng 12,23% so với tháng cùng kỳ. Tính chung 9 tháng đầu năm 2018, chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 14,89% so với cùng kỳ.
Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 9/2018 dự kiến tăng 4,19% so với tháng trước; giảm 0,31% so với tháng cùng kỳ.
Số lao động làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tháng 9 năm 2018 tăng 0,97% so với tháng trước; tăng 6,42% so với tháng cùng kỳ; trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 0,16% so với tháng trước; tăng 0,25% so với tháng cùng kỳ; khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng 1,55% so với tháng trước; giảm 2,06% so với tháng cùng kỳ; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 0,81% so với tháng trước; tăng 10,87% so với tháng cùng kỳ. Tính chung 9 tháng đầu năm 2018, số lao động làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tăng 8,78% so với cùng kỳ; trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 0,44%; khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng 12,81%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 8,09% so với cùng kỳ năm trước.
3. Hoạt động của doanh nghiệp
Phát triển doanh nghiệp đạt kết quả tích cực, 9 tháng đầu năm 2018, thành lập mới 1.831 doanh nghiệp (riêng quý III thành lập mới 556 doanh nghiệp, tăng 6,1% so với cùng kỳ), với tổng số vốn đăng ký 11.908 tỷ đồng; so với cùng kỳ năm 2017, tăng 14,0% về số doanh nghiệp và tăng 1,3% về vốn đăng ký.
4. Đầu tư
Kế hoạch vốn đầu tư công năm 2018 từ nguồn cân đối ngân sách tỉnh, vốn hỗ trợ từ ngân sách Trung ương và trái phiếu Chính phủ do tỉnh quản lý đã được Chủ tịch UBND tỉnh giao chi tiết cho các chủ đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ đầu tư giải ngân và đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án. Tuy nhiên, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 9 tháng đầu năm 2018 giảm mạnh so với cùng kỳ, nguyên nhân chủ yếu do Dự án Lọc hóa dầu Nghi Sơn đã hoàn thành giai đoạn đầu tư xây dựng, chính thức chạy thử và có sản phẩm thương mại đầu tháng 5/2018. Chín tháng đầu năm 2018, tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện theo giá hiện hành ước đạt 61.128 tỷ đồng, tăng 3,5% so với cùng kỳ; trong đó, vốn đầu tư thuộc ngân sách Nhà nước 7.706 tỷ đồng, tăng 12,0%; vốn tín dụng đầu tư theo kế hoạch Nhà nước 3.504 tỷ đồng, tăng 89,7%; vốn đầu tư của dân cư và tư nhân 33.940 tỷ đồng, tăng 22,4%; vốn đầu tư nước ngoài 9.584 tỷ đồng, giảm 43,6% so với cùng kỳ... Tính riêng từng quý: Quý I thực hiện 19.134 tỷ đồng, tăng 10,8%; quý II thực hiện 21.815 tỷ đồng, tăng 0,3%; quý III thực hiện 20.179 tỷ đồng, tăng 0,7% so với cùng kỳ năm 2017.
Chín tháng đầu năm 2018, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước địa phương tăng khá cao so với cùng kỳ năm trước. Ước tính 9 tháng đạt 4.507,9 tỷ đồng, bằng 71,7% kế hoạch năm và tăng 31,2% so cùng kỳ; bao gồm: Vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh 2.128,4 tỷ đồng, tăng 44,2% so với cùng kỳ; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện 1.264,7 tỷ đồng, tăng 17,3% so với cùng kỳ; vốn ngân sách Nhà nước cấp xã 1.114,8 tỷ đồng, tăng 26,5% so với cùng kỳ. Tính riêng từng quý: Quý I thực hiện 1.406,6 tỷ đồng, tăng 42,2%; quý II thực hiện 1.545,7 tỷ đồng, tăng 29,0%; quý III thực hiện 1.555,6 tỷ đồng, tăng 24,7% so với cùng kỳ năm 2017.
