Skip Ribbon Commands
Skip to main content
Ngày 08/06/2020-16:37:00 PM
Nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện cam kết của Việt Nam về bảo hộ đầu tư
(MPI) - Tiếp tục Chương trình Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XIV, sáng ngày 08/6/2020, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu, thay mặt Chính phủ, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng đã trình bày Tờ trình tóm tắt dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của cơ quan giải quyết tranh chấp đầu tư theo Hiệp định Bảo hộ đầu tư Việt Nam - EU (EVIPA).
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng trình bày Tờ trình. Ảnh: quochoi.vn

Theo Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng, hiện nay, pháp luật Việt Nam đã quy định đầy đủ, cụ thể về cơ chế công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài, nhưng chưa có quy định về thủ tục công nhận và cho thi hành phán quyết theo quy định của Hiệp định. Do vậy, việc trình Quốc hội ban hành văn bản để hướng dẫn áp dụng Điều 3.57 của Hiệp định là phù hợp với thẩm quyền của Quốc hội theo quy định tại Khoản 4 Điều 3 Luật Điều ước quốc tế và cần thiết cho việc thi hành kịp thời Hiệp định ngay sau khi có hiệu lực, đồng thời bảo đảm tính khả thi, thống nhất và ổn định của hệ thống pháp luật.

Việc ban hành Nghị quyết này là nhằm thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước về hội nhập kinh tế quốc tế; góp phần hoàn thiện, nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện cam kết của Việt Nam về bảo hộ đầu tư phù hợp với quy định của Hiệp định. Đồng thời, bảo đảm thi hành đầy đủ, nhất quán, đúng lộ trình cam kết của Việt Nam về cơ chế công nhận và cho thi hành phán quyết của Cơ quan giải quyết tranh chấp theo quy định của Hiệp định.

Trên cơ sở mục tiêu, quan điểm đó, việc xây dựng Nghị quyết này cần bảo đảm tối đa lợi ích của Việt Nam khi thực hiện Nghị quyết, tránh mở rộng cam kết cho các đối tượng không thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiệp định. Đồng thời, bảo đảm tính khả thi và thống nhất của hệ thống pháp luật Việt Nam về công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài.

Dự thảo Nghị quyết có 4 Điều, quy định về phạm vi điều chỉnh của Nghị quyết, công nhận và cho thi hành Phán quyết, tổ chức thực hiện và hiệu lực thi hành

Trong đó, về phạm vi điều chỉnh của Nghị quyết, theo quy định tại Điều 3.57 của Hiệp định, Việt Nam chỉ phải thi hành các nghĩa vụ về tài chính theo các phán quyết chung thẩm của cơ quan giải quyết tranh chấp đầu tư. Nội dung nghĩa vụ tài chính phải thi hành đã được quy định rõ tại Điều 3.53 của Hiệp định, gồm: thiệt hại về tiền và lãi suất áp dụng; chuyển giao tài sản và được bồi thường thiệt hại bằng tiền thay cho việc chuyển giao tài sản.

Toàn bộ nội dung nêu trên đều là các nghĩa vụ tài chính mà không bao gồm các nghĩa vụ khác. Do vậy, để phù hợp với quy định của Hiệp định, đồng thời bảo đảm không mở rộng nghĩa vụ của Việt Nam đối với những vấn đề khác thì Nghị quyết này chỉ quy định việc công nhận và cho thi hành tại Việt Nam đối với Phán quyết chung thẩm về nghĩa vụ tài chính do cơ quan giải quyết tranh chấp đầu tư ban hành theo quy định tại Mục B, Chương 3 của Hiệp định.

Với phạm vi điều chỉnh nêu trên, Nghị quyết này chỉ quy định việc áp dụng pháp luật, thủ tục tương tự để cơ quan có thẩm quyền ra quyết định công nhận và cho thi hành Phán quyết mà không đặt ra một cơ chế mới để thi hành Phán quyết này.

Việc công nhận và cho thi hành Phán quyết đối với bị đơn là Việt Nam được chia thành 2 giai đoạn. Trong đó, trong thời hạn 5 năm kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực hoặc một thời gian dài hơn theo quyết định của Ủy ban thành lập theo Điều 4.1 của Hiệp định, Phán quyết đối với bị đơn là Việt Nam được coi là phán quyết của trọng tài nước ngoài. Tòa án Việt Nam áp dụng các quy định về công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài tại Bộ luật tố tụng dân sự để ra quyết định công nhận hoặc không công nhận Phán quyết đó.

Sau ngày kết thúc thời hạn nêu trên, Phán quyết đối với bị đơn là Việt Nam được coi là có giá trị như bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án Việt Nam. Trong trường hợp người được thi hành Phán quyết có yêu cầu công nhận và cho thi hành Phán quyết tại Việt Nam, Tòa án Việt Nam quyết định công nhận và cho thi hành Phán quyết đó.

