Năm 2022 là năm thứ hai Hà Tĩnh thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX và kế hoạch thực hiện nhiệm vụ 5 năm 2021-2025; là năm đầy ý nghĩa khi Hà Tĩnh chúng ta tổ chức kỷ niệm 65 năm Bác Hồ về thăm Hà Tĩnh và 15 năm thành lập thành phố Hà Tĩnh. Tuy nhiên, nhìn lại 6 tháng qua, việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh diễn ra trong điều kiện còn nhiều khó khăn, thách thức. Dịch COVID-19 bùng phát mạnh sau Tết Nguyên đán; tác động của xung đột Nga - Ukraine làm giá xăng, dầu tăng cao kéo theo giá nguyên liệu, hàng hóa cơ bản tăng; trong sản xuất nông nghiệp chịu tác động bởi dịch bệnh, thời tiết diễn biến khó lường... đã ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nhà.Trong bối cảnh đó, cả hệ thống chính trị đã tập trung cao trong phòng, chống dịch; các cấp, các ngành đã triển khai thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ để tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh; tập trung chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc đẩy nhanh công tác giải phóng mặt bằng và thi công các công trình dự án, nhất là các dự án trọng điểm; tiếp tục tạo môi trường đầu tư, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh để thu hút đấu tư; tích cực hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp. Bằng sự quyết tâm của cả hệ thống chính trị, sự đồng lòng của nhân dân, Hà Tĩnh đã đạt được những kết qủa nhất định. Tổng vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội tăng khá (trên 32%); thu ngân sách vượt xa so với cùng kỳ năm trước; các lĩnh vực văn hóa, xã hội được quan tâm, đời sống người dân được bảo đảm; quốc phòng - an ninh, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Kết quả cụ thể được thể hiện trên các lĩnh vực sau:
I. LĨNH VỰC KINH TẾ
1. Tốc độ tăng trưởng, cơ cấu tổng sản phẩm trong tỉnh (GRDP)
1.1. Về tăng trưởng: Tổng giá trị sản phẩm trong tỉnh (GRDP) theo giá so sánh 6 tháng đầu năm 2022 ước đạt 23.529 tỷ đồng, tăng 0,08% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Khu vực Nông, lâm nghiệp, thủy sản tăng 0,22%; khu vực Công nghiệp, xây dựng giảm 8,34%, trong đó ngành Công nghiệp giảm 11,46%; khu vực Dịch vụ tăng 6,97%; thuế sản phẩm trừ trở cấp sản phẩm tăng 12,04%.
1.2. Về cơ cấu kinh tế: 6 tháng đầu năm 2022, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 15,97%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 37,10%, trong đó, ngành Công nghiệp chiếm 29,61%; khu vực Dịch vụ chiếm 36,86%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 10,07%. Qua số liệu theo giỏi từng năm cho thấy Hà Tĩnh đang phát triển theo hướng tích cực, tăng tỷ trọng ngành Công nghiệp - xây dựng và giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp.
Nhìn vào bức tranh kinh tế của Hà Tĩnh cho thấy, đây là kỳ đầu tiên của kế hoạch 5 năm 2021-2025 mà Hà Tĩnh chúng ta có mức tăng trưởng thấp nhất.
1.3. Một số ngành, lĩnh vực tác động đến tăng trưởng kinh tế
*Đối với Khu vực Nông, LN, Thủy sản, trong 6 tháng vừa qua sản xuất nông nghiệp không đạt như kỳ vọng, chỉ tăng nhẹ 0,22% so với cùng kỳ và đóng góp 0,03 điểm % trong tổng mức tăng chung. Nguyên nhân của khu vực này giảm là do:
