(MPI) – Xây dựng quy trình có hệ thống về lập kế hoạch, dự toán ngân sách và theo dõi các khoản chi dành cho ứng phó với biến đổi khí hậu là yếu tố quan trọng giúp triển khai, kiểm soát và đánh giá hiệu quả các chính sách liên quan tới biến đổi khí hậu (BĐKH) của Chính phủ.
|
Ảnh minh họa. Nguồn: MPI |
Các khoản chi về BĐKH trong chu trình lập kế hoạch và dự toán ngân sách
Theo Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, chi cho BĐKHnên được kết nối một cách rõ ràng với chính sách ứng phó với BĐKH, được xác định và thẩm định trong chu trình lập kế hoạch và dự toán ngân sách. Quá trình lập kế hoạch các hoạt động thích ứng và giảm nhẹ nên được xác định là một bộ phận không thể tách rời trong kế hoạch của ngành và địa phương.
Xác định ưu tiên trong quá trình lập kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Chính phủ cần thực hiện thí điểm thiết lập các ưu tiên chiến lược tổng quát cho các khoản chi về ứng phó với BĐKH thành một phần của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2016-2020. Thông tin và những phát hiện của Báo cáo Đánh giá Chi tiêu và Đầu tư công cho BĐKH giúp quyết định phân bổ ngân sách cho các nỗ lực thích ứng và giảm nhẹ cũng như triển khai tại các ngành và địa phương. Phân loại tất cả các khoản chi cho BĐKH liên quan đến các chương trình của ngành và địa phương, cùng với chính sách ngành về ứng phó với BĐKH và phát triển thể chế giúp xác định rõ các sáng kiến trong dài hạn. Điều này, giúp xác định các ưu tiên tổng quát giữa thích ứng và giảm nhẹ cũng như giữa các yêu cầu tiến hành các hoạt động khác nhau nhằm ứng phó với BĐKH hướng tới cả hai mục tiêu trên.
Nỗ lực lớn để rà soát chính sách ngành sẽ đưa ra hướng dẫn tốt hơn cho công tác lập kế hoạch và dự toán ngân sách hằng năm. Khi có số liệu đầy đủ hơn về chi tiêu ứng phó với BĐKH, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Tài chính có thể bắt đầu xác định mức chi tối đa cho tất cả các hạng mục chi cho BĐKH một cách rõ ràng, cụ thể hơn và dựa trên cơ sở thực chứng, mặc dù mất vài chu kỳ lập kế hoạch và dự toán ngân sách hằng năm mới thiết lập được tỷ lệ tài khóa chi cho ngành và địa phương trong điều kiện có sự khác biệt về các nhiệm vụ chính trị. Do quá trình được xây dựng ở cấp ngành và cấp tỉnh, Bộ Tài nguyên và Môi trường cần đóng vai trò kỹ thuật quan trọng trong đánh giá tác động của hành động ứng phó với BĐKH của các chương trình và dự án, trên cơ sở đó phản hồi lại để điều chỉnh trong tương lai gói chi đã được thỏa thuận.
Theo thời gian, các trần ngân sách cho ứng phó với BĐKH hằng năm cần được xây dựng để hướng dẫn việc chuẩn bị các dự án ứng phó BĐKH ở cấp tỉnh và cấp Bộ,ngành. Khi có đầy đủ hơn các dữ liệu về tất cả các khoản chi ứng phó với BĐKH, khuyến nghị Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Tài chính thí điểm xây dựng trần chi tiêu dựa trên thực tế chi tiêu cho tất cả các hoạt động ứng phó với BĐKH. Các trần chỉ thị được kết nối với các mục tiêu và lịch sử thực hiện là hướng dẫn cần thiết cho việc chuẩn bị dự án ở cấp tỉnh và Bộ ngành, mặc dù mất vài chu kỳ lập kế hoạch và dự toán ngân sách để xây dựng tỷ lệ này trong gói tài khóa cho ngành và tỉnh. Khi chu trình đã được xây dựng ở cấp tỉnh và bộ ngành, Bộ Tài nguyên và Môi trường có vai trò quan trọng về kỹ thuật để đánh giá tác động của ứng phó với BĐKH của các chương trình và dự án, trên cơ sở đó phản hồi lại để điều chỉnh trong tương lai gói chi đã được thỏa thuận.