5. Thu, chi ngân sách Nhà nước
Chín tháng đầu năm 2018, tổng thu ngân sách Nhà nước ước đạt 13.351 tỷ đồng, đạt 61,2% dự toán, tăng 52,7% so với cùng kỳ (quý I giảm 7,6%, quý II tăng 52,0%, quý III gấp 2,1 lần) do Nhà máy Lọc hóa dầu Nghi Sơn vận hành chạy thử và có sản phẩm từ đầu tháng 5; trong đó, thu nội địa 9.121 tỷ đồng, đạt 69,4% dự toán, tăng 26,8% so cùng kỳ. Các khoản thu chủ yếu tăng so cùng kỳ như: thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 74,8%; thu thuế công thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh tăng 27,1%; lệ phí trước bạ tăng 37,8%; thu phí và lệ phí tăng 66,0%; thu khác ngân sách tăng 89,8% so với cùng kỳ; riêng thu từ tiền sử dụng đất tăng 26,7%; thu từ hoạt động xuất nhập khẩu gấp 2,7 lần so với cùng kỳ. Chi ngân sách địa phương ước đạt 21.659 tỷ đồng, đạt 77,4% dự toán, tăng 8,4% so với cùng kỳ (quý I giảm 3,1%, quý II tăng 32,5%, quý III tăng 0,8%); trong đó, chi đầu tư phát triển tăng 81,2%; chi thường xuyên giảm 2,3%; chi khác giảm 48,6% so với cùng kỳ.
6. Hoạt động ngân hàng
Ngân hàng Nhà nước chi nhánh Thanh Hóa đã tập trung chỉ đạo các tổ chức tín dụng thực hiện quy định về hoạt động kinh doanh tiền tệ, ngân hàng, các chính sách tiền tệ, đảm bảo hoạt động an toàn, hiệu quả, triển khai thực hiện tốt chương trình tín dụng của Chính phủ, đẩy mạnh cho vay phục vụ phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp nông thôn, thủy sản, doanh nghiệp, bảo đảm nhu cầu vay vốn của các đối tượng chính sách... Lãi suất huy động bằng VND của các tổ chức tín dụng phổ biến từ 4,3 đến 7,3%/năm; lãi suất cho vay bằng VND phổ biến từ 6 đến 11%/năm. Đến 30/9/2018, tổng nguồn vốn huy động của các tổ chức tín dụng (không bao gồm Ngân hàng Phát triển) ước đạt 82.200 tỷ đồng, tăng 13,6% so với tháng 12 năm 2017; tổng dư nợ (không bao gồm Ngân hàng Phát triển) ước đạt 99.500 tỷ đồng, tăng 10,1% so với tháng 12 năm 2017.
7. Thương mại, giá cả, vận tải và du lịch
7.1. Doanh thu bán lẻ hàng hóa
Hoạt động thương mại, dịch vụ 9 tháng đầu năm trên địa bàn tỉnh khá sôi động, các mặt hàng thiết yếu được cung ứng đầy đủ về số lượng và đa dạng về mẫu mã, đáp ứng kịp thời cho nhu cầu sản xuất cũng như đời sống của nhân dân. Công tác quản lý, kiểm tra, kiểm soát thị trường giá cả được tăng cường, góp phần đẩy mạnh hoạt động thương mại, kích thích sức mua của người tiêu dùng.
Tháng 9, doanh thu bán lẻ hàng hóa ước đạt 6.703 tỷ đồng, tăng 1,8% so với tháng trước, tăng 14,8% so với cùng kỳ. Tính chung 9 tháng đầu năm 2018, doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 58.877 tỷ đồng, tăng 13,0% so với cùng kỳ (quý I tăng 12,3%, quý II tăng 12,9%, quý III tăng 13,9%); trong đó ngành hàng lương thực, thực phẩm tăng 14,3%; may mặc tăng 7,8%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 13,1%; vật phẩm văn hoá, giáo dục tăng 13,9%; phương tiện đi lại tăng 6,6%; xăng dầu tăng 21,4%...
7.2. Hoạt động lưu trú và ăn uống
Tháng 9, doanh thu dịch vụ lưu trú và ăn uống ước đạt 838,1 tỷ đồng, tăng 9,3% so với cùng kỳ, trong đó doanh thu dịch vụ lưu trú tăng 9,5%, doanh thu ăn uống tăng 9,3%; doanh thu du lịch lữu hành đạt 8,8 tỷ đồng, tăng 4,7%; doanh thu dịch vụ tiêu dùng khác đạt 370 tỷ đồng, tăng 14,1%. Tính chung 9 tháng đầu năm 2018, doanh thu dịch vụ lưu trú và ăn uống đạt 7.495 tỷ đồng, tăng 12,0% so với cùng kỳ (quý I tăng 12,7%, quý II tăng 11,9%, quý III tăng 11,5%), trong đó doanh thu dịch vụ lưu trú tăng 9,7%, doanh thu ăn uống tăng 12,7%; doanh thu du lịch lữu hành đạt 86,2 tỷ đồng, tăng 9,9%; doanh thu dịch vụ tiêu dùng khác đạt 3.203 tỷ đồng, tăng 12,5%.