- Sản xuất nông nghiệp diễn ra trong điều kiện thời tiết bất thường xẩy ra ở những thời điểm sinh trưởng và phát triển quan trọng của cây trồng như giai đoạn thụ phấn của ngô, lạc, giai đoạn phơi màu của lúa. Ngoài ra bệnh đạo ôn lá trên cây lúa, bệnh héo rũ gốc mốc đen, trắng trên cây lạc, sâu keo mùa trên cây ngô cũng đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến năng suất, sản lượng của cây trồng. Vì vậy năng suất, sản lượng các loại cây trồng chủ lực đều giảm so với cùng kỳ năm trước, cụ thể như: Năng suất lúa ước đạt 55,62 tạ/ha (giảm 3,33 tạ/ha); năng suất ngô ước đạt 44,34 ta/ha (giảm 0,46 ta/ha); năng suất lạc ước đạt 26,14 ta/ha (giảm 2,24 ta/ha)..vv. Trong sản xuất chăn nuôi vẫn còn gặp khó khăn do ảnh hưởng của dịch bệnh. Ngoài ra, việc chi phí sản xuất từ con giống, thức ăn đều tăng cao trong khi giá lợn hơi không tăng vẫn là rào cản trong việc tái đàn. Vì vậy hoạt động chăn nuôi chỉ tăng nhẹ, cụ thể, Sản lượng thịt trâu xuất chuồng ước đạt 1.901 tấn (tăng 1,12% so với cùng kỳ); sản lượng thịt bò ước đạt 5.150 tấn( tăng 3,41); sản lượng thịt lợn ước đạt 32.209 tấn (tăng 1,32%). Do vậy ngành nông nghiệp đã giảm 0,63% đóng góp -0,08 điểm % trong tổng mức tăng chung và đóng góp -0,53 điểm % trong nội ngành
- Ngành lâm nghiệp tăng 7,39% so với cùng kỳ đóng góp 0,07 điểm % trong tổng mức tăng chung. Tuy nhiên do tỷ trọng giá trị của ngành này là không lớn nên chỉ đóng góp 0,45 điểm % trong nội ngành
- Ngành thủy sản tăng 2,99% so với cùng kỳ năm trước đóng góp đóng góp 0,04 điểm % trong tổng mức tăng chung, đóng góp 0,3 điểm % trong nội ngành. Nhìn chung, hoạt động khai thác hải sản biển tuy gặp khó khăn do chi phí xăng, dầu, nhân công...ngày càng tăng nhưng do các hoạt động du lịch hồi phục trở lại, nhu cầu sử dụng hải sản tăng cao với giá cả ổn định nên ngư dân vẫn tiếp tục vươn khơi đánh bắt. Ước tính 6 tháng đầu năm 2022, tổng sản lượng thủy hải sản ước đạt 26,147 nghìn tấn tăng 3,45% so với cùng kỳ, trong đó sản lượng khai thác ước đạt 19,955 nghìn tấn tăng 3,96% so với cùng kỳ năm trước.
*Khu vực công nghiệp và xây dựng: Hiện nay trong cơ cấu của nền kinh tế của chúng ta thì khu vực Công nghiệp - xây dựng chiếm tỷ trọng khá cao (chiếm 37,10%) trong đó, ngành Công nghiệp chiếm 29,61%, điều này thể hiện đầu tàu phát triển kinh tế của tỉnh hiện nay vẫn là ngành công nghiệp. Tuy nhiên trong 6 tháng vừa qua, hoạt động sản xuất của ngành công nghiệp tiếp tục bị ảnh hưởng, đặc biệt là ngành sản xuất phân phối điện, cụ thể là Tổ máy số 1 của Nhà máy Nhiệt điện Vũng Áng 1 gặp sự cố đang phải ngừng hoạt động đến nay chưa khắc phục được, tổng sản lượng điện chỉ sản xuất được 4.121 triệu KWh giảm 36,34% (giảm 2.362 triệu KWh) so với cùng kỳ. Trong đó, riêng nhà máy nhiệt điện I chỉ sản xuất 1.845 triệu KWh giảm 53,34% (giảm 2.109 triệu KWh) so với cùng kỳ. Ngoài ra trong 6 tháng vừa qua do giá đầu vào tăng trong khi đó giá thành phẩm thép có phần giảm nên sản phẩm phôi thép của Phomosa chỉ sản xuất được 3190 ngàn tấn, giảm 1,67% (giảm 54 ngàn tấn) so với cùng kỳ. Bên cạnh đó, trong khi các động lực tăng trưởng chính (Formosa, Nhiệt điện Vũng Áng I) sản xuất sụt giảm hoặc tăng trưởng thấp thì sản xuất công nghiệp vẫn chưa có các năng lực mới tăng thêm để đóng góp vào tăng trưởng kinh tế.
Với sự sụt giảm lượng điện sản xuất trong 6 tháng vừa qua đã làm cho GRDP ngành Công nghiệp giảm 11,46% so với cùng kỳ và làm giảm 3,94 điểm phần trăm vào tốc độ tăng GRDP toàn nền kinh tế. Và đây là 2 lý do chính làm cho tổng sản phẩm trong tỉnh không có tăng trưởng.
