(MPI) - Tại tọa đàm Tham vấn chuyên gia về việc thực hiện chính sách, pháp luật về công tác quy hoạch kể từ khi Luật Quy hoạch có hiệu lực thi hành diễn ra chiều ngày 09/4/2022, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương đã có bài trình bày về quy hoạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Tọa đàm do Phó Chủ tịch Quốc hội, Trưởng Đoàn giám sát Nguyễn Đức Hải, Đoàn giám sát chuyên đề của Quốc hội chủ trì.
|
Toàn cảnh Tọa đàm. Ảnh: Quochoi.vn |
Tọa đàm là dịp để các đại biểu Quốc hội, các chuyên gia, nhà khoa học, trao đổi, thảo luận về những kết quả đạt được, những hạn chế, nguyên nhân và đề xuất các kiến nghị, giải pháp với Quốc hội. Tọa đàm cũng nhằm đánh giá, phản biện đối với các sản phẩm quy hoạch đã được ban hành; tập trung trao đổi, thảo luận về quyết định phê duyệt nhiệm vụ lập quy hoạch của các quy hoạch cấp quốc gia và quy hoạch vùng; Đánh giá về công tác tư vấn; Đề xuất giải pháp để điều hành kinh tế - xã hội của quốc gia khi các quy hoạch quốc gia, quy hoạch vùng chưa được phê duyệt; tình hình sử dụng các nguồn lực cho công tác quy hoạch;...
Kết quả Tọa đàm sẽ được Ban Tổ chức tổng thuật và báo cáo với Đoàn giám sát của Quốc hội, lãnh đạo Quốc hội phục vụ việc tiếp tục hoàn thiện Báo cáo giám sát, phục vụ Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Quốc hội cho ý kiến, thảo luận về chuyên đề giám sát tối cao này.
Trình bày về quy hoạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), Thứ trưởng Trần Quốc Phương thông tin về quá trình lập quy hoạch vùng này, bao gồm công tác chuẩn bị và lựa chọn tư vấn lập quy hoạch; xây dựng Nhiệm vụ lập Quy hoạch; tổ chức lập, lấy ý kiến về quy hoạch; thẩm định quy hoạch. Đây là quy hoạch vùng đầu tiên được lập theo Luật Quy hoạch, chính vì vậy, Bộ Kế hoạch và Đầu tư rất coi trọng việc thẩm định quy hoạch để đảm bảo chất lượng quy hoạch. Hội đồng thẩm định Quy hoạch vùng ĐBSCL là hội đồng thẩm định quy hoạch có nhiều chuyên gia phản biện nhất từ trước đến nay.
Trong quá trình thẩm định quy hoạch, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tổ chức các cuộc họp kỹ thuật với các thành viên Hội đồng thẩm định để tham vấn về các nội dung chính của quy hoạch như: phương hướng phát triển ngành, lĩnh vực có lợi thế; phương hướng tổ chức không gian; phương hướng phát triển hạ tầng; phương hướng bảo vệ môi trường, khai thác sử dụng bền vững tài nguyên...
Quy hoạch vùng ĐBSCL được xây dựng trong bối cảnh phức tạp, có nhiều thách thức và cơ hội. Luật Quy hoạch, Nghị quyết 120/NQ-CP của Chính phủ về Phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với BĐKH là cơ sở pháp lý và kim chỉ nam và định hướng chính cho quá trình xây dựng Quy hoạch vùng.
Quy hoạch vùng ĐBSCL đưa ra sáu quan điểm chính. Thứ nhất, quan điểm phát triển bền vững, chú trọng bảo vệ, tôn tạo và phát triển nền tảng văn hóa - xã hội và hệ sinh thái tự nhiên; lấy “con người” làm trung tâm; coi tài nguyên nước là cốt lõi; quản lý tổng hợp tài nguyên nước trên toàn lưu vực đảm bảo việc duy trì nguồn sống cho môi trường và người dân; chuyển đổi mô hình sinh kế tại các tiểu vùng theo hướng chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu.
Thứ hai, biến thách thức thành cơ hội; chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng gia tăng hiệu quả và giá trị, trong đó chú trọng phát huy có hiệu quả các nguồn lực về con người, khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, đô thị, phát triển công nghiệp và chuyển đổi số.
Thứ ba, chuyển đổi mô hình phát triển từ phân tán, nhỏ lẻ sang tập trung; phát triển cụm ngành kinh tế nông nghiệp gắn kết với các khu vực đô thị hoá, công nghiệp hoá tạo ra sự phát triển đột phá.
Thứ tư, tăng cường liên kết giữa các địa phương trong vùng đồng bằng sông Cửu Long; với thành phố Hồ Chí Minh và vùng Đông Nam Bộ; các nước trong khu vực ASEAN, đặc biệt là các nước thuộc Tiểu vùng sông Mê Công.
Thứ năm, tập trung phát triển kết cấu hạ tầng, có ý nghĩa quan trọng đối với việc chuyển đổi mô hình phát triển, đặc biệt chú trọng đến hạ tầng giao thông, năng lượng, cấp nước sạch, thủy lợi và hạ tầng xã hội.
