1. Tình hình sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
1.1. Nông nghiệp
- Lúa vụ hè thu 2020 diện tích đã xuống giống gieo sạ 24.645 ha, giảm 0,3% so với cùng kỳ năm trước. Cơ cấu giống lúa gieo sạ chủ yếu ML48, ML49, ĐV 108..., trà sớm đang giai đoạn cuối đẻ nhánh - chín sữa. Do năm nay thời tiết diễn biến khắc nghiệt hơn nên một số nơi bắt đầu gieo sạ sớm nhằm hạn chế thiếu nước tưới vào thời kỳ lúa trổ, làm đòng.
Đã có khoảng 1.525,5 ha diện tích lúa đang bị thiếu nước tưới (huyện Tây Hòa 274 ha, Đông Hòa 369,5 ha, Hệ thống Thủy Nông Đồng Cam 882 ha) và hiện nay có thêm 457 ha ở huyện Tây Hòa có nguy cơ bị thiếu nước tưới. Các địa phương, đơn vị đang tập trung vận hành các trạm bơm điện, bơm dã chiến để cung cấp nước tưới đến các vùng thiếu nước nói trên.
Trước dự báo tình hình thời tiết nắng nóng kéo dài trong thời gian đến, khả năng xảy ra khô hạn cục bộ trong vụ hè thu, các ngành chức năng khuyến cáo nông dân chỉ sản xuất cây lúa ở vùng đảm bảo đủ nước tưới suốt vụ, những diện tích không đủ nước cần chuyển sang cây trồng như: Bắp lai, rau - đậu thực phẩm và các loại hoa màu khác... nhằm tiêu thụ ít nước nhưng vẫn bảo đảm hiệu quả kinh tế.
- Lúa vụ mùa: Cùng với việc chăm sóc lúa vụ hè thu, bà con ở các địa phương có lúa rẫy đã chuẩn bị xong khâu làm đất và gieo sạ được 100 ha ở huyện Sông Hinh, các địa phương khác chờ mưa xuống là gieo trồng.
- Cây màu và cây công nghiệp ngắn ngày: Tính từ đầu năm đến ngày 15/7/2020 đã gieo trồng được: Ngô 4.310 ha, tăng 1,2% so cùng kỳ năm trước; mía 21.081 ha, giảm 17,3%; rau các loại 4.796 ha, tăng 0,3%; đậu các loại 2.758 ha, tăng 0,1%; lạc 798 ha, tăng 3,8%. Do thời tiết khô hạn kéo dài, nguồn nước bơm tưới bổ sung gặp khó khăn, nên nhìn chung các cây trồng cạn sinh trưởng kém hơn năm trước.
- Về tình hình sâu bệnh hại cây trồng:
+ Lúa hè thu: Chuột gây hại 17 ha, bọ trĩ 10,5 ha, đốm sọc vi khuẩn 3 ha, bọ xít đen 0,5 ha; ngoài ra còn có bệnh bạc lá, đen lép hạt, sâu cuốn lá nhỏ, ốc bươu vàng, bệnh khô vằn,… phát sinh rải rác trên địa bàn tỉnh.
+ Cây ngô: Bệnh sâu keo mùa thu gây hại diện tích nhiễm nhẹ 11,2 ha; cây sắn bệnh khảm lá virus gây hại diện tích 11.865 ha; nhện đỏ gây hại 790 ha; rệp sáp bột hồng gây hại 100ha; cây tiêu bệnh chết chậm gây hại với diện tích 9 ha; cây mía sâu đục thân gây hại diện tích 15 ha. Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật đang theo dõi và khuyến cáo, hướng dẫn bà con các biện pháp chăm sóc và phòng trừ sâu bệnh hại cây trồng.
Hoạt động chăn nuôi gia súc, gia cầm trên địa bàn tỉnh tiếp tục duy trì phát triển, các ngành chức năng tiếp tục phối hợp với chính quyền địa phương hướng dẫn các cơ sở chăn nuôi về kỹ thuật phòng, điều trị bệnh đối với đàn gia súc, gia cầm. Tiêm phòng bổ sung LMLM và tụ huyết trùng trâu, bò đợt I/2020 lũy kế đến nay tiêm được 41.534 con. Dại chó lũy kế tiêm được 15.480 con. Vaccine cúm gia cầm (người dân tự mua) lũy kế tiêm được 84.200 con gà và 37.900 con vịt.
- Về công tác kiểm dịch: Các cơ quan chức năng tiếp tục tăng cường thực hiện công tác kiểm dịch động vật tại các chốt, trạm trên địa bàn tỉnh; kiểm soát hoạt động mua bán tiêu thụ gia súc gia cầm, sản phẩm gia súc gia cầm.
- Từ ngày 25/7 - 21/7, tổng số bò mắc bệnh LMLM ghép với bệnh Tụ huyết trùng tại xã Xuân Quang 2, huyện Đồng Xuân là 78 con/29 hộ; chết 17 con, hiện số con mắc bệnh đã khỏi bệnh. Số bò bị bệnh Tụ huyết trùng xảy ra cấp tính tại xã Xuân Quang 2, huyện Đồng Xuân làm chết 05 con/03 hộ. Chi cục đã cấp 400 lít thuốc sát trùng Iodine và 500 liều vắc xin tụ huyết trùng để tiêm phòng bao vây ổ dịch. Đồng thời, cử 03 cán bộ thú y cùng cán bộ Trạm huyện Đồng Xuân trực tiếp hỗ trợ, hướng dẫn người dân cách ly gia súc bệnh, tiến hành điều trị. Đến nay các ổ dịch đã được khống chế, không phát sinh trường hợp mới.