Ngày 15/9/2018, Công ty Cổ phần Vinpearl chính thức khai trương Vinpearl Hotel Thanh Hóa tại số 27 đường Trần Phú, phường Điện Biên, thành phố Thanh Hóa, gồm 33 tầng nổi và 2 tầng hầm, với quy mô 295 phòng nghỉ, phòng hội nghị có sức chứa gần 1.000 khách, được trang bị nội thất hiện đại tiêu chuẩn quốc tế kèm các dịch vụ tiêu chuẩn 5 sao.
7.3. Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và đô la Mỹ
Tháng 9, giá thịt lợn, rau xanh giảm; lượng điện tiêu thụ giảm so với tháng trước đã tác động đến chỉ số giá tiêu dùng trong tháng. Chỉ số giá tiêu dùng tháng 9/2018 giảm 0,03% so với tháng trước. Ba nhóm hàng hóa có chỉ số giá giảm là: Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,25% (lương thực tăng 0,05%, thực phẩm giảm 0,40%); nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và VLXD giảm 0,30%; nhóm hàng hóa khác giảm 0,01%. Bốn nhóm hàng hóa có chỉ số giá tăng là: Nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,87%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,11%; nhóm giao thông tăng 0,68%; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,07%. Bốn nhóm hàng hóa giá cả ổn định chỉ số giá không tăng là: Nhóm may mặc, mũ nón, giầy dép; nhóm thuốc và dịch vụ y tế; nhóm bưu chính viễn thông; nhóm giáo dục. Chỉ số giá tiêu dùng tháng 9 năm 2018 tăng 3,42% so với tháng 12 năm 2017 và tăng 4,66% so với cùng kỳ năm trước.
Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 9 tháng đầu năm 2018 tăng 3,89% so với bình quân cùng kỳ (quý I tăng 3,38%, quý II tăng 3,70%, quý III tăng 4,99%), một số nhóm hàng hóa có chỉ số giá tăng cao là: Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 3,61% (lương thực tăng 7,50%, thực phẩm tăng 3,94%); nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và VLXD tăng 5,41%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 10,08% (dịch vụ y tế tăng 14,26%); nhóm giáo dục tăng 10,68% (dịch vụ giáo dục tăng 13,32%). Đây là năm có chỉ số giá tiêu dùng bình quân 9 tháng đạt mức tăng cao trong những năm gần đây (9 tháng năm 2015 tăng 0,51%; năm 2016 tăng 1,98%; năm 2017 tăng 2,67%).
Chỉ số giá vàng tháng 9/2018 giảm 1,36% so với tháng trước, giảm 2,19% so với tháng 12, giảm 3,71% so với cùng kỳ. Chỉ số giá Đô la Mỹ tăng 0,13% tháng trước, tăng 2,56% so với tháng 12, tăng 2,51% so với cùng kỳ.
7.4. Vận tải hành khách và hàng hóa
Tháng 9, doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải ước đạt 813,5 tỷ đồng, tăng 8,1% so với cùng kỳ; khối lượng hàng hóa vận chuyển đạt 4.752 nghìn tấn, tăng 1,2% so với tháng trước, tăng 6,2% so với cùng kỳ; khối lượng hàng hóa luân chuyển 228,6 triệu tấn.km tăng 1,1% so với tháng trước, tăng 0,3% so với cùng kỳ; khối lượng hành khách vận chuyển đạt 3,6 triệu người, tăng 1,4% và 9,6%; khối lượng hành khách luân chuyển đạt 214 triệu người.km, tăng 1,5 và 9,7%.
Tính chung 9 tháng đầu năm 2018 doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải ước đạt 7.130 tỷ đồng, tăng 9,4% so với cùng kỳ (quý I tăng 10,0%, quý II tăng 9,8%, quý III tăng 8,3%). Vận chuyển hàng hoá đạt 41,3 triệu tấn, luân chuyển hàng hoá đạt 2.043 triệu tấn.km, tăng 6,8% về vận chuyển, tăng 0,8% về luân chuyển so với cùng kỳ. Vận chuyển hành khách 33 triệu người, luân chuyển hành khách 1.954 triệu người.km, tăng 11,3% về vận chuyển, tăng 11,3% về luân chuyển so với cùng kỳ. Bốc xếp qua cảng đạt 7.325 nghìn tấn, tăng 11,9% so với cùng kỳ; cảng Nghi Sơn 7.174 nghìn tấn, tăng 13,1%; cảng Lễ Môn 151 nghìn tấn, giảm 27,0% so cùng kỳ.