Các chương trình có tiềm năng liên quan tới ứng phó với BĐKH nên là một phần của quá trình lập kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Các dự án ưu tiên cần được xem xét trong chu trình lập kế hoạch hằng năm. Trong quá trình thảo luận chiến lược về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, cần khuyến khích các Bộ và các tỉnh thí điểm, đặc biệt là Bộ Giao thông vận tải, Bộ Xây dựng, Bộ Công Thương xem xét các chính sách theo mô hình phát triển bình thường và chương trình ứng phó với BĐKH theo kịch bản.
Thỏa thuận về Hướng dẫn lập kế hoạch và phân bổ ngân sách chi cho ứng phó với BĐKH, đưa ra hướng dẫn chung được thỏa thuận về khả năng chi cho ứng phó với BĐKH trong từng giai đoạn kế hoạch. Cách làm này đã áp dụng khá tốt đối với qui hoạch ngành, nhưng các mục tiêu ngành vẫn chưa nhấn mạnh sự cần thiết xác định các mục tiêu và nguồn lực cần thiết cho ứng phó với BĐKH.
Báo cáo Đánh giá đầu tư và chi tiêu công cho BĐKH sẽ hỗ trợ cho quá trình này bằng cách khuyến nghị ý tưởng ban đầu, mặc dù có thể còn chưa đầy đủ, về mức chi tại trung ương và chỉ ra sự cần thiết phải khuyến khích các Bộ và địa phương ứng phó với BĐKH thông qua đối thoại và hướng dẫn họ trong quá trình lập kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Giám sát và đánh giá hiệu quả có tính chiến lược đóng vai trò quan trọng nhằm tạo độ tin cậy của chính sách ứng BĐKH
Theo Báo cáo, để áp dụng tiêu chí phân loại chi tiêu trong quá trình chuẩn bị ngân sách, các Bộ ngành và địa phương phải xác định các dự án phù hợp với hướng dẫn về ứng phó với BĐKH và do vậy sẽ giúp đẩy mạnh việc lồng ghép các dự án của ngành và địa phương trong chính sách ứng phó với BĐKH. Các gói kế hoạch và dự toán ngân sách nên có mục đích cuối cùng là bao gồm tất cả các khoản chi liên quan tới ứng phó BĐKH ở tất cả các cấp và từ tất cả các nguồn.
Hiện nay, số liệu về các nỗ lực ứng phó BĐKH đang rất phân tán tại nhiều chương trình mục tiêu và theo nhiều cấp khác nhau. Nếu áp dụng toàn bộ cách Phân loại chi tiêu cho ứng phó với BĐKH với tất các các khoản chi liên quan đến lĩnh vực này từ các nguồn trong nước và nước ngoài cho phép phối hợp tốt hơn những nỗ lực nêu trên và xác định các lỗ hổng trong xác định nhu cầu giải quyết thích ứng và giảm nhẹ.
Tuy nhiên, Chính phủ cần có đủ thông tin về các khoản chi ứng phó với BĐKH do nước ngoài tài trợ hiện nằm ngoài chu trình của ngân sách nhà nước. Tăng cường sử dụng hệ thống TABMIS trong hạch toán và báo cáo nguồn vốn ODA và chi tiêu của chính phủ và cân đối kịp thời hơn các khoản chi ODA trong các báo cáo tài chính hằng năm sẽ giúp đạt được mục tiêu. Tuy nhiên, các nỗ lực giảm nhẹ sẽ liên quan tới một loạt các công cụ tài khóa, vì vậy lập kế hoạch và dự toán ngân sách cho giảm nhẹ cần được xem xét một cách rộng hơn so với chi tiêu ngân sách. Cải thiện hướng dẫn lập kế hoạch và lập dự án.
Việc xác định ưu tiên cần hỗ trợ và nêu bật sự liên quan đến BĐKH của những dự án trong khuôn khổ các mục tiêu chính sách về BĐKH cấp quốc gia và địa phương. Như vậy, có rất ít dự án tập trung toàn bộ cho BĐKH. Do đó, việc xác định ưu tiên cần bao quát một phạm vi rộng, gồm xem xét cả các mục tiêu phát triển và giảm nghèo có liên quan đến BĐKH.