1.2. Lâm nghiệp
Trong tháng, khai thác được 365 ha diện tích rừng trồng tập trung với sản lượng gỗ dự ước khai thác được 25,1 ngàn m3 bằng 80,8% so với cùng kỳ năm trước; củi khai thác 15 ngàn ster bằng 100%. Tính chung 7 tháng, sản lượng gỗ rừng trồng khai thác đạt 105,1 ngàn m3 tăng 43,5% so với cùng kỳ năm trước do diện tích rừng trồng đến thời gian cho thu hoạch sản phẩm, trong đó: Gỗ nguyên liệu giấy chiếm 85,8% trong tổng sản lượng gỗ rừng trồng khai thác. Sản lượng củi khai thác 40,2 ngàn ster, tăng 3,2%.
Tổ chức nhiều đợt kiểm tra, ngăn chặn nạn khai thác lâm sản trái phép, bảo vệ rừng trên các khu vực rừng giáp ranh. Từ đầu năm đến nay đã phát hiện và lập biên bản xử lý kịp thời 147 vụ vi phạm giảm 2,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó 01 vụ phá rừng trái pháp luật làm diện tích rừng bị giảm 7,4 ha. Xử lý 160 vụ vi phạm, phạt tiền 1.078 triệu đồng; khối lượng gỗ tịch thu 231,6 m3.
1.3. Thuỷ sản
- Trong tháng ước tính thả nuôi 377 ha, giảm 1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng 305 ha, tăng 0,3%; cá các loại 51 ha, bằng 100%; thủy sản khác 13 ha, tăng 8,3%.
Diện tích nuôi trồng thủy sản, tính chung 7 tháng ước tính 2.347 ha, tăng 0,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó diện tích nuôi cá 214 ha, bằng 100%; diện tích nuôi tôm 1.883 ha, tăng 0,5% (tôm sú 228 ha, tăng 0,4%; tôm thẻ chân trắng 1.655 ha, tăng 0,5%); thủy sản khác 250 ha, tăng 1,6%.
Sản lượng tôm Post sản xuất đạt 491 triệu con, giảm 40,2% so với cùng kỳ năm trước do các cơ sở sản xuất giống bị thu hẹp.
- Tình hình dịch bệnh trên nuôi trồng thủy sản
Về bệnh trên tôm thẻ chân trắng: Có 105,4 ha tôm sú và thẻ chân trắng bị bệnh đốm trắng và hoại tử gan tụy cấp, tôm nuôi khoảng 20 đến 42 ngày tuổi (thị xã Sông Cầu 1 ha, huyện Tuy An 32 ha, huyện Đông Hòa 72,4 ha). Các ngành chức năng đã hướng dẫn các biện pháp phòng và chữa bệnh, cấp thuốc sát trùng Sodium Chlorite 20% để xử lý hồ nuôi, tiếp tục theo dõi không để dịch bệnh lây lan sang diện rộng.
Về bệnh trên ốc hương: 0,2 ha ốc hương nuôi ao tại xã Xuân Cảnh xảy ra bệnh. Dấu hiệu bệnh lý cho thấy: Ốc trồi lên, không chui lại xuống cát và chết. Đối với ốc còn nhỏ bị chết thì không quan sát được dấu hiệu bệnh rõ ràng, ốc lớn bị bệnh thì vòi thò ra ngoài và sưng to.
- Sản lượng thủy sản khai thác và nuôi trồng tháng 7/2020 ước tính 7.762 tấn, tăng 2,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá 5.855 tấn, tăng 1,9%; tôm 1.588 tấn, tăng 4,7%; thủy sản khác 319 tấn, tăng 10,4%. Chia ra:
+ Sản lượng thuỷ sản khai thác 5.938 tấn, tăng 1,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Sản lượng cá ngừ đại dương khai thác 280 tấn, chiếm 4,9% trong tổng sản lượng cá khai thác biển và tăng 2,6% so với cùng kỳ năm trước.
+ Sản lượng thủy sản nuôi trồng 1.824 tấn, tăng 5,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Cá 154 tấn, tăng 1,6%; tôm 1.530 tấn, tăng 4,7%; thủy sản khác 140 tấn, tăng 23,9%.
Tính chung 7 tháng, sản lượng khai thác và nuôi trồng thủy sản ước tính 53.671 tấn, tăng 3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Cá các loại 43.690 tấn, tăng 1,6%; tôm 6.731 tấn, tăng 13,9%; thủy sản các loại 3.250 tấn, tăng 1,6%. Trong tổng sản lượng cá các loại khai thác biển, cá ngừ đại dương 2.461 tấn chiếm 5,7% và giảm 16,4%.
1.4. Về thuỷ lợi và công tác phòng chống hạn
- Hiện nay Công ty TNHH 1TV Thủy nông Đồng Cam và các đơn vị quản lý thủy nông địa phương đang điều tiết nước tưới để phục vụ sản xuất vụ lúa hè thu năm 2020. Tuy nhiên, do nắng nóng kéo dài nên mực nước tại các hồ chứa trong tỉnh đều ở mức thấp so với mực nước thiết kế.
- Tình hình thiếu nước tưới sản xuất và sinh hoạt: Về cấp nước sinh hoạt cho dân cư nông thôn, trong tuần vừa qua có khoảng 330 hộ đang bị thiếu nước sinh hoạt, do bị khô giếng (xã Hòa Hội huyện Phú Hòa 75 hộ, xã EaBar huyện Sông Hinh 165 hộ, xã Hòa Mỹ Tây 80 hộ, Sơn Thành Tây huyện Tây Hòa 10 hộ); chính quyền địa phương đang khẩn trương triển khai công tác khắc phục và thực hiện các giải pháp phòng, chống hạn hán, thiếu nước sinh hoạt đã đề ra.
2. Sản xuất công nghiệp
- Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 7/2020 tăng 11,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành công nghiệp khai khoáng giảm 2,2%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 5,2%[1]; sản xuất, phân phối điện, hơi nước tăng 24,3%; cung cấp nước, quản lý và xử lý rác thải tăng 10,9%.