Thứ sáu, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội; chú trọng việc đảm bảo an ninh lương thực, nguồn nước, biên giới, vùng biển và hải đảo.
Quy hoạch vùng ĐBSCL đưa ra mục tiêu đến năm 2030, phát triển vùng ĐBSCL đến năm 2030 trở thành trung tâm kinh tế nông nghiệp bền vững, năng động và hiệu quả cao của quốc gia, khu vực và thế giới trên cơ sở phát triển hệ thống các trung tâm đầu mối về nông nghiệp, các hành lang kinh tế và các đô thị động lực tập trung các dịch vụ và công nghiệp đa dạng với hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, thích ứng với biến đổi khí hậu; phát triển kinh tế biển; kinh tế du lịch; tăng cường kết nối nội vùng, liên vùng, trong nước và quốc tế; chú trọng phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; tạo dựng môi trường sống bền vững, chất lượng sống tốt cho người dân gắn với bảo tồn các tài nguyên, hệ sinh thái; duy trì và tôn tạo bản sắc văn hóa độc đáo, đa dạng của các dân tộc; bảo đảm ổn định chính trị, quốc phòng và an ninh.
Trong bối cảnh các quy hoạch được lập đồng thời, Quy hoạch vùng ĐBSCL đãđảm bảo tính thống nhất và cụ thể hóa 05 quy hoạch cấp quốc gia đã được phê duyệt bao gồm: Quy hoạch sử dụng đất quốc gia và 4 Quy hoạch ngành quốc gia về giao thông. Sau khi các quy hoạch cấp quốc gia được phê duyệt, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ rà soát, đánh giá sự phù hợp của quy hoạch vùng với các quy hoạch cấp trên và hiệu quả triển khai quy hoạch; báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét điều chỉnh quy hoạch phù hợp với quy hoạch cấp cao hơn theo quy định của Luật Quy hoạch.
Thứ trưởng Trần Quốc Phương nhấn mạnh, quy hoạch vùng ĐBSCL là quy hoạch vùng đầu tiên được thực hiện theo Luật Quy hoạch nên lập quy hoạch là quá trình vừa làm, vừa học hỏi, điều chỉnh và rút kinh nghiệm của cả cơ quan lập quy hoạch và đơn vị tư vấn. Trong quá trình lập quy hoạch có những khó khăn vướng mắc như quy hoạch được lập khi chưa có các quy hoạch cấp quốc gia được phê duyệt, dẫn đến chưa cụ thể hóa các định hướng lớn có tính liên vùng, có ý nghĩa quan trọng quốc gia, đặc biệt trọng một số lĩnh vực; Đại dịch Covid-19 làm ảnh hưởng đến quá trình tham vấn, lấy ý kiến về quy hoạch và việc huy động chuyên gia quốc tế, dẫn đến một số chuyên gia không sang được Việt Nam để làm việc và đi thực địa. Việc thu thập, xây dựng cơ sở dữ liệu gặp nhiều khó khăn dữ liệu quản lý phân tán ở các bộ, ngành, địa phương; dữ liệu chưa đồng bộ về công nghệ, quy cách; mức độ cập nhật khác nhau. Điều này dẫn đến khó khăn trong thu thập, biên tập, tích hợp dữ liệu phục vụ xây dựng mô hình phân tích, dự báo và xây dựng bản đồ.
Về bài học kinh nghiệm, Thứ trưởng Trần Quốc Phương cho rằng, quy hoạch không gian có tính tổng hợp, tích hợp đa ngành, trong khi đó, không có nhiều chuyên gia có năng lực, kinh nghiệm tổng hợp về tất cả các ngành, cũng như hiểu biết toàn điện về thực tiễn phát triển của địa phương, vùng lãnh thổ lập quy hoạch. Do đó, công tác tham vấn có ý nghĩa rất quan trọng. Quy hoạch lập theo cách tiếp cận tích hợp đa ngành đòi hỏi cần nhiều thời gian cho việc tham vấn và cần có phương pháp tham vấn phù hợp và hiệu quả, đảm bảo thông tin được trao đổi hai chiều giữa cơ quan lập quy hoạch và cơ quan được lấy ý kiến để tăng cường tính minh bạch của quá trình lập quy hoạch.
Cần sớm xây dựng Hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu quốc gia về quy hoạch để từng bước chuẩn hóa, đồng bộ hóa thông tin, dữ liệu cần thiết cho lập quy hoạch, theo dõi, đánh giá thực hiện quy hoạch. Một bộ cơ sở dữ liệu đầy đủ, cập nhật và được chuẩn hóa trên cùng một nền tảng công nghệ góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng quy hoạch và đẩy nhanh tiến độ lập quy hoạch.
Cần tăng cường việc xây dựng và ứng dụng phương pháp mô hình hóa, công cụ phân tích, đánh giá, đa tiêu chí, phân tích đánh giá liên ngành trên nền bản đồ GIS để nâng cao độ tin cậy, cơ sở khoa học của các phương án phát triển./.
Tùng Linh
Bộ Kế hoạch và Đầu tư