8. Một số tình hình xã hội
8.1. Thiếu đói trong nông dân
Chín tháng đầu năm 2018, các cấp, các ngành trong tỉnh đã thực hiện đầy đủ, kịp thời các chính sách ưu đãi, trợ giúp đối với các xã đặc biệt khó khăn, các đối tượng chính sách, người nghèo và người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; một số cơ sở hạ tầng, kỹ thuật mới đưa vào sử dụng, khai thác; nên đời sống dân cư cơ bản ổn định. Tuy nhiên do diễn biến thời tiết phức tạp, nắng nóng kéo dài, mưa nhiều gây lũ ống, lũ quét xảy ra ở một số địa phương trong tỉnh, làm thiệt hại về nhà cửa và hoa màu... đã ảnh hưởng đến đời sống một bộ phận dân cư, nhất là khu vực miền núi và nông thôn.
Tính chung 9 tháng đầu năm 2018, toàn tỉnh có 2.091 lượt hộ thiếu đói, gấp 3,6 lần so với cùng kỳ; 4.101 lượt nhân khẩu thiếu đói, gấp 1,7 lần so với cùng kỳ; tỷ lệ hộ thiếu đói bình quân chín tháng đầu năm 0,025%, tăng 0,018% so với cùng kỳ năm 2017.
Công tác an sinh xã hội trên địa bàn tỉnh được thực hiện đầy đủ, kịp thời; chi trả trợ cấp ưu đãi hàng tháng đúng thời gian, đúng chế độ cho hơn 78 nghìn người có công với tổng kinh phí 1.187 tỷ đồng. Các hoạt động thăm hỏi, động viên, tặng quà và tri ân người có công đã được các cấp ủy đảng, chính quyền quan tâm thực hiện rộng rãi trên địa bàn tỉnh, đã có hơn 301.568 lượt người có công và thân nhân được nhận quà của Chủ tịch nước và quà của tỉnh, nhân dịp tết Nguyên đán Mậu Tuất 2018 và kỷ niệm 71 năm ngày Thương binh - Liệt sĩ với tổng kinh phí trên 89 tỷ đồng. Trợ cấp thường xuyên cho trên 206 nghìn đối tượng bảo trợ xã hội tại cộng đồng đảm bảo kịp thời, đúng quy định. Thực hiện tốt công tác chúc thọ và tặng quà nhân dịp Tết Nguyên đán Mậu Tuất 2018 cho 55.719 người cao tuổi với kinh phí trên 11 tỷ đồng; tổ chức kiểm tra, tổng hợp tình hình đời sống nhân dân trong dịp Tết Nguyên đán và thời kỳ giáp hạt đầu năm 2018 trình UBND tỉnh đề nghị Trung ương hỗ trợ 1.065 kg gạo cho 23.192 hộ dân trên địa bàn tỉnh.
8.2. Lao động, việc làm
Theo báo cáo của Sở Lao động, Thương binh và Xã hội, 9 tháng đầu năm 2018, toàn tỉnh đã giải quyết việc làm cho 52,5 nghìn lao động (đạt 79,5% kế hoạch năm, tăng 4,8% so với cùng kỳ); trong đó, đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài 6,9 nghìn lao động (đạt 69,4% kế hoạch năm và bằng 91,9% so với cùng kỳ năm 2017). Công tác đào tạo nghề được quan tâm, 9 tháng đầu năm, đã tuyển mới và đào tạo nghề cho 60,9 nghìn người, đạt 79,1% kế hoạch, tăng 22,5% so với cùng kỳ năm 2017; trong đó, trình độ cao đẳng 2,8 nghìn người, trung cấp 4,9 nghìn người, sơ cấp và dưới 3 tháng 53,2 nghìn người.
