(MPI) – Ngày 02/3/2020, Chính phủ có Báo cáo số 68/BC-CP gửi Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc tiếp thu, giải trình ý kiến các Đại biểu Quốc hội về dự án Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP) tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIV. Trong đó, 10 nhóm ý kiến chủ yếu được Chính phủ tiếp thu, giải trình.
|
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng giải trình, làm rõ một số vấn đề đại biểu Quốc hội quan tâm về dự thảo Luật PPP tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIV. Ảnh: quochoi.vn
|
Thứ nhất, về mối quan hệ giữa Luật PPP và các Luật liên quan, được quy định tại khoản 2 Điều 3 dự thảo Luật, nhiều Đại biểu Quốc hội thống nhất việc cần phải có quy định nội dung khác biệt, bên cạnh đó một số Đại biểu nêu yêu cầu rà soát lại, tuân thủ quy định của Điều 56 Luật Ban hành văn bản pháp luật.
Tại Tờ trình số 446/TTr-CP ngày 07/10/2019, Chính phủ báo cáo Quốc hội kết quả rà soát sự thống nhất, đồng bộ giữa dự thảo Luật PPP và các Luật liên quan, đã chỉ rõ các nội dung thống nhất với các Luật và các nội dung đặc thù cần sự khác biệt.
Trong quá trình hoàn thiện, Chính phủ sẽ phối hợp với các Ủy ban của Quốc hội tiếp tục rà soát sự thống nhất, đồng bộ giữa Luật PPP và các Luật liên quan cũng như các Luật đang sửa đổi: Đầu tư, Doanh nghiệp, Xây dựng, Đất đai.
Tuy nhiên, Chính phủ kiến nghị bảo lưu nội dung tại khoản 2 Điều 3 dự thảo Luật, do quy định này được xem xét như một sự cam kết, khẳng định của Nhà nước với nhà đầu tư các nội dung đặc thù áp dụng trực tiếp cho dự án PPP được triển khai theo Luật PPP, tạo niềm tin vững chắc cho nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư dài hạn.
Thứ hai, về lĩnh vực và quy mô đầu tư dự án PPP. Đối với lĩnh vực đầu tư, quy định tại khoản 1 Điều 5 dự thảo Luật được kế thừa có chọn lọc từ pháp luật hiện hành và thực tiễn triển khai thời gian qua. Các Đại biểu Quốc hội ý kiến tập trung 3 nhóm quan điểm: Đa số ý kiến thống nhất như đề xuất của Chính phủ - hạn chế lĩnh vực và giao Thủ tướng Chính phủ quyết định bổ sung trường hợp xuất hiện dự án ngoài lĩnh vực quy định; Cần hạn chế lĩnh vực và không giao Thủ tướng Chính phủ quyết định bổ sung; Không hạn chế lĩnh vực.
Đối với quy mô đầu tư, quy định tại khoản 3 Điều 5 dự thảo Luật, ý kiến các Đại biểu Quốc hội tập trung vào 3 nhóm quan điểm: Thống nhất quy định hạn mức 200 tỷ ngay tại luật; Đa số ý kiến giao Chính phủ quy định chi tiết hạn mức cho từng lĩnh vực; Hạ hạn mức hoặc không quy định hạn mức.
Với 2 nội dung có liên quan chặt chẽ nêu trên, Chính phủ dự kiến tiếp thu ý kiến của các Đại biểu Quốc hội theo hướng: Khu biệt lại các lĩnh vực đầu tư trên tinh thần chỉ tập trung các lĩnh vực trọng điểm, khả thi và đã triển khai trong thực tế vừa qua; Giữ hạn mức 200 tỷ trong dự thảo Luật và giao Chính phủ quy định hạn mức tối thiểu cho từng lĩnh vực để đảm bảo tính linh hoạt trong điều hành của Chính phủ theo từng thời kỳ kinh tế - xã hội.
Ngoài ra, để đảm bảo tính ổn định lâu dài và xử lý phát sinh trong điều hành thực tế, dự thảo Luật dự kiến bổ dung 01 khoản để xử lý tình huống phát sinh dự án ngoài lĩnh vực quy định trong dự thảo Luật nhưng cần phải thực hiện đầu tư theo PPP. Cụ thể được quy định tại khoản 2 Điều 5 dự thảo Luật.