Lũy kế 7 tháng năm 2020, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 2,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Ngành công nghiệp khai khoáng giảm 6,4%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 6,1%; sản xuất, phân phối điện và hơi nước tăng 28,3%; cung cấp nước, quản lý và xử lý rác thải tăng 4,5%.
- Giá trị sản xuất công nghiệp tháng 7/2020 theo giá so sánh năm 2010 ước tính 1.721,1 tỷ đồng, tăng 10,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Ngành công nghiệp khai khoáng 17,4 tỷ đồng, giảm 0,9%; công nghiệp chế biến, chế tạo 1.501,5 tỷ đồng, tăng 8,3%; sản xuất và phân phối điện, hơi nước 189,7 tỷ đồng, tăng 28,2%; cung cấp nước và xử lý rác thải 12,5 tỷ đồng, tăng 6,1%.
Lũy kế 7 tháng, giá trị sản xuất công nghiệp theo giá so sánh năm 2010 ước tính 11.284,8 tỷ đồng, tăng 2,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Ngành công nghiệp khai khoáng 129,3 tỷ đồng, giảm 1,4%; công nghiệp chế biến, chế tạo 9.793,8 tỷ đồng, giảm 0,4%; sản xuất và phân phối điện 1.276,6 tỷ đồng, tăng 27,8%; cung cấp nước và xử lý rác thải 85,1 tỷ đồng, tăng 2,7%.
- Trong tháng, một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu vẫn sản xuất tăng so với cùng kỳ năm trước như: Chip điện tử gấp 3 lần; điện sản xuất tăng 32%; dăm gỗ các loại tăng 23%; nhân hạt điều các loại tăng 12,5%; hải sản các loại tăng 12%; thuốc viên các loại tăng 9,4%; xi măng các loại tăng 3,7%; nước uống được tăng 10%; điện thương phẩm tăng 7,2%; trang in các loại tăng 4,4%; phân bón các loại tăng 3,8%; nước đá các loại tăng 3,7%.
Bên cạnh đó, tình hình tiêu thụ gặp nhiều khó khăn, một số sản phẩm giảm như: Bia các loại giảm 5%; két nhựa các loại giảm 2,6%; quần áo các loại giảm 2,2%; nước khoáng các loại giảm 1,1% so với cùng kỳ năm trước.
3. Tình hình đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp
Tính từ đầu năm đến ngày 01/7/2020 trên địa bàn tỉnh Phú Yên có 243 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tăng 4,3% so với cùng kỳ năm trước với tổng vốn đăng ký là 2.962,6 tỷ đồng. Bên cạnh đó, có 14 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động tăng 55,6%; số doanh nghiệp gặp khó khăn buộc phải tạm ngừng hoạt động là 69 doanh nghiệp giảm 25,8%; số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, chấm dứt hoạt động sản xuất, kinh doanh là 37 doanh nghiệp, tăng 15,6% so với cùng kỳ năm trước.
4. Đầu tư
Trong 7 tháng năm 2020, các cấp, các ngành đã tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ đầu tư giải ngân và đẩy nhanh tiến độ thi công, thực hiện dự án trọng điểm, các dự án chào mừng Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII nên nguồn vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý so với cùng kỳ năm trước tăng khá (+30,7%); nhưng so với kế hoạch năm chỉ bằng 41%, đòi hỏi các ngành, các cấp phải tập trung phấn đấu hơn nữa mới hoàn thành kế hoạch đề ra.
- Vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý theo giá hiện hành tháng 7/2020 ước tính 459,7 tỷ đồng, tăng 2,3% so tháng trước và tăng 3,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh 326,4 tỷ đồng, tăng 13,3%; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện 132,3 tỷ đồng, giảm 14,9%; vốn ngân sách Nhà nước cấp xã 01 tỷ đồng, giảm 48,5% so với cùng kỳ năm trước.
Trong tháng, tập trung đầu tư, thi công một số ngành như: Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 163,5 tỷ đồng, tăng 34,8%; xây dựng 29,2 tỷ đồng, giảm 22,2%; vận tải và kho bãi 165,9 tỷ đồng, tăng 26,8%; giáo dục đào tạo thực hiện 24,2 tỷ đồng, giảm 26,9% ... so với cùng kỳ năm trước.
- Lũy kế 7 tháng, vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý theo giá hiện hành ước tính 2.883,3 tỷ đồng, tăng 30,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh 1.962,3 tỷ đồng, tăng 37,4%; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện 915,9 tỷ đồng, tăng 19,1%; vốn ngân sách Nhà nước cấp xã 5,1 tỷ đồng, giảm 39,8% so với cùng kỳ năm trước.
5. Tài chính, ngân hàng
5.1. Thu, chi ngân sách
Tổng thu NSNN trên địa bàn tính đến ngày 17/7/2020 là 2.310 tỷ đồng, đạt 43,5% DTTW; đạt 25,7% dự toán tỉnh giao.
Tổng chi NSĐP 5.547 tỷ đồng, đạt 53,2% DTTW; đạt 39,2% dự toán tỉnh giao; trong đó chi đầu tư phát triển là 2.582 tỷ đồng, chi thường xuyên là 2.965 tỷ đồng.
5.2. Hoạt động ngân hàng
- Mặt bằng lãi suất huy động VND phổ biến ở mức 0,1-0,2%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 01 tháng; 3,7-4,25%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 01 tháng đến dưới 06 tháng; 4,9-7,2%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 06 tháng đến dưới 12 tháng; kỳ hạn trên 12 tháng ở mức 5,0 -7,7%/năm. Lãi suất huy động USD là 0%/năm.
