(MPI) – Ngày 29/6/2019,Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã ký ban hành Chỉ thị số 18/CT-TTg về việc tăng cường quản lý, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài trong tình hình mới cho chi đầu tư phát triển, không vay cho chi thường xuyên.
|
Ảnh minh họa. Nguồn: MPI |
ODA đóng góp tích cực cho đầu tư phát triển của đất nước
Chỉ thị nêu rõ, trong thời gian qua, việc huy động, quản lý và sử dụng vốn vay ODA và vay ưu đãi nước ngoài đều tập trung cho đầu tư các dự án, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và đã có những đóng góp tích cực cho đầu tư phát triển của đất nước, nhất là trong việc phát triển cơ sở hạ tầng giao thông, sản xuất điện, xử lý nước thải, phát triển nông nghiệp, nông thôn, thích ứng với biến đổi khí hậu và xây dựng một số trường học, bệnh viện tuyến Trung ương và tuyến cuối.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc huy động, quản lý và sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi nước ngoài còn có những hạn chế, bất cập như: Một số dự án được đàm phán, ký kết xong nhưng chưa được các bộ, ngành tổng hợp báo cáo cơ quan có thẩm quyền đưa vào Kế hoạch đầu tư công trung hạn, ảnh hưởng đến tiến độ triển khai và giải ngân đã cam kết với nhà tài trợ; chất lượng chuẩn bị dự án chưa đạt yêu cầu, quá trình thực hiện dự án chậm tiến độ làm tăng tổng mức đầu tư và chi phí cho công tác giải phóng mặt bằng; bố trí vốn đối ứng không đầy đủ và kịp thời,...
Để sớm khắc phục những hạn chế, bất cập nêu trên và phát huy hơn nữa vai trò của các nguồn vốn vay ưu đãi nước ngoài cho phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh Việt Nam đã trở thành nước có thu nhập trung bình, nguồn vốn ODA ngày càng hạn hẹp, nguồn vốn vay nước ngoài của Chính phủ hiện nay chủ yếu là vay ưu đãi với lãi suất gần với lãi suất thị trường, việc tăng cường quản lý, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn vay ODA và vay ưu đãi nước ngoài trong tình hình mới là hết sức cần thiết.
Gắn với việc cơ cấu lại đầu tư công và định hướng huy động, sử dụng nguồn vốn
Theo Chỉ thị, việc huy động, quản lý và sử dụng vốn vay ODA và vay ưu đãi nước ngoài phải gắn với việc cơ cấu lại đầu tư công và định hướng huy động, sử dụng nguồn vốn này trong từng thời kỳ, nhất là việc thực hiện Đề án cơ cấu lại đầu tư công giai đoạn 2017 - 2020 và định hướng đến năm 2025 được phê duyệt tại Quyết định số 63/QĐ-TTg ngày 12/01/2018 của Thủ tướng Chính phủ.
Các chương trình, dự án sử dụng vốn vay ODA và vay ưu đãi nước ngoài phải được đồng bộ với kế hoạch đầu tư công trung hạn và kế hoạch vay trả nợ công 5 năm để trình cấp có thẩm quyền phê duyệt. Các bộ, ngành, địa phương khi trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề xuất chương trình, dự án phải xác định rõ cơ chế tài chính đối với chương trình, dự án (cấp phát hoặc cho vay lại hoặc hỗn hợp), làm rõ sự cần thiết đầu tư dự án, quy mô đầu tư, hiệu quả kinh tế - xã hội và trách nhiệm hoàn trả nợ; kiên quyết loại bỏ các chương trình, dự án có hiệu quả kinh tế - xã hội thấp hoặc không rõ ràng.
Việc đàm phán, ký kết các Hiệp định, Thỏa thuận vay phải phù hợp với điều kiện, tiêu chí về hiệu quả kinh tế - xã hội và khả năng trả nợ, không vay vốn đối với các dự án có những điều kiện, quy định gây bất lợi cho Việt Nam.
Vốn vay ODA và vay ưu đãi nước ngoài chỉ được sử dụng cho chi đầu tư phát triển, không sử dụng cho chi thường xuyên
Vốn vay ODA và vay ưu đãi nước ngoài chỉ được sử dụng cho chi đầu tư phát triển, không sử dụng cho chi thường xuyên. Tăng cường trách nhiệm của cơ quan chủ quản, người ra quyết định đầu tư, chủ dự án, người sử dụng vốn. Các bộ, ngành, địa phương có trách nhiệm rà soát các chương trình, dự án đã ký kết và có hiệu lực, đang triển khai thực hiện, cắt giảm các khoản chi mang tính chất quản lý hành chính như mua sắm xe ô tô, thiết bị văn phòng, khảo sát nước ngoài, nâng cao năng lực, quản lý dự án, đảm bảo hiệu quả, tiết kiệm trên cơ sở thống nhất với nhà tài trợ. Không gia hạn thời gian thực hiện đối với cấu phần chi thường xuyên của các chương trình, dự án ODA đang triển khai thực hiện.