*Đối với khu vực Dịch vụ: Mặc dù trong 6 tháng vừa qua chúng ta đang bình thường mới với tình hình dịch Covid-19, tuy nhiên vào những tháng đầu của quý I/2022 do ảnh hưởng của dịch Covid- 19 trên diện rộng, số ca lây nhiễm tăng nhanh trên phạm vi toàn quốc dẫn tới các hoạt động sản xuất kinh doanh, giao thương, đi lại, sử dụng dịch vụ bị ảnh hưởng, doanh thu hoạt động kinh doanh hàng hóa, vận tải và dịch vụ đều giảm so với cùng kỳ năm trước. Đặc biệt một số ngành có GRDP trong quý I giảm như: Dịch vu lưu trú, ăn uống giảm 14,54%; ngành vận tải kho bãi giảm 7,72% so với cùng kỳ năm trước. Bước sang quý II/2022, tình hình dịch Covid -19 dần ổn định trợ lại, song do tình hình giá xăng, dầu tăng đã kéo hàng loạt các mặt hàng tăng theo, đặc biệt là giá nguyên vật liệu và hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng tăng cao đã ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của doanh nghiệp, người dân trên địa bàn. Thì đây củng là một trong những những nguyên nhân làm giảm điểm phần trăm của khu vực dịch vụ. Trong 6 tháng 2022 GRDP khu vực dịch vụ chỉ tăng 6,97% là chưa tương xứng với tiềm năng lợi thế của Hà Tĩnh.
*Thuế sản phẩm trừ (-) trợ cấp sản phẩm được tính trực tiếp vào GRDP, 6 tháng đầu năm 2022 thuế sản phẩm trừ (-) trợ cấp sản phẩm tăng 12,04%, đóng góp 1,11 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung của toàn ngành, và có mức tăng trưởng cao hơn mức tăng so với cùng kỳ năm trước.
2. Tài chính, ngân hàng
2.1 Hoạt động tài chính
Tiến độ thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh 6 tháng đầu năm 2022 đạt khá trên hầu hết các khu vực; các khoản thu, sắc thuế đều đạt và vượt kế hoạch đề ra. Dịch bệnh COVID-19 dần được kiểm soát tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phục hồi và tăng trưởng, qua đó góp phần đóng nộp NSNN cho địa phương. Chi ngân sách Nhà nước cơ bản đáp ứng kịp thời các nhiệm vụ đầu tư phát triển, chi thường xuyên, bảo đảm quốc phòng, an ninh và công tác phòng chống dịch Covid-19, phục hồi nền kinh tế.
Tổng thu ngân sách nhà nước sơ bộ tính đến ngày 15/6/2022 đạt 9.997,17 tỷ đồng (tăng 41,54% so với cùng kỳ). Trong đó, thu nội địa đạt 4.456,82 tỷ đồng (chiếm 44,58 % trong tổng thu) tăng 23,55% so với cùng kỳ. Một số sắc thuế thu vượt cao như: Thu tiền sử dụng đất 1.541,66 tỷ đồng (tăng 46,41% so với cùng kỳ); thu thuế thu nhập cá nhân 302,61 tỷ đồng (tăng 80,18% so với cùng kỳ; thu từ doanh nghiệp đầu tư nước ngoài 888,22 tỷ đồng (tăng 57,54%); thu cấp quyền khai thác khoáng sản 53,77 tỷ đồng tăng 185,54%…Một số nguyên nhân chủ yếu số thu từ DN có vốn đầu tư nước ngoài tăng do số nộp từ thuế nhà thầu của Dự án Nhà máy Nhiệt điện Vũng Áng II và số nộp của việc bán hàng hóa tồn kho năm 2021 của Công ty TNHH Gang thép Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh. Thu tiền sử dụng đất tăng do tiền sử dụng đất thu được từ hồ sơ quy hoạch đấu giá thực hiện hoàn thành cuối năm 2021, số nộp vào đầu năm 2022. Thuế thu nhập cá nhân cũng tăng cao hơn do thị trường mua bán, chuyển nhượng bất động sản trong những tháng đầu năm 2022 sôi động;… Bên cạnh thu nội địa, thu cân đối hoạt động xuất nhập khẩu đạt 5.094,35 tỷ đồng (chiếm 50,96% tổng thu) tăng 87,91% so với cùng kỳ, nguyên nhân chủ yếu do Công ty TNHH Gang thép Hưng nghiệp Formosa Hà Tĩnh tăng mạnh sản lượng nhập khẩu các mặt hàng trọng điểm có thuế là than, dầu, quặng…
Chi ngân sách nhà nước cơ bản đáp ứng các nhiệm vụ đã bố trí trong dự toán và các nhiệm vụ đột xuất quan trọng về phát triển KT-XH, QP-AN của địa phương. Tổng chi ngân sách nhà nước tính đến ngày 15/6/2022 sơ bộ đạt 7.488,48 tỷ đồng giảm 15,33% so với cùng kỳ. Trong cơ cấu nguồn chi thì chi đầu tư phát triển sơ bộ đạt 2.494,60 tỷ đồng chiếm 33,31% tổng chi, giảm 33,76% so với cùng kỳ; chi thường xuyên sơ bộ đạt 4.933,08 tỷ đồng chiếm 65,88% tổng chi, giảm 2,76% so với cùng kỳ năm 2021.