Cần tăngcường hướng dẫn xác định mục tiêu dự án trong từng ngành nhằm chú trọng hơn nữa công tác thiết kế dự án, chương trình và chính sách có tiềm năng về ứng phó với BĐKH và kết hợp với các tác động giảm nghèo nhằm tạo ra lợi thế cạnh tranh để được đưa vào kế hoạch và dự toán ngân sách hằng năm. Khung hướng dẫn lựa chọn ưu tiên thích ứng với BĐKH đã được Bộ Kế hoạch và Đầu tư ban hành nhằm hỗ trợ quá trình thẩm định dự án thích ứng với BĐKH và giúp xác định các ưu tiên trong số các dự án và chương trình về thích ứng với BĐKH trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Giám sát và đánh giá hiệu quả có tính chiến lược đóng vai trò quan trọng nhằm tạo độ tin cậy của chính sách ứng BĐKH. Quá trình giám sát và đánh giá cần được tiến hành ở cấp độ thực hiện dự án và chương trình trong từng ngành và ở cấp chính sách cao để đánh giá tổng thể tác động của các nỗ lực chính sách về thích ứng và giảm nhẹ. Thiết kế một hệ thống giám sát và đánh giá về ứng phó với BĐKH là một quá trình phức tạp do bản chất liên ngành và lồng ghép của vấn đề ứng phó với BĐKH. Nhưng, trước mắt có thể bắt đầu thiết lập một hệ thống giám sát và đánh giá bằng cách trước tiên tập trung cho tăng cường năng lực và các chỉ tiêu quan trọng có ý nghĩa chiến lược ở tất cả các cấp thực hiện. Đối với các dự án và chương trình cấp ngành, quá trình giám sát và đánh giá cần kết nối rõ ràng với công tác lập kế hoạch, dự toán ngân sách và các yếu tố phân loại ứng phó với BĐKH, bằng cách xác định một loạt các chỉ tiêu đầu ra và kết quả chủ yếu kỳ vọng đạt được ở cấp độ đó, bắt đầu với các chương trình chiếm tỉ lệ lớn trong chi tiêu dành cho BĐKHcủa Việt Nam.
Giám sát và đánh giá cấp độ chính sách cần tổng hợp dữ liệu từ cấp dự án và chương trình. Vì vậy, cần chú ý kết nối các kết quả đầu ra của dự án để đạt được các mục tiêu chính sách đã đề ra trong Chiến lược quốc gia về BĐKH và Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, đồng thời xác định các chỉ tiêu đánh giá kết quả thực hiện quan trọng nhằm đánh giá mức độ phù hợp của các khoản chi với các mục tiêu chính sách. Dựa vào phân tích ở cấp vĩ mô các hoạt động liên quan đến giảm mức độ tổn thương, quản lý rủi ro, giảm phát thải khí nhà kính, giám sát và đánh giá cần hướng tới đánh giá mức độ đáp ứng mục tiêu chính sách về thích ứng và giảm nhẹ của các khoản chi tiêu tại các ngành. Muốn vậy, cần xác định một số chỉ tiêu đánh giá kết quả hoạt động quan trọng (KPIs) cho từng mục tiêu của từng ngành. Các mục tiêu giảm nhẹ liên quan đến áp dụng công nghệ sạch, sử dụng năng lượng tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính... tương đối dễ xác định, nhưng khả năng đo lường thì khó hơn. Kết quả về thích ứng ở mức độ cao hơn thường phức tạp hơn và mang đặc điểm của từng ngành…
Báo cáo đưa ra khuyến nghị trong thời gian tới, Chính phủ Việt Nam nên tiến hành đánh giá năng lực hiện thời và xây dựng hệ thống giám sát và đánh giá gắn với ứng phó với BĐKH và xác định các chỉ tiêu đánh giá kết quả thực hiện quan trọng để đánh giá tác động ứng phó với BĐKH theo thực tiễn tốt quốc tế.Cần xác định các chỉ tiêu chiến lược quan trọng và đa cấp, không ngừng nỗ lực thiết lập một hệ thống giám sát và đánh giá hiệu quả, trong đó Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Tài nguyên và Môi trường đóng vai trò hỗ trợ. Triển khai hệ thống giám sát và đánh giá cần dẫn tới việc đạt được một cách hiệu quả các kết quả, tác động mong muốn, nhưng chỉtập trung vào các chỉ tiêu cốt lõi, tránh đi sâu vào chi tiết.