Đối với các dự án vay mới, các dự án đang trong giai đoạn chuẩn bị đàm phán ký kết Hiệp định vay, các bộ, ngành, địa phương không sử dụng vốn vay cho chi thường xuyên, chỉ đề xuất sử dụng vốn vay theo các tiêu chí: (i) ưu tiên sử dụng vốn vay cho khoản chi bằng ngoại tệ (chi nhập khẩu/mua sắm hàng hóa, dịch vụ, tư vấn nước ngoài); (ii) khoản chi cho cấu phần xây lắp trong tổng mức đầu tư; (iii) khoản chi có liên quan đến chuyển giao công nghệ; giải trình rõ sự cần thiết vay vốn có yêu cầu ràng buộc của nhà tài trợ về xuất xứ hàng hóa, nhà thầu. Không sử dụng vốn vay để mua sắm ô tô, thiết bị văn phòng, vật tư, thiết bị dự phòng cho quá trình vận hành sau khi dự án hoàn thành, chi đào tạo, hội thảo. Vốn đối ứng được sử dụng để chi chuẩn bị dự án đầu tư, nộp thuế, trả các loại phí, lãi suất tiền vay, chi phí giải phóng mặt bằng, chi phí quản lý dự án theo quy định.
Việc quản lý sử dụng vốn được thực hiện dưới hai hình thức: ngân sách trung ương cấp phát cho chương trình, dự án thuộc nội dung chi của ngân sách trung ương hoặc cho vay lại đối với chương trình, dự án có khả năng thu hồi vốn. Từng bước giảm tỷ trọng cấp phát, tăng tỷ trọng vay về cho vay lại đối với các chương trình, dự án của địa phương thực hiện cơ chế ngân sách nhà nước cấp phát một phần, ngân sách địa phương vay lại một phần theo tỷ lệ do Chính phủ quy định. Các địa phương cần đảm bảo khoản vay lại vốn vay ODA và vay ưu đãi nước ngoài trong phạm vi hạn mức dư nợ được phép theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước và mức vay/trả nợ trong năm được Quốc hội phê duyệt. Việc vay vốn để bù đắp bội chi ngân sách là ưu tiên hàng đầu; việc vay về cho vay lại phải được đánh giá, thẩm định đảm bảo hiệu quả và chỉ thực hiện khi còn dư địa nợ công. Các ngành, lĩnh vực đã tiếp cận được các nguồn vốn vay thương mại thì cần định hướng áp dụng phương thức tự vay, tự trả, Chính phủ không vay về để cho vay lại.
Đối với các chương trình, dự án sau khi ký kết Hiệp định/Thỏa thuận vay phải được tổng hợp báo cáo cấp có thẩm quyền đưa vào Kế hoạch đầu tư công trung hạn, bố trí dự toán ngân sách hàng năm để có thể giải ngân vốn theo tiến độ đã cam kết. Cơ quan kiểm soát chi thực hiện kiểm soát chi, đảm bảo giải ngân trong phạm vi dự toán.
Các bộ, ngành, địa phương cần có đánh giá chi phí khoản vay, theo đó ưu tiên sử dụng các khoản vay ODA, vay ưu đãi với chi phí thấp cho cấp phát ngân sách nhà nước; đối với khoản vay ưu đãi sát với lãi suất thị trường chỉ xem xét cho nhu cầu vay về cho vay lại đối với các dự án có hiệu quả, có đủ khả năng hoàn trả vốn vay. Hạn chế sử dụng nguồn vốn vay ưu đãi cho nhu cầu chi từ ngân sách trung ương trên nguyên tắc chỉ áp dụng đối với dự án thực sự cấp bách đã nằm trong Kế hoạch đầu tư công trung hạn được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Các bộ, ngành, địa phương tăng cường công tác quản lý, giám sát, thực hiện chế độ báo cáo đánh giá định kỳ về mọi hoạt động quản lý, sử dụng vốn ODA, vốn vay ưu đãi nước ngoài, báo cáo cấp có thẩm quyền, Thủ tướng Chính phủ và công khai nợ công, nợ Chính phủ, nợ chính quyền địa phương theo quy định của pháp luật. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của các cơ quan thanh tra, kiểm toán.