2.2 Hoạt động ngân hàng
Dịch bệnh Covid-19 trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh cũng như cả nước đã được kiểm soát tốt, hoạt động sản xuất kinh doanh của người dân, doanh nghiệp dần được phục hồi. Do đó, 6 tháng đầu năm 2022 nhu cầu tín dụng của người dân và doanh nghiệp để đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh tăng 11,39% so với cuối năm 2021. Tuy nhiên, do nguồn tiền gửi của một số doanh nghiệp lớn trên địa bàn giảm mạnh nên nguồn vốn huy động toàn địa bàn giảm 0,73% so với thời điểm cuối năm trước.
Ước nguồn vốn huy động đến 30/6/2022 đạt 86.785 tỷ đồng, giảm 0,73% so với cuối năm 2021.Trong đó, nguồn vốn huy động trung, dài hạn đạt 11.956 tỷ đồng, chiếm 13,78% tổng nguồn vốn huy động, tăng 3,73% so với cuối năm 2021; nguồn vốn huy động ngắn hạn đạt 74.829 tỷ đồng, giảm 1,4% so với đầu năm. Tiền gửi tiết kiệm ước đạt 60.445 tỷ đồng, tăng 4,14% so với đầu năm; tiền gửi thanh toán đạt 25.890 tỷ đồng, giảm 10,53% so với đầu năm. Ngay từ đầu năm, các TCTD trên địa bàn đã đẩy mạnh các chương trình ưu đãi nhằm thu hút nguồn tiền gửi tiết kiệm của dân cư như chương trình tiết kiệm dự thưởng… Nhờ đó, nguồn tiền gửi tiết kiệm dân cư tăng so với cuối năm 2021. Tuy nhiên, nguồn tiền gửi của một số doanh nghiệp lớn trên địa bàn giảm mạnh dẫn đến nguồn vốn huy động toàn địa bàn giảm so với cuối năm 2021.
Dư nợ cho vay đến 30/6/2022 đạt 79.950 tỷ đồng, tăng 11,39% so với cuối năm 2021. Trong đó, dư nợ ngắn hạn đạt 53.865 tỷ đồng (chiếm 67,37% tổng dư nợ), tăng 10,4% so với cuối năm 2021; dư nợ trung dài hạn đạt 26.085 tỷ đồng (chiếm 32,63% tổng dư nợ), tăng 13,47% so với cuối năm 2021. Tín dụng đối với một số lĩnh vực ưu tiên có mức tăng trưởng khá, trong đó tín dụng đối với cho vay nông nghiệp nông thôn tăng 10,61% so với cuối năm 2021, cho vay thực hiện phương án kinh doanh hàng xuất khẩu tăng 28,71% so với đầu năm, cho vay hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa tăng 11,49%. 6 tháng đầu năm 2022, nhu cầu tín dụng của người dân và doanh nghiệp để đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh tăng cao. Ngoài ra, trong thời gian tới, với việc triển khai chương trình hỗ trợ lãi suất 2%/năm từ ngân sách nhà nước 40.000 tỷ đồng, sẽ góp phần thúc đẩy tín dụng trên địa bàn tỉnh trong thời gian tới tiếp tục có mức tăng trưởng tốt.
Các tổ chức tín dụng trên địa bàn nghiêm túc chấp hành các quy định điều hành lãi suất của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, không có hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh, vượt trần. Lãi suất huy động tiền gửi bằng VNĐ ở mức 0,1-0,2%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng; từ 2,9-3,8% đối với tiền gửi từ 1 tháng đến dưới 6 tháng; 4-6%/năm đối với tiền gửi từ 6 tháng đến dưới 12 tháng; 5,3-6,6%/năm đối với tiền gửi từ 12 tháng trở lên. Lãi suất huy động USD ở mức 0%/năm đối với tiền gửi của tổ chức và dân cư. Lãi suất cho vay ngắn hạn phổ biến 4,5-10%/năm, trung dài hạn phổ biến 8,5-12%/năm; lãi suất cho vay ngắn hạn đối với các lĩnh vực ưu tiên phổ biến 4,5%/năm. Lãi suất cho vay USD ngắn hạn phổ biến ở mức 1,04-3%/năm; trung, dài hạn phổ biến mức 2,0-4,5%/năm. Công tác quản lý ngoại hối và hoạt động kinh doanh vàng được triển khai thực hiện nghiêm túc tại địa bàn. Các TCTD thực hiện nghiêm túc các quy định về niêm yết tỷ giá.
Tính đến 30/6/2022 nợ xấu ước tính 595 tỷ đồng, chiếm 0,74% tổng dư nợ. Trong đó, nợ xấu chương trình cho vay theo Nghị định 67/2014/NĐ-CP 132,09 tỷ đồng chiếm 22,22% nợ xấu toàn địa bàn.