Trước hết, các bộ và địa phương cần thiết lập các hệ thống giám sát và đánh giá được vận hành trong thực tế, trước tiên coi đó là một phần của kế hoạch làm việc của bộ và địa phương. Việc này cần xác định một số kết quả và mục tiêu đầu ra chiến lược và có thể đo đếm được đối với tất cả các hoạt động và báo cáo thường xuyên về bộ chủ quản. Ngược lại, các báo cáo này cũng cần được chuyển đến các bộ điều phối liên quan để đánh giá cũng như cải thiện việc tuân thủ báo cáo. Cần nâng cao năng lực ở tất cả các cấp để thiết lập một hệ thống giám sát và đánh giá hoàn chỉnh và thực hiện được, có thể cung cấp và tổng hợp thông tin về những kết quả liên quan tới các kết quả chính của công tác ứng phó với BĐKH, có khả năng so sánh với dữ liệu cơ sở về tính dễ tổn thương và dữ liệu về chi tiêu, qua đó cho phép đánh giá thực chất hiệu quả chi ngân sách quốc gia cho BĐKH.
Các công cụ pháp lý và hệ thống theo dõi hiện hành có thể hỗ trợ xây dựng một qui trình GS&ÐG có hệ thống và thực tiễn. Tất cả các đánh giá môi trường chiến lược cho chiến lược và kế hoạch 5 năm hoặc lâu hơn nữa, bao gồm cả kế hoạch phát triển của tỉnh và ngành đều cung cấp những thông tin hữu ích và cần thiết. Các báo cáo đánh giá cung cấp nguồn thông tin dữ liệu dồi dào về tác động tới môi trường mà ta có thể kết hợp với các nguồn thông tin khác để minh họa cho các thay đổi đã xảy ra, một phần do tác động của các chương trình của Chính phủ. Tương tự, báo cáo đánh giá tác động môi trường của các dự án cũng cung cấp thông tin hữu ích về những thay đổi môi trường có thể được sử dụng một cách hệ thống hơn…
Lập kế hoạch và dự toán ngân sách cần được phối hợp hiệu quả
Báo cáo Đánh giá chi tiêu và đầu tư công cho BĐKH khuyến nghị thực hiện các giải pháp tức thời để xây dựng một cơ chế lập kế hoạch và dự toán ngân sách cho ứng phó với BĐKH, bắt đầu trên cơ sở thí điểm. Việc thực hiện thí điểm sẽ tiến hành với các bộ ngành và các tỉnh đã tham gia thực hiện CPEIR và cần gắn chặt với quá trình xây dựng Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hộigiai đoạn 2016-2020 cũng như chu trình kế hoạch và lập dự toán hằng năm gồm các bước cụ thể: Chỉnh sửa hướng dẫn tiêu chí phân loại chi tiêu và tăng cường năng lực cho các bộ ngành và các tỉnh; Bộ Kế hoạch và Đầu tư bắt đầu xây dựng hướng dẫn chiến lược cho chi tiêu ứng phó với BĐKH và lồng ghép các chính sách BĐKH trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2016-2020; Bộ Kế hoạch và Đầu tư ban hành Hướng dẫn phân loại chi tiêu cho ứng phó với BĐKH, yêu cầu tất cả các dự án liên quan tới BĐKH phải được phân loại, xác định được mục tiêu, các chỉ tiêu và các mốc thực hiện.
Đây là các bước cần thiết để xây dựng một chu trình lập kế hoạch và dự toán ngân sách về BĐKH có hệ thống, minh bạch và dựa trên cơ sở bằng chứng. Các bước đề xuất sẽ là khởi đầu tốt giúp cải thiện các thủ tục chính. Tuy nhiên việc thực hiện các bước này đòi hỏi phải có sự phối hợp hành động hiệu quả hơn trong nội bộ Chính phủ Việt Nam cũng như giữa Chính phủ với các đối tác phát triển. Trong quá trình lập kế hoạch và dự toán ngân sách cần lưu ý đến các chính sách cụ thể liên quan tới thích ứng và giảm nhẹ.
Tăng cường phối hợp lập kế hoạch và ngân sách. Cần tăng cường điều phối giữa các ngành, vùng và địa phương. Cung cấp thông tin kịp thời và có độ tin cậy cao cho tất cả các bên liên quan tới việc ra quyết định phân bổ ngân sách cho ứng phó BĐKH sẽ giúp giải quyết một số căng thẳng trong quá trình phân cấp hiện đang dần được hoàn thiện.