8.3. Y tế
Trong 9 tháng đầu năm, ngành Y tế đã tập trung chỉ đạo nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh; công tác y tế dự phòng được tăng cường, vật tư, hoá chất được cung cấp đầy đủ cho các đơn vị để chủ động phòng, chống, khoanh vùng và có biện pháp xử lý, chữa trị kịp thời; trên địa bàn tỉnh không có dịch bệnh lớn xảy ra. Tuy nhiên, từ đầu năm đến nay trên địa bàn tỉnh vẫn phát sinh một số bệnh thông thường: Đến ngày 02/9/2018 toàn tỉnh ghi nhận 79 ca sốt xuất huyết, 218 ca SPB nghi sởi, 169 ca tay chân miệng, 01 ca dại (tử vong 01 người), 09 ca ho gà, 09 ca uốn ván, 39 ca viêm não vi rút khác; phát hiện mới 48 bệnh nhân mắc sốt rét (giảm 129 ca so với cùng kỳ năm 2017).
Công tác phòng chống HIV/AIDS được đẩy mạnh; lũy kế số người nhiễm HIV/AIDS được phát hiện là 8.111 người, trong đó số người nhiễm HIV còn sống, được quản lý là 4.058 người. Hiện có 3.779 người nhiễm HIV/AIDS đang được điều trị bằng thuốc kháng virus ARV tại 29 cơ sở điều trị. Toàn tỉnh đã triển khai cung cấp dịch vụ điều trị thay thế nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc methadone cho 26 cơ sở điều trị và 15 điểm cấp phát thuốc tại 23 huyện trong tỉnh. Số bệnh nhân hiện đang điều trị bằng thuốc Methadone là 2.720 bệnh nhân.
Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm luôn được chú trọng, ngành Y tế tham mưu cho Ban chỉ đạo Quản lý về vệ sinh an toàn thực phẩm tỉnh tổ chức Lễ phát động Tháng hành động vì an toàn thực phẩm năm 2018 quy mô cấp tỉnh. Chín tháng đầu năm, đã tổ chức kiểm tra 320 cơ sở thực phẩm, xử lý 46/46 cơ sở vi phạm, phạt tiền 220 triệu đồng.
8.4. Giáo dục - Đào tạo
Sáng ngày 05/9, hơn 824 nghìn học sinh các cấp học phổ thông trên địa bàn toàn tỉnh bước vào khai giảng năm học mới 2018 - 2019. So với các năm học trước, quy mô học sinh các cấp học đều tăng, trong đó cấp tiểu học tăng nhiều nhất với khoảng hơn 20 nghìn học sinh. Để chuẩn bị cho cán bộ, giáo viên và học sinh bước vào năm học mới với tâm thế tốt nhất, Sở Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo phòng Giáo dục và Đào tạo các huyện, thị xã, thành phố, hiệu trưởng các trường chuẩn bị tốt cơ sở vật chất, vệ sinh trường lớp, tạo cảnh quan khu vực nhà trường sạch, đẹp, văn minh phục vụ năm học mới.
Năm học 2017 - 2018, ngành Giáo dục và Đào tạo Thanh Hóa đã hoàn thành tốt nhiệm vụ năm học, kết quả giáo dục được nâng lên. Kỳ thi tốt nghiệp THPT Quốc gia năm 2018 diễn ra an toàn, nghiêm túc, đúng quy chế; kết quả có 32.869/33.725 thí sinh đỗ tốt nghiệp THPT, đạt tỷ lệ 97,46% (tăng 0,03% so với năm 2017). Chất lượng giáo dục mũi nhọn tiếp tục duy trì và có bước đột phá cả về số lượng và chất lượng; kết quả các kỳ thi học sinh giỏi quốc gia, khu vực và quốc tế, Thanh Hóa liên tục trong tốp đầu của cả nước. Trong kỳ thi học sinh giỏi THPT Quốc gia, Thanh Hóa đạt 64 giải, trong đó có 6 giải nhất, xếp thứ 4 toàn quốc về số học sinh đạt giải nhất; tham gia dự thi Olympic quốc tế, đạt 03 huy chương (01 huy chương Vàng môn Sinh học; 01 Huy chương Vàng môn Vật lý; 01 huy chương Bạc môn Hóa học); dự thi khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, đạt 03 huy chương (01 huy chương Vàng môn Vật lý, 01 huy chương Bạc môn Tin học; 01 huy chương Đồng môn Vật lý). Đây là năm học tỉnh Thanh Hóa có số lượng học sinh đạt huy chương Olympic quốc tế và Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương nhiều nhất từ trước đến nay, trong đó lần đầu tiên đoạt huy chương Vàng Olympic quốc tế môn Sinh học; một học sinh đoạt 02 huy chương Vàng.