3. Giá cả, lạm phát
Tháng 6 củng như 6 tháng đầu năm, tình hình giá cả trên thị trường đều có sự biến động lớn. Một số nhóm hàng hóa dịch vụ có chỉ số giá tăng cao so cùng kỳ, đặc biệt là giá nhiên liệu xăng, dầu tăng cao đã kéo theo các nhóm mặt hàng như điện, nước sinh hoạt, vật liệu xây dựng tăng theo đã ảnh hưởng đến chi tiêu người tiêu dùng cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, người dân.
Trong tháng 6 năm 2022, chỉ số CPI chung tăng 0,56% so với tháng trước, tăng 2,2% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Khu vực thành thị tăng 0,31% so với tháng trước, tăng 1,79% so với cùng kỳ năm trước; khu vực nông thôn tăng 0,67% so với tháng trước, tăng 2,38% so với cùng kỳ năm trước.
Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính có: 06 nhóm hàng hóa chỉ số giá tăng so với tháng trước bao gồm (Hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,22% so với tháng trước, so với cùng tháng năm trước giảm 2,76%; may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,01% so tháng trước, so cùng tháng năm trước tăng 2,25%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,81% so tháng trước, so cùng tháng năm trước tăng 5,59%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,08% so tháng trước, so cùng tháng năm trước tăng 0,59%; giao thông tăng 3,21% so tháng trước, so cùng tháng năm trước tăng 17,85 %; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,18% so tháng trước, tăng 4,09% so cùng tháng năm trước); có 02 nhóm hàng hóa có chỉ số giá giảm so với tháng trước đó là (Bưu chính viễn thông giảm 0,04% so với tháng trước, so với cùng tháng năm trước giảm 0,06%; hàng hóa và dịch vụ khác giảm 0,01% so với tháng trước, so với cùng tháng năm trước tăng 0,93%); có 03 nhóm không có biến động về chỉ số so với tháng trước gồm (Đồ uống và thuốc lá; giáo dục; thuốc và dịch vụ y tế).
Một số yếu tố chính tác động đến thị trường tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ trong tháng 6/2022 đó là: (1) Yếu tố mùa vụ: Ảnh hưởng thời tiết khắc nghiệt, nắng nóng, tác động đến nhu cầu thực phẩm, nước giải khát, hàng dệt may, hàng điện máy đồ dùng tăng mạnh. (2) Giá nhiên liệu xăng dầu bình quân trong tháng qua các kỳ điều chỉnh tiếp tục tăng mạnh so tháng trước và thời điểm đầu năm, ảnh hưởng đến chỉ số nhóm giao thông và chi phí trung gian các nhóm hàng hóa khác, tác động vào giá bán lẻ chung trên thị trường. (3) Giá vật liệu xây dựng tiếp tục tăng giá, do chi phí sản xuất và vận chuyển trong những tháng qua tăng cao. (4) Giá điện, nước sinh hoạt tăng cao, do nhu cầu tiêu dùng điện và nước sinh hoạt tăng, lượng sử dụng càng nhiều giá bậc thang thanh toán điện, nước càng cao.
Giá vàng bình quân trong tháng 6 ở mức 5.422 nghìn đồng/chỉ 9999, giảm 1,47% so với tháng trước, tăng 1,09% so với cùng tháng năm trước; giá đô la mỹ bình quân 2.384 nghìn đồng/100 USD tăng 0,25% so với tháng trước và tăng 2,89% so với cùng tháng năm trước.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, chỉ số giá tiêu dùng CPI tăng 1,58% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Khu vực thành thị tăng 1,66%; nông thôn tăng 1,54% so với cùng kỳ năm trước. Nếu phân theo nhóm ngành hàng: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 3,45%; đồ uống và thuốc lá tăng 2,34%; may mặc, mũ nón, giày dép tăng 2,13%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 5,96%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,8%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,22%; giao thông tăng 13,85%; bưu chính viễn thông giảm 0,02%; giáo dục tăng 0,17%; văn hoá, giải trí và du lịch tăng 2,12%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,87% so với cùng kỳ năm trước.
Dự kiến chỉ số giá bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tháng 7/2022 sẽ tăng hơn so tháng 6/2022. Giá các mặt hàng và dịch vụ liên quan đến hoạt động lưu trú, lữ hành, ăn uống ngoài gia đình tiếp tục tăng do tính chất thời vụ mùa du lịch biển. Giá điện và nước sinh hoạt có thể tăng mạnh trong bối cảnh thời tiết nắng nóng kéo dài. Một số mặt hàng khác dự kiến có thể tiếp tục tăng giá gồm hàng điện lạnh, xăng dầu các loại.