Nâng cao năng lực, kể cả tăng cường tiếp thu kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn tốt nhất từ các dự án ODA khác trên thế giới sẽ giúp tăng cường phối hợp, đặc biệt là tại cấp tỉnh. Muốn phối hợp tốt đòi hỏi phải tăng cường năng lực, nhất là tại cấp tỉnh. Cần nắm vững quy trình lập kế hoạch liên quan tới các mục tiêu BĐKH để có thể phối hợp tốt giữa công tác lập kế hoạch và dự trù ngân sách với các mục tiêu BĐKH. Điều này càng quan trọng khi áp dụng cách tiếp cận cấp vùng nhằm nâng cao hiệu quả ứng phó với BĐKH. Tuy nhiên, nâng cao năng lực cũng sẽ trực tiếp dẫn tới nâng cao chất lượng công tác giám sát và đánh giá, một công cụ quan trọng giúp đảm bảo hiệu quả ứng phó với BĐKH. Thiết kế các chương trình nâng cao năng lực nhằm tăng cường phối hợp trong khuôn khổ giám sát và đánh giá có thể mang lại kết quả tốt nhất. Các hoạt động do ODA tài trợ nên được lồng ghép hiệu quả hơn vào các hoạt động thường xuyên của quốc gia nhằm đẩy mạnh khả năng tiếp thu thông lệ và kinh nghiệm quốc tế.
Lập kế hoạch và dự toán ngân sách cần được phối hợp hiệu quả hơn - đặc biệt thông qua cân đối giữa đầu tư mới và nâng cao hiệu quả hoạt động và năng lực quản lý trong điều kiện tài khóa cho phép. Phân loại chi tiêu cho ứng phó với BĐKH nêu bật sự cần thiết phải hỗ trợ cũng như triển khai các hoạt động nhằm xử lý vấn đề BĐKH. Tuy nhiên, ngân sách chi thường xuyên thường không đủ đáp ứng chi phí vận hành và bảo dưỡng các tài sản đó. Nhìn chung, xác định ưu tiên cho ứng phó với BĐKH được chắc chắn khẳng định trong điều kiện tài khóa cho phép của một khung thời gian trung hạn rõ ràng. Có thể cho thấy vấn đề này thông qua những cải cách quản trị tài chính công hiện đang được tiến hành, nhất là qua xây dựng khung tài khóa và chi tiêu trung hạn (MTFF và MTEF) cuốn chiếu.
Các đối tác phát triển cần sử dụng TABMIS nhiều hơn nữa trong việc lập ngân sách, giải trình và báo cáo về các nguồn vốn cung cấp cho Việt Nam để chi cho ứng phó với BĐKH. Việt Nam thể hiện mong muốn áp dụng các quy trình, thủ tục trong nước cho nguồn vốn ODA. Tuy nhiên, nỗ lực đối chiếu các khoản chi ODA nằm ngoài ngân sách và tài khoản TABMIS với hệ thống quản lý nợ và phân tích tài chính (DMFAS) vẫn còn chậm. Tuy cần cố gắng đảm bảo yếu tố kịp thời nhưng cũng cần thực hiện các giao dịch ODA trên TABMIS càng nhiều càng tốt.
Lập kế hoạch và cấp vốn cho chính sách thích ứng
Việc lập kế hoạch, cấp vốn và thực thi chính sách thích ứng với BĐKH đòi hỏi phải ứng phó hiệu quả trước những rủi ro ngày càng tăng liên quan đến BĐKH. Phân tích các chương trình, chính sách quản lý rủi ro, tăng cường khả năng phục hồi trước BĐKH và thích ứng với BĐKH của Chính phủ Việt Nam. Nhiều chương trình và chính sách đã hướng sự tập trung của các bộ vào công tác ứng phó với BĐKH, một số chương trình và chính sách khác góp phần tăng cường cơ sở thông tin giúp đánh giá mức độ dễ bị tổn thương do BĐKH và nhiều chương trình đưa ra các phương pháp xác định, thẩm định và xác định ưu tiên cho các dự án và hoạt động. Một khối lượng lớn công việc được triển khai gần đây liên quan tới hoạt động thích ứng đã tạo nền tảng vững chắc cho công tác này. Đánh giá mức độ tổn thương quốc gia Đánh giá rủi ro và khả năng dễ bị tổn thương liên quan đến khí hậu là bước khởi đầu quan trọng nhằm xây dựng một khuôn khổ thực hiện chính sách thích ứng. Đã có nhiều công sức nhằm xây dựng các kịch bản cơ bản và đánh giá mức độ tổn thương và rủi ro do BĐKH cho các vùng miền và các ngành tại Việt Nam. Những đánh giá này xác định các lĩnh vực dễ bị tổn thương nhất do ảnh hưởng của BĐKH và theo đó là một số chương trình gần đây chủ yếu đánh giá việc thực thi chính sách.