Tính từ đầu năm đến đầu tháng 9/2018, toàn tỉnh có 1.343/2.099 trường đạt chuẩn quốc gia, đạt tỷ lệ 64,0%; trong đó, Mầm non 399/672 trường, đạt tỷ lệ 59,4%; tiểu học 553/677 trường, đạt tỷ lệ 81.7%; trung học cơ sở 351/613 trường; đạt tỷ lệ 57,3%; tiểu học - THCS 11/29 trường, đạt tỷ lệ 37,9%; trung học phổ thông 29/108 trường, đạt tỷ lệ 26,9%.
Năm 2018, Trường Đại học Hồng Đức tuyển sinh đào tạo 33 ngành Đại học, 6 ngành Cao đẳng với tổng số 1.590 chỉ tiêu; Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch là 990 chỉ tiêu tuyển sinh ở 17 chuyên ngành; CaoY tế Thanh Hóa là 1.200 chỉ tiêu ở 5 chuyên ngành đạo. Đến nay, các trường Đại học, Cao đẳng trên địa bàn tỉnh đã kết thúc xét tuyển đợt 1 và đợt 2. Đại học Hồng Đức xét tuyển đợt 1 được 1.120/1.590 thí sinh, đạt 70,44% so với kế hoạch, tăng 2,14% so với năm trước; Đại học Văn hoá, Thể thao và Du lịch đồng thời thực hiện 2 phương thức xét tuyển: dựa vào kết quả kỳ thi THPT Quốc gia và xét tuyển học bạ THPT, xét tuyển đợt 1 và đợt 2 được 305 thí sinh, đạt 30,81% so với kế hoạch, tăng so với cùng kỳ năm trước là 189 thí sinh (2,6 lần); Cao đẳng Y tế Thanh Hoá xét tuyển đợt 1 và đợt 2 được 534 thí sinh, đạt 44,5% so với kế hoạch, tăng 201 thí sinh so với cùng kỳ năm trước.
8.5. Văn hoá - Thể dục thể thao
Chín tháng đầu năm 2018, ngành Văn hoá thông tin, Truyền thông tổ chức tuyên truyền các chủ chương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các sự kiện chính trị, các ngày kỷ niệm, lễ, tết và các nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Hoạt động văn hóa, văn nghệ, diễn ra sôi nổi. Các đơn vị nghệ thuật chuyên nghiệp đã triển khai dàn dựng và biểu diễn các chương trình, tiết mục phục vụ các tầng lớp nhân dân, mừng Đảng, mừng Xuân Mậu Tuất 2018; phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị. Tham gia Hội diễn sân khấu Kịch nói toàn quốc năm 2018 tại thành phố Hồ Chí Minh, đạt 01 HCV, 01 HCB; Liên hoan ca múa nhạc toàn quốc năm 2018 tại tỉnh Cao Bằng, đạt 02 HCV, 02 HCB.
Công tác xây dựng đời sống văn hóa cơ sở tiếp tục đẩy mạnh, chất lượng phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” được nâng cao. Tính từ đầu năm đến ngày 12/9/2018, toàn tỉnh có 37 làng, thôn, bản, tổ dân phố đăng ký xây dựng văn hóa, đạt 52,9% kế hoạch; 107 cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đăng ký xây dựng đạt chuẩn văn hóa, đạt 66,9% kế hoạch; 17 xã đăng ký xây dựng xã đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới, đạt 85% kế hoạch; 01 phường, thị trấn đăng ký xây dựng đạt chuẩn văn minh đô thị, đạt 50% kế hoạch năm 2018.
Phong trào thể dục thể thao trong nhân dân tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao chất lượng cuộc vận động "Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại". Kết quả, chín tháng đầu năm 2018, toàn tỉnh có 39,5% dân số tham gia tập luyện thể dục thể thao thường xuyên, gia đình thể thao đạt 28,2% số hộ; 3.375 CLB thể dục thể thao. Tổ chức 11 giải thể thao quần chúng cấp tỉnh; 112 giải cấp huyện và 1.023 giải cấp xã/phường; phát động ngày chạy Olympic vì sức khỏe toàn dân năm 2018 với hơn 6.000 người tham gia; phối hợp tổ chức giải Marathon băng rừng quốc tế tại huyện Bá Thước; đón, tiễn đoàn đua Xe đạp toàn quốc tranh Cup truyền hình thành phố Hồ Chí Minh lần thứ 30 năm 2018.