4. Đầu tư và xây dựng
6 tháng đầu năm 2022, Hà Tĩnh tiếp tục triển khai có hiệu quả các hoạt động xúc tiến, mời gọi doanh nghiệp trong nước và quốc tế tìm hiểu, đầu tư trên địa bàn, tạo điều kiện thuận lợi để đẩy nhanh tiến độ các dự án trọng điểm, góp phần phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội, là điểm sáng của cả nước trong việc thu hút đầu tư. Tổng vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội trên địa bàn Hà Tĩnh 6 tháng đầu năm 2022 ước đạt 15.243 tỷ đồng, tăng 32,61% so với cùng kỳ năm trước.
4.1 Vốn đầu tư phát triển
Tổng vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội trên địa bàn Hà Tĩnh 6 tháng đầu năm 2022 ước đạt 15.243 tỷ đồng, tăng 32,61% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Vốn nhà nước trên địa bàn ước đạt 2.892 tỷ đồng, tăng 2,96% so với cùng kỳ năm trước; vốn đầu tư ngoài nhà nước ước đạt 9.637 tỷ đồng, tăng 16,05% so với cùng kỳ năm trước; vốn đầu tư thực hiện khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ước đạt 2.713 tỷ đồng, tăng 6,1 lần so với cùng kỳ năm trước. Với mức tăng này đã phản ánh kết quả của các giải pháp thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công và hiệu quả các chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với cộng đồng doanh nghiệp, cũng như xu thế đón đầu dòng vốn ngoài nhà nước và dòng vốn FDI đang chuyển dịch vào Việt Nam trong bối cảnh đại dịch Covid-19 được kiểm soát. Trong đó phải kể đến dự án sản xuất Pin do công ty giải pháp năng lượng VinES đầu tư ước đạt 2.407 tỷ đồng và dự án nhà máy nhiệt điện Vũng Áng 2 dự ước đạt 2.305 tỷ đồng trong 6 tháng đầu năm 2022 là nguyên nhân chính dẫn đến vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội 6 tháng đầu năm 2022 tăng 32,61% so với cùng kỳ năm trước.
4.2 Hoạt động Xây dựng
Dự ước giá trị xây dựng 6 tháng đầu năm 2022 theo giá hiện hành đạt 9.769 tỷ đồng, tăng 16,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước tham gia thi công các công trình trên địa bàn tỉnh dự ước đạt 4.207 tỷ đồng, tăng 28,95% so với cùng kỳ năm trước; khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thực hiện ước đạt 21,7 tỷ đồng, giảm 77,51% với cùng kỳ năm trước; loại hình khác ước đạt 5.539 tỷ đồng, tăng 10,55% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, giá trị xây dựng loại hình xã, phường, thị trấn ước đạt 118 tỷ đồng, bằng 46,86% so với cùng kỳ năm trước; giá trị xây dựng hộ ước đạt 5.421 tỷ đồng, tăng 13,92% so với cùng kỳ năm trước. Loại hình khác giảm mạnh do công trình xã chủ yếu do doanh nghiệp thực hiện, do đó giá trị khu vực này giảm.
Thời điểm hiện tại, các hạng mục quan trọng của dự án Nhà máy Nhiệt điện Vũng Áng II đang được tiến hành khẩn trương theo đúng tiến độ đề ra và đã triển khai thực hiện ước đạt 2.305 tỷ đồng, trong đó xây dựng cơ bản ước đạt 1.200 tỷ đồng; dự án nhà máy CellPin ước đạt 2.407 tỷ đồng, trong đó giá trị xây dựng 580 tỷ dồng. Ngoài 2 dự án lớn trên, một số dự án khác đang trong quá trình xây dựng như: Nhà máy bia Hà Nội - Nghệ Tĩnh, các khu công nghiệp Cổng Khánh 1 và 2, khu đô thị TNR Stars Hồng Lĩnh (TX Hồng Lĩnh)... cũng đang được các nhà thầu tập trung triển khai thực hiện
5. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp
5.1. Tình hình đăng ký kinh doanh
Thời gian vừa qua, Hà Tĩnh tiếp tục tập trung chỉ đạo, tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc liên quan đến hồ sơ, thủ tục; triển khai các giải pháp đẩy mạnh phát triển doanh nghiệp, kịp thời thông tin, tháo gỡ các khó khăn cho các doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh. Đến ngày 15/6/2022 toàn tỉnh có 657 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng vốn đăng ký 4.907 tỷ đồng và tổng số lao động đăng ký là 8.035 lao động (tăng 24,96% về số doanh nghiệp, tăng 35,47% về vốn đăng ký, tăng 70,34% về số lao động so với cùng kỳ năm trước). Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới đạt 7,6 tỷ đồng (cùng kỳ năm 2021 là 6,96 tỷ đồng). Việc đăng ký thành lập mới doanh nghiệp trong 6 tháng đầu năm tăng khá là tín hiệu tích cực cho thấy xu hướng phục hồi của nền kinh tế.