Thứ ba, về thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư dự án PPP, quy định tại Điều 13 dự thảo Luật, đa số Đại biểu Quốc hội có ý kiến đồng thuận, một số ý kiến cho rằng cần có vai trò của HĐND cấp tỉnh trong việc quyết định chủ trương đầu tư dự án PPP.
Trong quá trình trao đổi với các Ủy ban của Quốc hội sau Kỳ họp, để bảo đảm sự đồng bộ, hài hòa giữa dự thảo Luật PPP và Luật Đầu tư công về thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư, Chính phủ đề nghị cân nhắc tiếp thu theo hướng giao HĐND cấp tỉnh quyết định chủ trương đầu tư dự án PPP tại địa phương.
Thứ tư, về sử dụng vốn nhà nước trong dự án PPP, tại khoản 5 Điều 71 dự thảo Luật, đa số Đại biểu Quốc hội thống nhất việc tách phần vốn nhà nước trong dự án PPP thành dự án thành phần hoặc hạng mục như đề xuất của Chính phủ. Một số ý kiến cho rằng nên bổ sung quy định về mức trần của phần vốn nhà nước trong dự án PPP, đồng thời đề nghị Chính phủ xem xét lại quy định về lập kế hoạch vốn đầu tư công cho dự án PPP theo hướng có một dòng ngân sách riêng cho mục tiêu này.
Với nội dung này, Chính phủ kiến nghị giữ nguyên như dự thảo Luật, vìđối với nội dung mức trần tỷ lệ vốn nhà nước, khung pháp lý trong giai đoạn trước quy định tại Nghị định số 108/2009/NĐ-CP là 49% tổng mức đầu tư, Quyết định số 71/2010/QĐ-TTg là 30% tổng mức đầu tư. Tuy nhiên qua kết quả rà soát, tổng kết tình hình thực hiện Nghị định số 108/2009/NĐ-CP, có ý kiến cho rằng các dự án BOT, BTO, BT trong lĩnh vực giao thông vận tải hầu hết có kinh phí đầu tư lớn, do đó việc khống chế mức vốn nhà nước tham gia dự án không vượt quá 49% tổng mức đầu tư sẽ khó kêu gọi đầu tư.
Vì vậy, các văn bản pháp lý tiếp theo là Nghị định số 15/2015/NĐ-CP và Nghị định số 63/2018/NĐ-CP đã gỡ bỏ mức trần này, mức vốn nhà nước được xác định theo tính chất của từng dự án, căn cứ phương án tài chính cụ thể của dự án được nghiên cứu và khả năng bố trí vốn đầu tư công theo từng thời kỳ. Thực tế thời gian qua, trong các dự án PPP giao thông trọng điểm, phần vốn nhà nước tham gia vào dự án chủ yếu cho công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng.
Đối với lập kế hoạch vốn đầu tư công, việc có một dòng ngân sách riêng chưathực sự phù hợp và khả thi theo quy định của Luật đầu tư công hiện hành. Do đó, việc lập kế hoạch cho phần vốn này trong dự án PPP tuân thủ quy định của Luật đầu tư công.
Thứ năm, về lựa chọn nhà đầu tư, dự thảo Luật thiết kế Chương III về nội dung này và đề xuất bãi bỏ nội dung tương ứng tại Luật đấu thầu năm 2013 nhằm đảm bảo tính thống nhất, chỉnh thể của văn bản quy phạm pháp luật về PPP, đảm bảo tính liên tục của quy trình thực hiện một số dự án PPP. Đa số Đại biểu Quốc hội thống nhất việc quy định nội dung này ngay tại dự thảo Luật, đồng thời yêu cầu Chính phủ nghiên cứu bổ sung nội dung quy định chi tiết hơn.