Tuy vậy, nghiên cứu mức độ tổn thương cần được tiến hành với tất cả các ngành và địa phương có liên quan nhằm xác định và chuẩn bị đầy đủ phương tiện ứng phó với tính dễ bị tổn thương do BĐKH. Cần thể chế hóa qui trình này nhằm đảm bảo việc tăng cường khả năng chống chịu phù hợp với các kịch bản được cập nhật về BĐKH.Ví dụ có thể thực hiện thông qua các văn bản dưới luật chuyên ngành, hướng dẫn đưa vấn đề ứng phó với BĐKH vào trong các hoạt động can thiệp. Ứng phó với tính dễ tổn thương do BĐKHbao gồm các hành động thích ứng tại một số Bộ,ngành cũng như các biện pháp quản lý và giảm thiểu rủi ro.
Một số chương trình ứng phó với biến đổikhí hậu cung ứng dịch vụ thông qua các doanh nghiệp nhà nước cấp trung ương hoặc cấp tỉnh theo hình thức chi trực tiếp hoặc có sự kết hợp với ngân sách chính phủ. Cách thức này phổ biến hơn trong các hoạt động giảm nhẹ, nhưng cũng được áp dụng trong một số hoạt động thích ứng. Vấn đề sẽ trở nên phức tạp hơn trong trường hợp giảm nhẹ, nhưng khi có sự tham gia của doanh nghiệp nhà nước thì việc diễn giải dữ liệu về các khoản chi sẽ trở nên khó khăn hơn, sự cần thiết phải tiến hành các nghiên cứu chi tiết hơn cho các ngành và địa phương nơi các DNNN chịu trách nhiệm chính trong thực hiện chính sách.
Kết nối chính sách giảm nhẹ với hành động giảm phát thải khí nhà kính và các mục tiêu tăng trưởng xanh
Theo Báo cáo, việc thực thi chính sách giảm nhẹ cần dựa trên bằng chứng và kết nối với nỗ lực toàn cầu. Tuy nhiên, vì những lýdo trên, những quan ngại về thực thi nội dung giảm nhẹ trong các chính sách ứng phó với BĐKH hay tăng trưởng xanh rất khác với chính sách thích ứng. Các hoạt động giảm nhẹ liên quan nhiều đến sự tiến triển của các sáng kiến toàn cầu về giảm nhẹ, thuế, các chính sách ưu đãi và năng lượng, chính sách doanh nghiệp nhà nước hơn là chi đầu tư trực tiếp. Rất nhiều trong số các vấn đề này liên quan đến các vấn đề chính sách phức tạp và chỉ có thể giải quyết liên tục; thực thi các chính sách đó cũng có mức độ không chắc chắn và rủi ro cao hơn các chính sách thích ứng. Thêm vào đó, nhiều vấn đề được giải quyết nằm ngoài chu trình chuẩn về lập kế hoạch và dự toán ngân sách. Các yếu tố này không làm mất đi tầm quan trọng của công tác giảm nhẹ mà chỉ ra để thực thi các chính sách giảm nhẹ sẽ cần tiến hành các cuộc thảo luận chính sách phức tạp hơn, nghiên cứu trong khoảng thời gian lâu hơn và mức độ không chắc chắn cũng cao hơn so với thích ứng. Điều đó ảnh hưởng tới cách thức và mức độ chi tiêu công thực tế cần thiết để xây dựng các chính sách giảm phát thải khí nhà kính hiệu quả.
Một điểm khởi đầu cho chính sách giảm nhẹ quốc gia là xác định, nhận biết và theo dõi lượng phát thải khí nhà kính. Thông tin chi tiết về xây dựng một hệ thống giám sát, báo cáo và thẩm định (MRV) nhằm theo dõi và báo cáo về lượng khí thải, trong đó đã ghi nhận rằng mặc dù Chính phủ Việt Nam đặt ưu tiên hàng đầu cho vấn đề thích ứng nhưng cũng thể hiện cam kết theo đuổi chính sách tăng trưởng ít phát thải cácbon, thể hiện qua việc thông qua Chiến lược tăng trưởng xanh và đã đặt ra những mục tiêu đầy tham vọng về giảm nhẹ cho đến năm 2030.
