(MPI) – Ngày 20/01/2021, với sự hỗ trợ của Chương trình Ôxtrâylia hỗ trợ cải cách kinh tế Việt Nam (Aus4Reform), Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương tổ chức Hội thảo công bố Báo cáo “Thực hiện hiệu quả Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực gắn với cải thiện tính tự chủ của nền kinh tế: Yêu cầu hoàn thiện thể chế thương mại và đầu tư ở Việt Nam”.
|
Toàn cảnh Hội thảo. Ảnh: MPI |
Phát biểu khai mạc Hội thảo, Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương TS. Trần Thị Hồng Minh cho biết, ý tưởng về Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) được hình thành trong bối cảnh gia tăng nỗ lực tự do hóa thương mại và đầu tư ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Báo cáo tiến hành đánh giá hoạt động thương mại và đầu tư của Việt Nam với các đối tác trong khu vực RCEP (bao gồm cả quy mô và chất lượng); xác định những vấn đề thể chế và cơ cấu đối với hoạt động thương mại và đầu tư có thể ảnh hưởng đến khả năng tận dụng cơ hội và xử lý thách thức từ RCEP và từ đó đề xuất các kiến nghị cải cách thể chế trong trung và dài hạn nhằm nâng cao hiệu quả thực thi RCEP gắn với tăng cường mức độ tự chủ của nền kinh tế Việt Nam.
Kể từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong phát triển kinh tế - xã hội. Việt Nam không ngừng cải thiện chất lượng tăng trưởng xuất khẩu và đầu tư và đảm bảo lợi ích từ hội nhập kinh tế quốc tế. Tham gia ký kết RCEP là kết quả sau nhiều nỗ lực không ngừng của Việt Nam. Ngoài các nội dung truyền thống như thương mại hàng hóa, quy tắc xuất xứ, SPS và TBT, RCEP còn đưa vào một số nội dung mới hơn như thương mại điện tử, cạnh tranh, … Khác với CPTPP và EVFTA, RCEP không có các Chương như môi trường, lao động, doanh nghiệp nhà nước, … Đối với hoạt động thương mại của Việt Nam, RCEP mang lại cả cơ hội và thách thức. Bao phủ 30% dân số toàn cầu, Hiệp định RCEP tạo ra một thị trường lớn và tiềm năng cho xuất khẩu. Các nghiên cứu đều cho thấy RCEP có tác động tạo thương mại, chứ không chỉ là chuyển hướng thương mại. Ngay cả với nhập khẩu,Việt Nam cũng có thể được hưởng lợi từ việc gia tăng chất lượng hàng nhập khẩu cho tiêu dùng. Cùng với việc gia tăng thương mại hàng trung gian, doanh nghiệp Việt Nam cũng có cơ hội tham gia sâu rộng hơn vào chuỗi giá trị và sản xuất khu vực.
Báo cáo đưa ra cách tiếp cận để thực hiện hiệu quả RCEP gắn với bảo đảm mức độ tự chủ của nền kinh tế Việt Nam. Việc thực hiện hiệu quả RCEP gắn với 05 nhóm giải pháp chính: (1) tiếp tục thực hiện các cải cách đối với nền tảng kinh tế vi mô nói chung, bao gồm cả chính sách cạnh tranh, môi trường kinh doanh, các thị trường nhân tố sản xuất; (2) đặt chính sách đầu tư ở vị trí trung tâm, gắn sâu xa hơn về một tư duy định hướng, khả thi về một số ít ngành cần ưu tiên phát triển, các ngành cần thúc đẩy tự do cạnh tranh, mức độ tham gia chuỗi giá trị ở khu vực RCEP và mức độ tự chủ trong thu hút, sử dụng các dự án FDI từ khu vực RCEP; (3) hoàn thiện chính sách thương mại, nhất quán với chính sách đầu tư, qua đó góp phần xử lý hiệu quả, hài hòa hơn vấn đề nhập siêu và nhập khẩu hàng trung gian, đồng thời phù hợp với sự tham gia của doanh nghiệp trong nước vào chuỗi giá trị khu vực RCEP; (4) xử lý các điểm nghẽn về hạ tầng và nguồn nhân lực, trong đó có sự tham gia của các nhà đầu tư và đối tác nước ngoài ở trình độ phù hợp; (5) phòng chống hiệu quả đại dịch Covid-19.
Để tăng cường tính tự chủ của nền kinh tế khi thực hiện RCEP, yếu tố cải cách càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, trong đó, hài hòa quá trình cải cách thể chế khi thực hiện các FTA như CPTPP và EVFTA và phát huy vai trò trung tâm của ASEAN. Theo đó, các nước ASEAN cần gia tăng hợp tác hiệu quả, lưu tâm tới những lĩnh vực cải cách liên qua đến thương mại và đầu tư (như môi trường đầu tư, kết nối trong chuỗi giá trị, …) và những nội dung khác cần tiếp tục thỏa thuận và hoàn thiện sau khi RCEP đi vào thực thi. Đây chính là tiền đề quan trọng để các nước đối tác tôn trọng và cùng phát huy vai trò trung tâm của ASEAN./.
Minh Hậu
Bộ Kế hoạch và Đầu tư