Tiếp thu ý kiến các Đại biểu Quốc hội, Chính phủ đang tiếp tục phối hợp các cơ quan liên quan nghiên cứu, bổ sung nội dung quy định chi tiết về lựa chọn nhà đầu tư dự án PPP ngay tại Luật bảo đảm tính đầy đủ, rõ ràng, đồng bộ và pháp lý cao trong thực thi dự án PPP. Dự thảo Luật hiện đã chỉnh lý Chương III thành 3 mục gồm 15 điều.
Thứ sáu, về thành lập và hoạt động của doanh nghiệp dự án PPP, dự thảo Luật quy định doanh nghiệp dự án được thành lập chỉ nhằm mục đích duy nhất là thực hiện dự án theo hợp đồng với mô hình công ty TNHH hoặc công ty cổ phần và được phát hành trái phiếu doanh nghiệp để huy động vốn thực hiện dự án PPP.
Đa số ý kiến Đại biểu Quốc hội nhất trí với quy định như dự thảo Luật. Một số ý kiến khác cho rằng, dự thảo Luật cần bảo đảm tuân thủ Luật doanh nghiệp, việc phát hành trái phiếu của doanh nghiệp dự án PPP không quy định tại Luật. Bên cạnh đó, có ý kiến yêu cầu điều chỉnh lại thời điểm doanh nghiệp dự án PPP được phát hành trái phiếu doanh nghiệp.
Theo quy định tại Điều 3 Luật doanh nghiệp 2014, trường hợp luật chuyên ngành có quy định đặc thù về thành lập, tổ chức quản lý, tổ chức lại, giải thể và hoạt động có liên quan của doanh nghiệp thì áp dụng quy định của Luật đó. Theo đó, các quy định đặc thù đối với doanh nghiệp dự án PPP tại dự thảo Luật là đồng bộ, không xung đột với Luật doanh nghiệp. Liên quan đến thời điểm doanh nghiệp dự án PPP được phát hành trái phiếu, Chính phủ sẽ tiếp tục nghiên cứu, làm việc với các Ủy ban của Quốc hội để đề xuất phù hợp trong quá trình hoàn thiện dự thảo Luật và dự án Luật doanh nghiệp sửa đổi.
Thứ bảy, về cơ chế chia sẻ về doanh thu, dự thảo Luật quy định cơ chế chia sẻ rủi ro về doanh thu theo hướng điều chỉnh mức giá, phí sản phẩm, dịch vụ công hoặc thời hạn hợp đồng PPP trong trường hợp doanh thu thực tế không như doanh thu trong phương án tài chính quy định tại hợp đồng trong một số trường hợp và đáp ứng điều kiện theo quy định. Đối với một số dự án trọng điểm, trường hợp sau khi đã thực hiện cơ chế trên nhưng chưa bảo đảm được mức doanh thu cần thiết thì Chính phủ và nhà đầu tư cam kết chia sẻ phần giảm thu và phần tăng thu giữa doanh thu thực tế và doanh thu cam kết tại hợp đồng.
Đa số Đại biểu Quốc hội đồng thuận với sự cần thiết phải có cơ chế chia sẻ rủi ro về doanh thu với nhà đầu tư được đề xuất tại dự thảo Luật. Nhiều ý kiến yêu cầu Chính phủ phải cân nhắc, quy định rõ về nguyên tắc chia sẻ, cấp có thẩm quyền quyết định, điều kiện, đối tượng áp dụng, nguồn tiền để xử lý khi rủi ro giảm doanh thu xảy ra, cách thức kiểm soát và quản lý rủi ro tài chính quốc gia, trong đó đặc biệt lưu ý việc tạo sự bình đẳng với cơ chế chia sẻ 50% giữa nhà nước và tư nhân.