- Lãi suất cho vay VND phổ biến đối với các lĩnh vực ưu tiên ở mức 4,8- 5,0%/năm đối với ngắn hạn, ở mức 7,0-10%/năm đối với trung và dài hạn. Lãi suất cho vay các lĩnh vực sản xuất kinh doanh thông thường và cho vay tiêu dùng ở mức 7,0-11%/năm đối với ngắn hạn; 8,5-12%/năm đối với trung và dài hạn.
- Mặt bằng lãi suất cho vay VND phổ biến đối với các lĩnh vực ưu tiên ở mức 4,8- 5,0%/năm đối với ngắn hạn, ở mức 7,0-10%/năm đối với trung và dài hạn. Lãi suất cho vay các lĩnh vực sản xuất kinh doanh thông thường và cho vay tiêu dùng ở mức 7,0-11%/năm đối với ngắn hạn; 8,5-12%/năm đối với trung và dài hạn. Lãi suất cho vay USD phổ biến ở mức 3,2-7,8%/năm.
- Tỷ giá ngoại tệ tháng 7/2020 giảm nhẹ so với tháng trước. Đến ngày 15/7/2020, tỷ giá mua, bán USD của các Ngân hàng thương mại (NHTM) trên địa bàn phổ biến ở mức 23.057 – 23.295 VND/USD.
- Về doanh số giao dịch ngoại hối của các NHTM trên địa bàn: Giá trị giao dịch ngoại tệ quy VND trong 6 tháng đầu năm 2020 đạt 2.520,2 tỷ đồng, trong đó doanh số mua vào là 1.487,69 tỷ đồng, doanh số bán ra là 1.032,51 tỷ đồng. Doanh số kiều hối chuyển về thông qua hệ thống ngân hàng trên địa bàn 6 tháng đầu năm 2020 đạt 11,88 triệu USD tương đương 273,2 tỷ đồng góp phần đáng kể trong việc phát triển kinh tế trên địa bàn.
- Tính đến cuối tháng 7/2020, dự tính tổng nguồn vốn huy động trên toàn tỉnh đạt 27.035 tỷ đồng, so với đầu năm tăng 8%, so với cuối tháng trước giảm 0,4%; trong đó: Tiền gửi VND 26.778 tỷ đồng, chiếm 99,2% tổng nguồn vốn; tiền gửi ngoại tệ quy VNĐ 219 tỷ đồng. Trong tổng nguồn vốn huy động, tiền gửi tiết kiệm 23.471 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 86,8% tăng 9,5%; tiền gửi thanh toán 3.526 tỷ đồng, giảm 0,5% so với đầu năm. Phát hành giấy tờ có giá bằng VND đạt 38 tỷ đồng, so với đầu năm giảm 37,7%.
- Tổng dư nợ cho vay ước đạt mức 32.820 tỷ đồng, tăng 4,3% so với đầu năm; trong đó: Cho vay bằng 32.137 tỷ đồng, chiếm 97,92% tổng dư nợ, so với đầu năm tăng 4,4%; cho vay ngoại tệ quy VND 639 tỷ đồng, giảm 5,6%.
- Ước đến cuối tháng 7/2020 dư nợ xấu trên địa bàn là 640,2 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 1,95%/tổng dư nợ.
6. Thương mại, giá cả, dịch vụ
6.1. Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Trong tháng 7/2020 tình hình sản xuất, kinh doanh hoạt động ổn định, có nhiều khởi sắc, các hoạt động bán lẻ, dịch vụ đã trở lại nhịp độ bình thường, hoạt động lưu trú có mức tăng đáng kể là do thời điểm nghỉ hè nhiều hoạt động du lịch, thể thao trong nước được tổ chức trong tháng này. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng tháng 7/2020 ước tính 3.053,5 tỷ đồng, tăng 1,4% so với tháng trước, tăng 12,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Tổng mức bán lẻ hàng hóa 2.473,2 tỷ đồng, tăng 0,7% so với tháng trước, tăng 12,8% so với cùng kỳ năm trước, doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành 421,7 tỷ đồng, tăng 5,7% so với tháng trước, tăng 8,9% so với cùng kỳ năm trước.
- Trong tổng mức bán lẻ hàng hóa, một số nhóm ngành có mức tăng cao hơn mức tăng chung so với cùng kỳ năm trước như: Lương thực, thực phẩm 1.343,2 tỷ đồng, tăng 16,4%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình 279,3 tỷ đồng, tăng 21%; gỗ và vật liệu xây dựng 186,2 tỷ đồng, tăng 18,6%; đá quý, kim loại quý và sản phẩm 73,9 tỷ đồng, tăng 35%; hàng hóa khác 96,1 tỷ đồng, tăng 17%. Riêng nhóm xăng, dầu các loại 177,3 tỷ đồng, giảm 13,8% do giá xăng, dầu giảm.
- Doanh thu lưu trú ăn uống và du lịch lữ hành ước tính tháng 7/2020 là 421,7 tỷ đồng, tăng 5,7% so với tháng trước, tăng 8,9% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: Dịch vụ lưu trú 22,1 tỷ đồng, tăng 71,8% so với tháng trước và tăng 9,4% so với cùng kỳ năm trước; dịch vụ ăn uống 398,7 tỷ đồng, tăng 3,5% và tăng 9,2%; dịch vụ lữ hành 0,9 tỷ đồng, tăng 7,1% so với tháng trước và giảm 52,1% so với cùng kỳ năm trước.
- Dịch vụ khác ước tính 158,6 tỷ đồng, tăng 0,8% so với tháng trước và tăng 14,7% so với cùng kỳ năm trước.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 7 tháng dự tính 19.698,5 tỷ đồng, tăng 3,1% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: Kinh doanh thương nghiệp 16.567,4 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 84,1% và tăng 6,5%; lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành 2.260,4 tỷ đồng, chiếm 11,5% và giảm 14,4%; dịch vụ 870,7 tỷ đồng, chiếm 4,4% và giảm 4,8% so với cùng kỳ năm trước.