Thể thao thành tích cao tiếp tục được quan tâm, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp với các đơn vị có liên quan tổ chức gặp mặt, biểu dương các VĐV Thanh Hóa có thành tích xuất sắc trong thi đấu tại vòng Chung kết giải Bóng đá U23 Châu Á. Đăng cai tổ chức giải Cờ vua - Cờ tướng các nhóm tuổi Miền Trung mở rộng lần thứ XVI năm 2018; giải Vô địch CLB Pencaksilat toàn quốc và giải Vô địch bóng rổ 3x3 quốc gia tại Thanh Hóa. Tham gia đoàn thể thao Việt Nam tại ASIAD 18 có 2 HLV, 11 VĐV dự thi các môn bóng đá, bóng chuyền, điền kinh, pencaksilat, cầu mây, vật tự do, judo, đạt 3 HCB, 5 HCĐ. Tính từ đầu năm đến ngày 10/9/2018, đoàn thể thao Thanh Hóa tham gia thi đấu 65 giải quốc gia, khu vực và quốc tế, đạt 532 huy chương các loại, gồm: 173 HCV, 166 HCB, 193 HCĐ. Câu lạc bộ bóng đá FLC Thanh Hoá thi đấu tại Giải vô địch Quốc gia Nuti café V.League 2018, sau 21 vòng đấu, đạt 31 điểm, xếp thứ 3/14 đội tham dự.
8.6. Tai nạn giao thông
Theo báo cáo của Ban An toàn giao thông tỉnh, 9 tháng đầu năm 2018, toàn tỉnh xảy ra 354 vụ tai nạn, làm 113 người chết và 309 người bị thương (giảm 15,1% về số vụ, giảm 8,9% về số người chết và giảm 9,1% về số người bị thương so với cùng kỳ năm 2017). Tính riêng từng quý: Quý I xảy ra 160 vụ tai nạn, làm 39 người chết và 137 người bị thương (giảm 10,6% về số vụ, giảm 13,3% về số người chết và giảm 13,3% về số người bị thương so với cùng kỳ năm 2017); Quý II xảy ra 74 vụ tai nạn, làm 26 người chết và 65 người bị thương (giảm 33,9% về số vụ, giảm 31,6% về số người chết và giảm 31,6% về số người bị thương so với cùng kỳ năm 2017); Quý III xảy ra 120 vụ tai nạn, làm 48 người chết và 107 người bị thương (giảm 4,8% về số vụ, tăng 17,1% về số người chết và tăng 23,0% về số người bị thương so với cùng kỳ năm 2017).
Lực lượng Công an, Thanh tra giao thông tăng cường tuần tra, kiểm soát, ngăn chặn tình trạng đua xe trái phép, không đội mũ bảo hiểm, xe ô tô chạy quá tốc độ, xe khách chở quá số người qui định, xe ô tô chở hàng quá trọng tải... Chín tháng đầu năm 2018, lực lượng Công an đã phát hiện, xử phạt 6.788 trường hợp vi phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ, tạm giữ 1.249 phương tiện các loại, tổng số tiền phạt vi phạm 7.973 triệu đồng ; lực lượng Thanh tra giao thông lập biên bản, xử phạt 24 trường hợp vi phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ, số tiền phạt vi phạm 165,5 triệu đồng.
8.7. Thiệt hại do thiên tai
Tính từ đầu năm đến ngày 14/9/2018, toàn tỉnh đã xảy ra 9 đợt thiên tai, làm chết 15 người, mất tích 6 người, bị thương 5 người, thiệt hại về tài sản ước tính sơ bộ trên 2.000 tỷ đồng. Đặc biệt nghiêm trọng là đợt mưa, lũ xảy ra từ ngày 28 đến ngày 31/8, do ảnh hưởng của rãnh áp thấp, ở hầu hết các khu vực trên địa bàn tỉnh đã có mưa vừa đến mưa to, nhiều nơi mưa rất to; cùng với mưa, lũ, nước trên thượng nguồn Sông Mã lên nhanh. Tại các huyện Mường Lát, Quan Sơn, Quan Hóa, Bá Thước, Cẩm Thủy, Thạch Thành, Vĩnh Lộc, Yên Định đã bị ngập lụt trên diện rộng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống, sinh hoạt của nhân dân, làm 12 người chết và mất tích, 2 người bị thương, hơn 13 nghìn ngôi nhà bị ngập trong nước, 800 ngôi nhà bị đổ sập, bị cuốn trôi hoặc hư hỏng nặng, 318 ngôi nhà đang trong tình trạng nguy hiểm phải di dời; hàng nghìn ha lúa, hoa màu bị ngập, hàng trăm nghìn gia súc, gia cầm bị chết, cuốn trôi; nhiều tuyến đường giao thông huyết mạch, trường học, trạm y tế, công trình công cộng, hệ thống thông tin viễn thông bị hư hại nặng nề.