Đồng thời, cần kết nối chính sách giảm nhẹ với hành động giảm phát thải khí nhà kính và các mục tiêu tăng trưởng xanh của toàn cầu và quốc gia. Giảm nhẹ là vấn đề phức tạp và liên quan đến nhiều bên. Các bước để củng cố hơn nữa chính sách giảm nhẹ của chính phủ Việt Nam cũng như chỉ ra các rào cản chính và rủi ro trên con đường phía trước nhằm xác định vai trò của chi tiêu công và chính sách tài khóa trong quá trình thực thi các chính sách này.
Chính sách tài khóa cho khí hậu, huy động vốn đầu tư công và đầu tư tư nhân vào các dự án ít phát thải các-bon và xây dựng khái niệm neo giá các-bon Nguyên tắc năng lượng hóa thạch tạo ra chi phí toàn cầu có ý nghĩa quan trọng đối với chính sách giảm nhẹ. Việc xác định chi phí phát thải các-bon liên quan đến một loạt giải pháp tài khóa vượt quá phạm vi chi tiêu. Rõ ràng là chính sách giảm nhẹ dựa trên thuế hoặc giá thị trường đã gặp phải sự chống đối mạnh mẽ từ các nhóm lợi ích tại tất cả các nước mà chính sách đó được đề xuất. Nhưng cần vượt qua những rào cản về kinh tế chính trị này nếu muốn thực hiện chính sách giảm nhẹ thành công trong dài hạn dù ở cấp quốc gia hoặc toàn cầu. Các nỗ lực cấp quốc gia tại Việt Nam trong việc đem lại những lợi ích trực tiếp nhằm giảm tính dễ bị tổn thương của năng lượng, tuy còn nhỏ so với qui mô toàn cầu, nhưng có thể tạo ra tác động đáng kể trên thế giới nếu dựa trên các nguyên tắc rõ ràng và được áp dụng nhất quán. Các chính sách tài khóa hiện nay đang đi đúng hướng nhưng xét về tổng thể lại không hoàn toàn nhất quán với nhau.
Các giải pháp nhằm thiết lập cơ chế một chính sách giảm nhẹ nhất quán cần phải giải quyết những vấn đề sau: Có sự bù đắp chi phí khi định giá năng lượng và cắt giảm tất cả các hình thức trợ giá (kể cả trợ giá gián tiếp). Tại Việt Nam vẫn tồn tại trợ giá gián tiếp dù trợ giá trực tiếp đã giảm. Các nguồn nhiên liệu rẻ tiền trong nước được xem là biện pháp dễ mang lại ích lợi cho người dân. Tuy nhiên, những lập luận về mặt kinh tế chống lại quan điểm này cũng rất hợp lý: chi phí thực của nhiên liệu rẻ trong nước chính là mức giá có thể định ra trên thị trường thế giới chứ không phải chỉ dựa vào chi phí sản xuất trong nước. Hỗ trợ nhóm thu nhập thấp hơn. Chi phí nhiên liệu thấp hơn có thể có lợi cho người giàu. Giá thấp làm tăng cầu đối với nhiên liệu hóa thạch, khiến cầu liên tục tăng và gây áp lực lên ngân sách quốc gia và các chính sách năng lượng.
Đồng thời, cần tăng cường và thống nhất tổ chức bộ máy về tài chính thông qua hoàn thiện công tác lập kế hoạch, dự toán ngân sách, phát triển chiến lược GS&ÐG và tăng cường điều phối liên bộ. Hình thành ngân sách cho khí hậu, theo dõi thực chi, tiến hành giám sát và đánh giá cơ bản, điều phối hiệu quả tất cả các hoạt động này sẽ tạo cơ sở giúp xác định những chồng chéo và thiếu hụt tài chính. Thay vì hàng loạt chương trình và chiến lược cạnh tranh với nhau để được phân bổ vốn từ nguồn hiện có, kết quả ngân sách và Báo cáo về khí hậu cần được đánh giá nhằm thu hẹp phạm vi cơ chế tài chính sao cho tập trung vào các mục tiêu và nguồn vốn cụ thể hơn. Một cơ chế toàn diện sẽ giúp thu hút vốn và tạo cơ sở cho việc thiết kế cơ chế tài chính phù hợp với nhu cầu của Việt Nam./.
Mai Phương
Bộ Kế hoạch và Đầu tư