Tổng số vụ kiểm tra, quản lý thị trường từ đầu năm đến nay là 374 vụ, số vụ vi phạm là 330 vụ, số vụ xử lý 384 vụ với 440 hành vi vi phạm. Tổng số tiền thu nộp NSNN từ phạt hành chính là 1.738 triệu đồng.
6.2. Chỉ số giá
- Chỉ số giá tiêu dùng tháng 7/2020 so tháng trước tăng 0,44%, trong đó có 6/11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng như: Nhóm giao thông tăng 4,04% (tăng do chỉ số giá nhóm xăng, dầu tăng 9,01%); nhà ở, điện nước, chất đốt và VLXD tăng 0,64% (do người dân sử dụng lượng điện, nước tiêu thụ ở mức cao tăng làm cho chỉ số giá điện, nước sinh hoạt tăng; giá gas bình quân cả tháng tăng 1,18%, giá dầu hỏa tăng 430 đồng/lít tương ứng tăng 8,28%); giáo dục tăng 0,3%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,25%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,12%; may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,05%. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá giảm: Thiết bị và đồ dùng gia đình giảm 0,11%; hàng hóa và dịch vụ khác giảm 0,07%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,03%[2]; thuốc và dụng cụ y tế giảm 0,01%; nhóm có giá không đổi so với tháng trước là nhóm bưu chính viễn thông.
- Chỉ số giá tiêu dùng tháng 7/2020 so cùng kỳ năm trước tăng 5,25%, tăng chủ yếu ở nhóm: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 14,69% (lương thực tăng 4,94%, thực phẩm tăng 16,7%, ăn uống ngoài gia đình tăng 15,13%); thuốc và dịch vụ y tế tăng 3,18%; giáo dục tăng 5,29%. Riêng nhóm giao thông giảm 14,87%.
- Chỉ số giá tiêu dùng tháng 7/2020 so tháng 12 năm trước, tăng 0,44%; trong đó: Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 4,84% (lương thực tăng 3,29%, thực phẩm tăng 2,17%, ăn uống ngoài gia đình tăng 15,13%); nhóm giao thông giảm 14,09%; các nhóm còn lại tăng, giảm trong khoảng giảm 2,5% đến tăng 1,59%.
- Giá vàng 99,99 bình quân trong tháng 7/2020 là 4.982.000 đồng/chỉ; so tháng trước tăng 2,96%, so cùng tháng năm trước tăng 28,37%, so tháng 12 năm trước tăng 19,02%. Giá Đô la Mỹ bình quân trong tháng là 23.313 VND/USD; so tháng trước giảm 0,11%, so cùng tháng năm trước giảm 0,06%; so tháng 12 năm trước tăng 0,19%.
Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 7 tháng năm 2020 so bình quân cùng kỳ năm trước tăng 5,93%, tăng chủ yếu như: Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 13,66% (do lương thực tăng 2,73%, thực phẩm tăng 17,35%, ăn uống ngoài gia đình tăng 9,73%); giáo dục tăng 5,24%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 3,21%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 3,23%; đồ uống và thuốc lá tăng 2,39%; may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 2,22%;… Riêng nhóm giao thông giảm 10,02%.
6.3. Giao thông vận tải
Hoạt động vận tải hành khách và hàng hóa có nhiều khởi sắc. Tổng doanh thu ngành vận tải tháng 7/2020 dự tính 332,3 tỷ đồng[3], tăng 13,9% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: Doanh thu vận tải hành khách 57,8 tỷ đồng, tăng 6,1%; doanh thu vận tải hàng hóa 268,3 tỷ đồng, tăng 16%; kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải 6,2 tỷ đồng, tăng 2,3%; doanh thu vận tải đường bộ tháng 7/2020 là 326 tỷ đồng, tăng 14,1% so với cùng kỳ năm trước.
Hiện nay trên địa bàn tỉnh tuyến xe buýt Tuy Hòa - Sơn Hòa và ngược lại đã tạm ngừng hoạt động, nên các chuyến xe 12 đến 16 chỗ do tư nhân vận hành hoạt động mạnh hơn và chia nhau hoạt động, xuất phát không trùng thời gian trong ngày, hoạt động không bến bãi nhưng đón và trả khách theo yêu cầu để tăng sức cạnh tranh nên khách hàng rất ưa chuộng; đồng thời xuất hiện nhiều đầu xe khách liên tỉnh chạy trên các tuyến tỉnh lộ, thuận lợi cho bà con đi ngoại tỉnh đón xe tại các xã mà không phải di chuyển xuống TP.Tuy Hòa để đón xe như những năm trước.
Vận chuyển hành khách chủ yếu là đường bộ tháng 7 dự tính 1.426,9 nghìn lượt khách, tăng 5,8% so với cùng kỳ năm trước và luân chuyển đạt 85.710,6 nghìn lượt khách.km, tăng 4,8%.
Khối lượng hàng hóa vận chuyển chủ yếu là đường bộ tháng 7 dự tính 970,9 nghìn tấn, tăng 8,9% và luân chuyển đạt 77.895,6 nghìn tấn.km, tăng 10%.
- Lũy kế 7 tháng, doanh thu hoạt động vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải ước tính 1.940,7 tỷ đồng, giảm 7,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Vận tải hành khách 331,9 tỷ đồng, giảm 20,6%; vận tải hàng hóa là 1.574,6 tỷ đồng giảm 4,7%. Trong tổng doanh thu hoạt động vận tải, vận tải đường bộ là 1.906,4 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 98,2%, giảm 7,6% so với cùng kỳ năm trước.
Khối lượng vận tải hành khách 7.719,5 nghìn lượt khách, giảm 22,6% và luân chuyển 469.113,3 nghìn lượt khách.km, giảm 21,8%. Khối lượng hàng hóa vận chuyển 6.227,7 nghìn tấn, giảm 12,5%, luân chuyển 434.856,1 nghìn tấn.km, giảm 12,1% so với cùng kỳ năm trước.