Phát huy truyền thống đoàn kết, tương thân tương ái “Lá lành đùm lá rách”, với tinh thần “Nhường cơm sẻ áo”, đã có rất nhiều các cơ quan, đơn vị, các địa phương, tổ chức kinh tế, doanh nghiệp, đơn vị lực lượng vũ trang, các nhà hảo tâm, cán bộ, công chức, viên chức và các tầng lớp nhân dân trong và ngoài tỉnh đã quyên góp tiền và vật chất để ủng hộ nhân dân vùng bị thiệt hại sớm vượt qua khó khăn, ổn định cuộc sống. Ngay sau mỗi đợt thiên tai xảy ra, các địa phương đã huy động lực lượng dân quân cùng với bà con nhân dân nhanh chóng khắc phục hậu quả do thiên tai gây ra; lãnh đạo tỉnh và các địa phương bị thiệt hại đã trực tiếp xuống cơ sở động viên thăm hỏi, trao quà hỗ trợ và chỉ đạo chính quyền xã, thôn, bản khẩn trương giúp đỡ người dân khắc phục nhà cửa bị hư hại, sớm ổn định cuộc sống và sản xuất kinh doanh.
8.8. Bảo vệ môi trường và phòng chống cháy, nổ
Môi trường: Chín tháng đầu năm 2018 xử phạt 58 vụ vi phạm môi trường, tăng 24 vụ so với cùng kỳ, tổng số tiền phạt 1.809 triệu đồng.
Cháy nổ: Chín tháng đầu năm 2018, xảy ra 32 vụ cháy, giảm 31 vụ so với cùng kỳ, làm chết 01 người, bị thương 06 người, thiệt hại về tài sản khoảng 2.786 triệu đồng.
Khái quát lại, Chín tháng đầu năm 2018, với sự chỉ đạo quyết liệt của các cấp, các ngành; đi kèm với đó là những giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Mặt khác, các doanh nghiệp cùng toàn thể nhân dân trong tỉnh ra sức thi đua sản xuất lập thành tích chào mừng kỷ niệm các ngày lễ lớn của đất nước, của tỉnh; đặc biệt, chính quyền và nhân dân trong tỉnh hết sức vui mừng đón dòng sản phẩm đầu tiên của Nhà máy Lọc hóa dầu Nghi Sơn vào đúng dịp kỷ niệm 132 năm Ngày Quốc tế Lao động; sự kiện quan trọng này được chủ đầu tư, nhà thầu, đối tác trong và ngoài nước, chính quyền và nhân dân Thanh Hóa mong mỏi từ hàng chục năm qua với tâm huyết, nỗ lực, sự hợp tác, môi trường đầu tư thuận lợi để đạt được thành quả này; nên nhiều chỉ tiêu thuộc các lĩnh vực nông, lâm nghiệp, thuỷ sản, công nghiệp, thương mại dịch vụ, vận tải, xuất khẩu... tăng so với cùng kỳ. Tuy nhiên, sản xuất vụ đông đạt thấp so với kế hoạch, sản xuất kinh doanh của một bộ phận doanh nghiệp còn gặp khó khăn, tiến độ thực hiện một số dự án trọng điểm chậm, đời sống một bộ phận dân cư còn gặp khó khăn, trật tự an toàn giao thông tuy giảm nhưng còn diễn biến phức tạp; bên cạnh đó, thiệt hại do thiên tai gây ra là hết sức nặng nề. Các ngành, các cấp cần phối hợp với các địa phương chỉ đạo, điều hành nhằm tiếp tục tháo gỡ khó khăn, đẩy mạnh sản xuất, tiếp tục triển khai thực hiện thắng lợi kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2018./.
File đính kèm: ThanhHoa_Solieu.xlsx