Theo quy định tại Khoản 3 Điều 2, kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực, Phán quyết đối với bị đơn là EU hoặc các nước thành viên EU được coi là có giá trị như bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án Việt Nam. Trong trường hợp người được thi hành Phán quyết có yêu cầu công nhận và cho thi hành Phán quyết tại Việt Nam thì Tòa án Việt Nam ra quyết định công nhận và cho thi hành Phán quyết đó.

Để đảm bảo Phán quyết trong các trường hợp nêu tại Khoản 2 và Khoản 3 Điều 2 có giá trị như bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án Việt Nam và không bị xem xét lại giá trị pháp lý, Khoản 4 Điều 2 của Nghị quyết nêu rõ quyết định của Tòa án Việt Nam về công nhận và cho thi hành Phán quyết theo các Khoản 2 và 3 Điều này không bị kháng cáo, kháng nghị. Để đảm bảo Phán quyết được thực hiện tại cơ quan Thi hành án dân sự, Khoản 5 Điều 2 quy định Phán quyết đã được Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam được thi hành theo thủ tục thi hành án dân sự.

Về tổ chức thực hiện Nghị quyết, việc công nhận và cho thi hành Phán quyết theo quy định của Hiệp định là một vấn đề mới, chưa có thực tiễn áp dụng đối với Việt Nam. Do vậy, để bảo tính khả thi, ổn định lâu dài của Nghị quyết, Điều 3 quy định Tòa án Nhân dân tối cao quy định chi tiết thủ tục công nhận và cho thi hành Phán quyết và vấn đề áp dụng chuyển tiếp giữa Khoản 1 và Khoản 2 Điều 2.

Điều này cũng quy định trách nhiệm của Chính phủ về thông báo việc kéo dài thời gian chuyển tiếp đối với Việt Nam và trách nhiệm của các cơ quan trong việc rà soát các văn bản quy phạm pháp luật nhằm sửa đổi, ban hành kịp thời để bảo đảm thực hiện Nghị quyết này và các cam kết có liên quan của Việt Nam theo quy định của Hiệp định bảo hộ đầu tư Việt Nam - EU.

Nghị quyết này sẽ có hiệu lực thi hành kể từ ngày Hiệp định bảo hộ đầu tư Việt Nam - EU có hiệu lực.

Báo cáo đánh giá tác động chính sách của Nghị quyết, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết, đối với các bên tranh chấp, các quy định của Nghị quyết góp phần thực hiện các quyền của các bên tranh chấp một cách đơn giản, nhanh chóng, hiệu quả, tiết kiệm chi phí. Đối với Nhà nước, việc ban hành Nghị quyết không tạo ra một cơ chế mới để nhà đầu tư kiện nhà nước Việt Nam, không tăng rủi ro thua kiện của Việt Nam.

Hiện nay, Việt Nam đã ký kết Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư với 21 nước thành viên EU. Các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài đã tạo cơ sở pháp lý đầy đủ để Việt Nam thực hiện các nghĩa vụ theo các Hiệp định đã ký với 21 nước thành viên EU, bao gồm cả nghĩa vụ bồi thường trong trường hợp Phán quyết yêu cầu. Do đó, việc ban hành Nghị quyết không làm phát sinh nghĩa vụ mới về tài chính đối với Việt Nam trong trường hợp Việt Nam phải bồi thường thiệt hại do thua kiện. Tuy nhiên, để đảm bảo thi hành Nghị quyết, cần tổ chức đào tạo và nâng cao năng lực đội ngũ thẩm phán cũng như các cơ quan thi hành pháp luật để thực hiện có hiệu quả chức năng công nhận và cho thi hành Phán quyết, đáp ứng yêu cầu thực thi Hiệp định.

Đối với hệ thống pháp luật, các quy định của Nghị quyết đảm bảo tính ổn định của hệ thống pháp luật Việt Nam, không yêu cầu sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật có liên quan như Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Thi hành án dân sự, Luật Trọng tài thương mại...

Đối với môi trường đầu tư kinh doanh, việc ban hành Nghị quyết sẽ tạo khung pháp lý đầy đủ và có hiệu quả hơn nữa cho việc bảo hộ đầu tư của nhà đầu tư EU tại Việt Nam cũng như nhà đầu tư Việt Nam tại các nước thành viên EU, đồng thời góp phần củng cố niềm tin của các doanh nghiệp vào tính hấp dẫn, an toàn và thân thiện của môi trường đầu tư tại Việt Nam./.

Thúy Quyên
Bộ Kế hoạch và Đầu tư

    Tổng số lượt xem: 1143
  •  

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)