Vận tải hàng không, lượng hành khách qua Cảng hàng không Tuy Hòa trong tháng đạt 58.539 lượt khách, lũy kế 7 tháng đạt 197.380 lượt khách[4], giảm 18,3% so với cùng kỳ năm trước.
Vận tải đường sắt, lượng hành khách lên tàu tại các Ga trên địa bàn tỉnh trong tháng đạt 10.991 lượt khách, lũy kế 7 tháng đạt 60.884 lượt khách, giảm 48,1% so với cùng kỳ năm trước.
Vận tải đường biển, lượng hàng hóa thông qua cảng Vũng Rô trong tháng đạt 17.000 tấn, lũy kế 7 tháng đạt 112.000 tấn, giảm 36% so với cùng kỳ năm trước.
6.4. Hoạt động du lịch
Tổng lượt khách du lịch đến Phú Yên do cơ sở lưu trú phục vụ tháng 7/2020 ước tính 95.189 lượt, tăng 81% so tháng trước và tăng 6,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách quốc tế đạt 255 lượt, tăng 1,6% so tháng trước và giảm 82,9% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 7 tháng tổng lượt khách được các cơ sở lưu trú đón tiếp là 383.519 lượt, giảm 37,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách quốc tế 4.904 lượt, giảm 48,7%.
Hưởng ứng chương trình kích cầu du lịch nội địa “Người Việt Nam đi du lịch Việt Nam”. Các doanh nghiệp lưu trú, ăn uống, vận tải và các dịch vụ phụ trợ đều có chính sách giảm giá kích cầu đối với khách đoàn. Ngoài ra, ngành Du lịch tỉnh cũng chủ động tổ chức các sự kiện văn hóa, ẩm thực, đón tiếp các đoàn famtrip đến khảo sát sản phẩm du lịch và liên kết phát triển tour với các tỉnh trong khu vực. Điển hình như, Phú Yên - Gia Lai - Lâm Đồng liên kết hợp tác đẩy mạnh tour “biển cả - đại ngàn”. Các tỉnh Quảng Ngãi - Bình Định - Phú Yên được CLB Lữ hành thủ đô chọn để xây dựng tour “Cung đường biển huyền thoại”. Đến thời điểm này, khách sạn gần như được đối tác lữ hành đặt lịch, kín phòng cho đến hết tháng 8/2020, đặc biệt là các khách sạn, resort ven biển.
7. Các vấn đề xã hội
7.1. Hoạt động văn hóa - Thể thao
- Hoạt động văn hóa, tuyên truyền
Đã tổ chức thực hiện tốt các hoạt động tuyên truyền như: Giới thiệu 500 tên/500 bản sách lưu động tại Đồn Biên Phòng Xuân Đài, thị xã Sông Cầu; cổ động trực quan 60 m2 pano nhân dịp kỷ niệm 73 năm ngày Thương binh Liệt sĩ (27/7), 110 năm ngày sinh Chủ tịch - Luật sư Nguyễn Hữu Thọ (10/7).
Tổ chức dàn dựng 03 chương trình nâng cấp và biểu diễn 29 buổi trong tỉnh; 96 buổi chiếu phim lưu động phục vụ đồng bào miền núi, vùng sâu, vùng xa; 13 buổi văn nghệ lưu động với chủ đề “Uống nước nhớ nguồn”; cấp 120 thẻ bạn đọc; phục vụ 5.749 lượt bạn đọc với 10.840 lượt tài liệu, có 934 lượt truy cập trang web thư viện.
- Hoạt động thể dục, thể thao
Phối hợp với Tổng cục Thể dục Thể thao tổ chức giải thể dục Aerobic vô địch trẻ quốc gia năm 2020 tại Phú Yên. Phối hợp Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tổ chức giải thể thao người khuyết tật tỉnh Phú Yên.
Tham gia giải vô địch Karate miền Trung, Tây Nguyên, kết quả đạt 15 huy chương các loại, trong đó: 02 vàng, 01 bạc và 12 đồng.
7.2. Y tế
Tháng 7/2020, bệnh sốt xuất huyết phát hiện 60 ổ dịch, tăng 42 ổ dịch; 1.191 ca mắc, gấp 1,8 lần; 01 tử vong, tăng 01 ca. Bệnh tay chân miệng 30 ca mắc, gấp 1,5 lần; không có ca tử vong. Sốt rét có 3 trường hợp mắc, giảm 96% số ca mắc so với cùng kỳ năm trước; sốt rét ác tính 0, tử vong 0. Lũy kế đến nay, bệnh sốt xuất huyết phát hiện 147 ổ dịch, tăng 21 ổ dịch; 3.036 ca mắc, giảm 4%; 01 tử vong, tăng 01 ca. Bệnh tay chân miệng 41 ca mắc, giảm 33,8%; không có ca tử vong. Sốt rét có 106 trường hợp mắc, giảm 76% số ca mắc so với cùng kỳ năm trước.
Đã phát hiện mới 03 trường hợp nhiễm HIV(+); luỹ kế toàn tỉnh có 782 ca nhiễm HIV (trong đó 294 bệnh nhân AIDS, 194 bệnh nhân tử vong). Điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc methadone cho 67 bệnh nhân (trong tháng có 2 bệnh nhân bỏ điều trị, 01 bệnh nhân điều trị lại và 02 bệnh nhân mới).
Chương trình tiêm chủng mở rộng, đến cuối tháng 7/2020 đạt 54,1% số cháu dưới 1 tuổi được tiêm chủng đầy đủ 8 loại vaccine phòng bệnh; số bà mẹ mang thai được tiêm phòng uốn ván 2 mũi đạt tỷ lệ 52,5%.