Song song với số lượng Doanh nghiệp thành lập mới, trong 6 tháng vừa qua, do nhiều yếu tố khác nhau như tình hình dịch Covid-19 bùng phát đầu quý I, giá xăng dầu tăng cao đã ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nhiệp, cụ thể toàn tỉnh đã có 317 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động (tăng 15,27% so với cùng kỳ năm 2021), 70 doanh nghiệp giải thể (tăng 34,62% so với cùng kỳ năm 2021).
5.2 Thu hút đầu tư
Tính đến ngày 15/6/2022, Hà Tĩnh đã chấp thuận chủ trương đầu tư cho 10 dự án, trong đó 09 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn hơn 2.600 tỷ đồng, 01 dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn 3 triệu USD. Kêu gọi một số nhà đầu tư lớn vào khảo sát, tìm kiếm cơ hội đầu tư trên địa bàn tỉnh như: Vingroup đề xuất dự án Đầu tư xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công nghiệp Vinhomes Vũng Áng, khảo sát đầu tư dự án Khu đô thị Vinhomes Kỳ Anh tại phường Kỳ Trinh; Công ty cổ phần Crystal Bay đề xuất dự án Công viên Trung tâm và Khu đô thị Lam Hồng Garden Park City tại thành phố Hà Tĩnh; Công ty Cổ phần Tập đoàn Mặt trời (Sun Group), Công ty cổ phần Tập đoàn Ecopark khảo sát, nghiên cứu đầu tư các dự án đô thị sinh thái và các dịch vụ du lịch, vui chơi giải trí; Tập đoàn Quế Lâm nghiên cứu, hợp tác đầu tư, phát triển các mô hình nông nghiệp hữu cơ.
5.3. Xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp
Qua khảo sát các doanh nghiệp cho thấy, 6 tháng cuối năm, các doanh nghiệp nhận định sản xuất kinh doanh có xu hướng tăng lên và ổn định sản xuất. Trong đó: Doanh nghiệp dự báo xu hướng về khối lượng sản xuất ngành chế biến, chế tạo 6 tháng tiếp theo có xu hướng tăng lên chiếm tỷ trọng lớn (54,76% doanh nghiệp); doanh nghiệp dự báo giữ nguyên là 33,34% và chỉ có 11,9% doanh nghiệp cho rằng 6 tháng tiếp theo khối lượng sản xuất ngành chế biến, chế tạo sẽ giảm đi so với hiện tại.
Tỷ lệ doanh nghiệp dự báo xu hướng về số lượng đơn đặt hàng mới ngành chế biến chế tạo 6 tháng tiếp theo tăng lên chiếm tỷ trọng lớn nhất (57,14%). Trong khi đó dự báo xu hướng giảm đi chỉ chiếm 7,15%. Tương tự số lượng đơn đặt hàng xuất khẩu mới sẽ tăng lên và giữ nguyên trong 6 tháng tiếp theo. Các doanh nghiệp dự báo giữ nguyên số lượng đơn đặt hàng xuất khẩu chiếm tỷ lệ cao (64,29%).
Về lao động. Với tình hình thực tế hiện nay, các doanh nghiệp vẫn nhận định và dự báo số lượng lao động 6 tháng tiếp theo vẫn tiếp tục giữ nguyên nhằm ổn định sản xuất của doanh nghiệp. Tỷ lệ doanh nghiệp dự báo giữ nguyên số lao động trong 6 tháng tiếp theo chiếm đến 71,43% doanh nghiệp, trong khi đó tỷ lệ doanh nghiệp dự báo sẽ tăng lao động chiếm 19,05% và có 9,52% tỷ lệ doanh nghiệp cho rằng sẽ giảm số lượng lao động.
6. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản 6 tháng đầu năm 2022 diễn ra trong điều kiện thời tiết bất thường xẩy ra ở những thời điểm sinh trưởng và phát triển quan trọng của cây trồng như: Giai đoạn thụ phấn của ngô, lạc; giai đoạn phơi màu của lúa...tạo điều kiện cho các loại dịch bệnh phát triển, mặt khác cuối vụ xuất hiện đợt mưa lớn kèm theo gió thổi mạnh đã làm nhiều diện tích bị thiệt hại, ảnh hưởng không nhỏ đến năng suất các loại cây trồng; trong chăn nuôi vẫn duy trì ổn định và có mức tăng nhẹ so với cùng kỳ năm trước. Trong hoạt động lâm nghiệp, việc chăm sóc, trồng rừng tập trung tăng khá. Hoạt động thủy sản có nhiều khởi sắc khi ngành du lịch hoạt động trở lại, nhu cầu về thủy hải sản tăng cao nên khuyến khích người dân ra khơi bám biển.