Đây là nội dung mới, khó và là một trong các nội dung then chốt cần được tập trung nghiên cứu, đề xuất phương án có tính khả thi tại dự án Luật. Trong giai đoạn này, Chính phủ đề nghị phương án tiếp thu ý kiến các Đại biểu Quốc hội theo hướng: Phân biệt cơ chế chia sẻ rủi ro khi giảm doanh thu và chia sẻ khi tăng doanh thu. Tất cả các dự án PPP đều áp dụng cơ chế chia sẻ khi tăng doanh thu; Đối với cơ chế chia sẻ rủi ro khi giảm doanh thu: Bổ sung một số điều kiện thực hiện và trường hợp được áp dụng cơ chế này, cụ thể là khi doanh thu thực tế bị ảnh hưởng bởi lỗi của phía Nhà nước; Về nguồn xử lý khi rủi ro phát sinh, hiện tại dự thảo Luật đang thiết kế theo hướng sử dụng nguồn dự phòng vốn đầu tư công trung hạn; Nghiên cứu, cân nhắc bổ sung quy định HĐND cấp tỉnh có thể xem xét, quyết định việc chia sẻ rủi ro cho các dự án PPP đủ điều kiện, thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư trong phạm vi quản lý, ngân sách của địa phương.
Thứ tám, về phạm vi của Kiểm toán Nhà nước.Dự thảo Luật quy định Kiểm toán Nhà nước thực hiện việc kiểm toán sử dụng tài chính công, tài sản công trong dự án PPP.
Ý kiến các Đại biểu Quốc hội tập trung 2 nhóm quan điểm. Nhóm thứ nhất thống nhất quan điểm của Chính phủ tại dự thảo Luật về Kiểm toán Nhà nước chỉ kiểm toán tài chính công, tài sản côngtheo quy định của Luật Kiểm toán Nhà nước.
Với nội dung này, Chính phủ đề nghị phương án tiếp thu theo hướngtrước khi ký kết hợp đồng, Kiểm toán Nhà nước thực hiện kiểm toán tuân thủ theo pháp luật về kiểm toán nhà nước quá trình chuẩn bị dự án, kết quả lựa chọn nhà đầu tư đối với dự án PPP có sử dụng tài chính công, tài sản công.
Nhóm thứ hai cho rằng dự án PPP bản chất là dự án đầu tư công nên Kiểm toán Nhà nước phải kiểm toán toàn bộ dự án PPP, kể cả phần đầu tư từ nguồn vốn tư nhân. Với quan điểm này, Chính phủ đề nghị phương án tiếp thu theo hướngsau khi ký kết hợp đồng, Kiểm toán Nhà nước thực hiện kiểm toán pháp luật về kiểm toán nhà nước đối với việc sử dụng tài chính công, tài sản công trong dự án PPP.
Thứ chín, về dự án áp dụng loại hợp đồng BT, đa số các Đại biểu Quốc hội có ý kiến phản đối việc tiếp tục thực hiện dự án áp dụng loại hợp đồng BT, mà yêu cầu cần quy định chi tiết nội dung về loại dự án này tại dự thảo Luật đảm bảo tính chặt chẽ, khả thi, khắc phục tồn tại. Đồng thời, với bản chất của hợp đồng PPP là dài hạn, cần xem xét sự phù hợp của loại hợp đồng BT.
Theo đó, để phù hợp với bản chất của hợp đồng PPP, Chính phủ dự kiến tiếp thu theo hướng gắn trách nhiệm bảo trì dài hạn; hỗ trợ đơn vị tổ chức, vận hành công trình đối với nhà đầu tư thực hiện hợp đồng BT. Đồng thời, dự kiến bổ sung tối đa các quy định chặt chẽ tại Nghị định số 63/2018/NĐ-CP và Nghị định số 69/2019/NĐ-CP vào dự thảo Luật. Bên cạnh đó, quy định rõ phương pháp và tiêu chuẩn đánh giá, lựa chọn nhà đầu tư trong dự án BT đối với từng phương thức thanh toán.
Thứ mười, về quy định chuyển tiếp,đây là nội dung hết sức quan trọng để bảo đảm tính bền vững, lòng tin của nhà đầu tư đối với các dự án đã và đang thực hiện, tránh xung đột pháp luật. Do vậy, Chính phủ sẽ tiếp tục phối hợp với các Ủy ban của Quốc hội để rà soát, tổng hợp và đề xuất các nội dung chuyển tiếp phù hợp, khả thi.
Hiện dự thảo Luật PPP đang được xin ý kiến trên Cổng thông tin điện tử Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các trang thông tin điện tử khác. Dự kiến, Luật sẽ được Quốc hội xem xét thông qua tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIV./.
Đức Trung
Bộ Kế hoạch và Đầu tư