Trung tâm Da liễu đã khám cho 3.336 lượt và điều trị cho 3.332 lượt bệnh ngoài da. Trạm chuyên khoa Lao khám 431 lượt bệnh nhân, phát hiện mới 53 trường hợp mắc, trong đó có 29 trường hợp xét nghiệm có trực khuẩn lao (+). Trạm chuyên khoa Tâm thần đã khám 751 lượt. Trung tâm Giám định y khoa đã khám cho 1.390 lượt người. Trung tâm Kiểm nghiệm Thuốc MP-TP đã kiểm nghiệm được 79 mẫu (32 mẫu đông dược, 40 mẫu thuốc, 2 mẫu mỹ phẩm, 5 mẫu thực phẩm), tất cả đều đạt chất lượng.
Đã thẩm định và cấp 24 giấy chứng nhận đủ điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm; tổ chức kiểm tra 12 cơ sở, kết quả có 12/12 cơ sở đạt yêu cầu về an toàn thực phẩm. Toàn tỉnh xảy ra 01 vụ ngộ độc thực phẩm tại Trung tâm Huấn luyện thể dục thể thao thành phố Tuy Hòa (ngộ độc do thực phẩm ô nhiễm vi sinh vật) với 12 người mắc, không tử vong.
7.3. Giáo dục
Đoàn công tác của Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức kiểm tra công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục, xóa mù chữ tỉnh Phú Yên. Kết quả tỉnh Phú Yên đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non trẻ 5 tuổi; phổ cập giáo dục tiểu học đạt mức độ 3 và phổ cập giáo dục THCS đạt mức độ 1, xóa mù chữ đạt mức độ 1 tại thời điểm tháng 12/2019.
Kỳ thi tuyển sinh lớp 10 năm học 2020-2021, diễn ra từ ngày 20-21/7/2020 với 5.694 thí sinh thi tại 12 điểm thi của các trường trong toàn tỉnh đảm bảo đúng quy chế, an toàn; công tác ra đề và vận chuyển đề thi đúng thời gian quy định; đồng thời chuẩn bị tốt cơ sở vật chất tại các địa điểm đặt điểm thi nhằm đảm bảo kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2020 diễn ra an toàn.
7.4. Trật tự an toàn xã hội
- Tai nạn giao thông
Tai nạn giao thông trong tháng 7/2020 (từ ngày 15/6/2020-14/7/2020) tăng số vụ, số người chết và giảm số người bị thương, toàn tỉnh đã xảy ra 14 vụ tai nạn giao thông, tăng 2 vụ; làm chết 9 người, tăng 1 người; bị thương 10 người, giảm 4 người so với cùng kỳ năm trước; thiệt hại tài sản 122 triệu đồng. Trong tháng chỉ xảy ra tai nạn giao thông đường bộ, không xảy ra tai nạn giao thông đường sắt.
Lũy kế từ 15/12/2019-14/7/2020, toàn tỉnh đã xảy ra 103 vụ tai nạn giao thông, tăng 8 vụ; làm chết 62 người, tăng 18 người; bị thương 77 người, giảm 6 người so với cùng kỳ năm trước; thiệt hại tài sản 1.094,9 triệu đồng. Trong đó, tai nạn giao thông đường bộ xảy ra 101 vụ, tăng 9 vụ; làm chết 60 người, tăng 17 người; bị thương 77 người, giảm 5 người bị thương so với cùng kỳ năm trước; thiệt hại tài sản 1092,9 triệu đồng. Tai nạn giao thông đường sắt xảy ra 2 vụ, làm chết 2 người, so với cùng kỳ năm trước giảm 1 vụ, tăng 1 người chết và giảm 1 người bị thương; thiệt hại tài sản 2 triệu đồng.
- Tình hình cháy, nổ - vi phạm môi trường
Từ ngày 16/6/2020-15/7/2020, toàn tỉnh xảy ra 6 vụ cháy, ước thiệt hại tài sản 275 triệu đồng. Lũy kế đến 15/7/2020, toàn tỉnh xảy ra 16 vụ cháy, ước thiệt hại tài sản 664 triệu đồng.
Các lực lượng chức năng đã phát hiện 22 vụ vi phạm môi trường, lập biên bản xử lý vi phạm 16 vụ, phạt tiền 30 triệu đồng. Lũy kế đến 15/7/2020, toàn tỉnh phát hiện 106 vụ vi phạm môi trường, lập biên bản xử lý vi phạm 59 vụ, phạt tiền 122,5 triệu đồng.
7.5. Các chính sách an sinh xã hội
Tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 42/NQ-CP và Quyết định số 15/2020/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và các văn bản chỉ đạo của UBND tỉnh về các biện pháp hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch Covid-19. Tính đến ngày 16/7/2020, các nhóm đối tượng người lao động đã được hỗ trợ[5] là 18.559 người, với tổng kinh phí gần 18,6 tỷ đồng.
Tổ chức thăm hỏi, tặng quà cho các đối tượng thương binh, gia đình liệt sĩ gồm: Quà của Chủ Tịch nước, 16.320 suất, số tiền 3,3 tỷ đồng; quà của tỉnh tổng số 18.063 suất, số tiền 7,45 tỷ đồng. Ngoài ra các huyện, thị xã, thành phố đều trích kinh phí tặng quà cho đối tượng với mức từ 100.000đ - 200.000đ/suất.
Đưa 04 Bà mẹ VNAH tiêu biểu của tỉnh đi dự Hội nghị Bà mẹ VNAH tiêu biểu toàn quốc do Bộ LĐ-TBXH tổ chức tại Hà Nội; 02 thân nhân liệt sĩ đi nhận Bằng Tổ quốc ghi công do Bộ LĐ-TBXH tổ chức tại tỉnh Quảng Nam.