Công khai các thông tin về khung điều kiện vay ODA, vay ưu đãi của các nhà tài trợ chủ yếu
Về phân công tổ chức thực hiện, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ Tài chính công khai các thông tin về khung điều kiện vay ODA, vay ưu đãi của các nhà tài trợ chủ yếu để các bộ, ngành, địa phương, chủ dự án, các tổ chức, cơ quan, các doanh nghiệp làm cơ sở tính toán khi quyết định đăng ký đề xuất dự án dự kiến sử dụng vốn vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài theo quy định của Luật Quản lý nợ công. Xây dựng Kế hoạch vay, trả nợ công 5 năm, chương trình quản lý nợ công trung hạn 3 năm và kế hoạch vay, trả nợ công hằng năm, báo cáo cấp thẩm quyền phê duyệt và tổ chức giám sát thực hiện. Thực hiện giải ngân, rút vốn, kiểm soát chi bảo đảm trong dự toán được duyệt. Trao đổi, thống nhất với nhà tài trợ về cơ chế áp dụng tỷ giá thanh toán bằng nguồn vốn vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư có nhiệm vụ chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính và các cơ quan liên quan nghiên cứu, xây dựng trình Chính phủ ban hành Nghị định thay thế Nghị định số 16/2016/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý và sử dụng vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài và Nghị định số 132/2018/NĐ-CP của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 16/2016/NĐ-CP để phù hợp với Luật đầu tư công (sửa đổi) đã được Quốc hội thông qua. Đồng thời chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính và các bộ, ngành, địa phương lựa chọn chương trình, dự án phù hợp với nguyên tắc, định hướng thu hút vốn vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài giai đoạn 2018 - 2020, tầm nhìn 2021 - 2025 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1489/QĐ-TTg để trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề xuất chương trình, dự án.
Các bộ, ngành, địa phương xây dựng danh mục dự án đầu tư phát triển ưu tiên, tập trung đầu tư kết cấu hạ tầng
Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành, địa phương xây dựng danh mục dự án đầu tư phát triển ưu tiên, tập trung đầu tư kết cấu hạ tầng, trong đó cân nhắc kỹ về hiệu quả, quy mô dự án khi đề xuất sử dụng vốn vay ưu đãi. Chỉ vay theo phương thức chỉ định nhà cung cấp, nhà thầu của nhà tài trợ nước ngoài trong trường hợp chứng minh hàng hóa, thiết bị của nhà tài trợ nước ngoài có ưu thế vượt trội về công nghệ. Rà soát các chương trình, dự án sử dụng vốn ODA, vay ưu đãi nước ngoài, đánh giá khả năng bố trí nguồn vốn trả nợ và bố trí vốn đối ứng, hiệu quả kinh tế - xã hội của dự án, khả năng trả nợ của địa phương, chủ dự án, trường hợp các dự án thẩm định không hiệu quả thì không đề xuất triển khai; ưu tiên tập trung nguồn vốn vay ODA cho các công trình, dự án trọng điểm có sức lan tỏa lớn và giải quyết các vấn đề phát triển của quốc gia, vùng và liên vùng. Không sử dụng vốn vay nước ngoài để nộp thuế, trả các loại phí, lãi suất tiền vay; không sử dụng vốn vay để mua sắm ô tô, vật tư, thiết bị dự phòng cho quá trình vận hành sau khi dự án hoàn thành. Chi phí giải phóng mặt bằng, chi phí quản lý dự án, các khoản thuế, chi phí lãi suất, các khoản phí nước ngoài thu trong thời gian xây dựng phải được bố trí từ vốn đối ứng theo quy định, không sử dụng vốn vay.
Các bộ, ngành, địa phương phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong việc bố trí đủ vốn (vốn đối ứng trong nước) cho các chương trình, dự án nguồn vốn ODA, vay ưu đãi nước ngoài trong Kế hoạch đầu tư công trung hạn và dự toán ngân sách hằng năm, trong việc bố trí đủ vốn đối ứng trong nước cho các chương trình, dự án vốn ODA, vốn vay ưu đãi nước ngoài gồm cả vốn đối ứng từ ngân sách trung ương hỗ trợ có mục tiêu, nguồn cân đối ngân sách địa phương và các nguồn vốn hợp pháp khác./.
Minh Hậu
Bộ Kế hoạch và Đầu tư