Tích cực vận động xây dựng Quỹ Đền ơn đáp nghĩa năm 2020, tính đến ngày 10/7/2020 tổng số tiền 2.924 triệu đồng, trong đó cấp tỉnh 1.375 triệu đồng, cấp huyện 1.549 triệu đồng. Phê duyệt kinh phí xóa nhà tạm cho 50 hộ nghèo để các địa phương triển khai hỗ trợ xây dựng.
Phối hợp Bệnh viện tim Tâm đức TP.Hồ Chí Minh tổ chức khám sàng lọc bệnh tim bẩm sinh cho trẻ em toàn tỉnh, tại Bệnh viện Sản nhi, với 104 trẻ đăng ký khám. Kết quả chỉ định phẫu thuật 15 trường hợp.
8. Công tác phòng chống dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của vi rút Corona gây ra (Covid-19)
Sở Y tế đã chỉ đạo các đơn vị y tế trực thuộc tiếp tục thực hiện các biện pháp phòng chống dịch Covid-19 trong tình hình mới theo Thông báo số 219/TB-VPCP ngày 30/6/2020 của Văn phòng Chính phủ và Công văn số 3629/CV-BCĐ ngày 06/7/2020 của BCĐ Quốc gia phòng chống dịch. Tiếp tục giám sát tình hình dịch theo đúng qui định của Bộ Y tế, phun hóa chất khử khuẩn và phun nhắc lại tại các địa điểm thường tập trung đông người. Đã thực hiện giám sát y tế 15.605 trường hợp (trong đó 509 người nước ngoài đến từ các quốc gia, lãnh thổ và các vùng có dịch). Hiện tại, còn 5 người đang trong thời gian giám sát, cụ thể: Cách ly tại cơ sở y tế: 0/20 người; cách ly tại cơ sở cách ly tập trung: 0/8 người; cách ly tại nhà/ nơi lưu trú: 0/1.738 người; đang tự theo dõi sức khỏe hàng ngày: 5/13.839 người. Đã lấy mẫu làm xét nghiệm 119 trường hợp, kết quả 119 âm tính. Đến thời điểm hiện tại, trên địa bàn tỉnh không có trường hợp bệnh xác định, bệnh nghi ngờ và trường hợp tiếp xúc gần./.
______________________________________
[1] Trong đó, các ngành công nghiệp cấp II tăng so với cùng kỳ năm trước như: Sản xuất chế biến thực phẩm tăng 9,5%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa tăng 9,3%; sản xuất thuốc,hóa dược và dược liệu tăng 7%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 5,3%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 0,8% góp phần làm tăng tốc độ phát triển chung của toàn ngành công nghiệp.
[2] Trong tháng 7/2020 giá cả nhiều loại thực phẩm giảm nhẹ do thời tiết thuận lợi, yếu tố mùa vụ nên nguồn cung dồi dào, mặt hàng đa dạng, phong phú, thịt lợn giảm 3,18%, do giá lợn hơi trên thị trường trong tháng giảm khoảng 3.000đ-5000đ/kg. Hiện nay tiết nắng nóng kéo dài một số vùng trồng rau trên địa bàn thiếu nước tưới, nên các loại rau, đậu, đỗ sinh trưởng và phát triển chậm ảnh hưởng đến sản lượng thu hoạch, nguồn cung khan hiếm làm cho giá các mặt hàng rau, đậu, đỗ tăng 3,07%.
[3] Trong doanh thu ngành vận tải, vận tải của cơ sở cá thể 231,5 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 69,7%, tăng 15,9% so với cùng kỳ năm trước.
[4] Tuyến TP. HCM – Tuy Hòa: Trong tháng thực hiện 152 chuyến bay (cả đến và đi), vận chuyển 24.719 HK, hệ số sử dụng ghế đạt 78% (trong đó: VietJet Air thực hiện 78 chuyến bay, vận chuyển 12.903HK, hệ số ghế sử dụng đạt 73,5%; Vietnam Airlines thực hiện 74 chuyến bay, vận chuyển 11.816HK, hệ số sử dụng đạt 82,4%. Lũy kế từ đầu năm đến ngày 14/7/2020 thực hiện 738 chuyến bay, vận chuyển 110.163 HK, hệ số ghế sử dụng 73,4%; giảm 24,9% số khách và giảm 16,3% số chuyến so với cùng kỳ năm trước. Các Hãng hàng không đã thực hiện bay theo kế hoạch: Vietjet bay mỗi ngày 01 chuyến đến và 01 chuyến đi; Vietnam Airlines bay mỗi ngày 01 chuyến đến và 01 chuyến đi; riêng Jetstar Pacific Airlines chưa có kế hoạch bay trở lại.
Tuyến Hà Nội – Tuy Hòa: Trong tháng thực hiện 202 chuyến bay (cả đến và đi), vận chuyển 33.820 HK, hệ số sử dụng ghế đạt 80,3%. Lũy kế từ đầu năm đến ngày 14/7/2020 thực hiện 632 chuyến bay, vận chuyển 87.217HK, hệ số sử dụng ghế đạt 65,12%. Các Hãng hàng không đã thực hiện bay theo kế hoạch: Vietnam Airline bay mỗi ngày 02 chuyến đến và 02 chuyến đi, từ ngày 03/7 đến nay mỗi ngày bay 03 chuyến; Vietjet Air bay mỗi ngày 01 chuyến đến và 01 chuyến đi; riêng Bamboo Airways chưa có kế hoạch bay trở lại.
[5] Trong đó: Lao động chấm dứt HĐLĐ nhưng không đủ điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp 19 lao động, số tiền 19 triệu đồng; lao động không có giao kết HĐLĐ bị mất việc làm 17.727 lao động, số tiền 17,727 tỷ đồng; hộ kinh doanh có kê khai thuế dưới 100 triệu đồng/năm 813 hộ, số tiền 813 triệu đồng.
Cục Thống kê tỉnh Phú Yên