6.1. Sản xuất nông nghiệp
a. Trồng trọt
*Cây hàng năm
Vụ Đông Xuân 2021-2022, toàn tỉnh gieo trồng các loại cây hàng năm sơ bộ đạt 99.257 ha, tăng 134 ha so với cùng kỳ năm trước, tổng sản lượng lương thực có hạt sơ bộ đạt 384.391 giảm 11.008 tấn so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Diện tích lúa sơ bộ đạt 59.813 ha, tăng 335 ha so với năm trước, năng suất lúa ước tính đạt 55,99 tạ/ha, giảm 2,96 tạ/ha, sản lượng lúa ước tính đạt 334.874 tấn, giảm 14.919 tấn so với cùng kỳ năm trước; diện tích lạc sơ bộ đạt 8826 ha, giảm 1196 ha, sản lượng ước tính đạt 21.445 tấn, giảm 14.919 tấn so với cùng kỳ; diện tích ngô sơ bộ đạt 10.712 ha, tăng 531 ha, sản lượng ước tính đạt 49.517 tấn, tăng 3.911 tấn so với cùng kỳ.
Nhìn chung, kết quả sản xuất vụ Đông Xuân năm nay vẫn đạt kế hoạch đề ra. Tuy nhiên, do vụ Đông Xuân 2020-2021 là một năm được mùa toàn diện, trong khi năm nay năng suất lúa giảm nên sản lượng lương thực giảm hơn so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân năng suất lúa giảm chủ yếu là do cuối vụ Hà Tĩnh liên tục chịu ảnh hưởng bởi thời tiết xấu. Trong thời gian lúa trổ, chịu ảnh hưởng các đợt không khí lạnh từ 15-22/4; 30/4-3/5 gây mưa ẩm, nền nhiệt độ 21-250C tạo điều kiện thuận lợi cho bào tử nấm đạo ôn phát sinh, phát triển và gây hại trên diện rộng, diện tích nhiễm bệnh trên toàn tỉnh 425 ha cao hơn so với năm 2021 (năm 2021 là 94 ha). Đặc biệt, trận mưa từ đêm 30/4/2022 đến hết ngày 1/5/2022 kèm theo gió giật mạnh đã khiến hơn 900 ha lúa Đông Xuân trên toàn tỉnh bị đổ ngã, tập trung nhiều nhất ở Cẩm Xuyên với 328 ha, Can Lộc 167,5 ha, Nghi Xuân 74 ha, huyện Kỳ Anh 60 ha...Ngoài cây lạc thì sản lượng các loại cây trồng chủ lực khác vụ Đông Xuân năm nay đều tăng hơn so với cùng kỳ năm trước.
*Tiến độ sản xuất vụ Hè Thu năm 2022: Với quan điểm chỉ đạo sản xuất vụ Hè Thu năm 2022 là huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc linh hoạt trong tổ chức chỉ đạo, né tránh thiên tai, phấn đấu sản xuất vụ Hè Thu an toàn, hiệu quả, góp phần hoàn thành mục tiêu kinh tế - xã hội năm 2022. Tính đến ngày 13/6/2022, ước tính toàn tỉnh gieo cấy được 43.275 ha lúa vụ Hè Thu, đạt 95,3% kế hoạch (diện tích lúa gieo thẳng 42.648 ha và diện tích lúa cấy là 627 ha). Một số địa phương đã hoàn thành kế hoạch gieo cấy lúa vụ Hè Thu năm 2022 là: Vũ Quang, Can Lộc, Thạch Hà, Cẩm Xuyên, huyện Kỳ Anh, thị xã Kỳ Anh. Các loại cây trồng cạn vụ Hè Thu 2022 hiện nay đang gieo trỉa.
*Cây lâu năm: Tổng diện tích hiện có cây lâu năm ước đạt 31.724 ha, bằng 101,19% tăng 373 ha so với cùng kỳ năm 2021, trong đó: Diện tích cây ăn quả ước đạt 19.474 ha, bằng 102,94% tăng 556 ha so với cùng kỳ năm 2021. Diện tích một số loại cây tăng như: Cam tăng 212 ha, bưởi tăng 228 ha, chuối tăng 48 ha, ổi tăng 27 ha, mít tăng 21 ha...Thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng, cải tạo vườn tạp, những năm gần đây, nhiều hộ nông dân trên địa bàn tỉnh đã lựa chọn các cây ăn quả có múi để đưa vào sản xuất nên diện tích tăng. Diện tích cây cao su ước đạt 8.464 ha, bằng 97,38%, giảm 228 ha so với cùng kỳ năm 2021. Nguyên nhân do Công ty cao su thanh lý diện tích kém hiệu quả, chuyển đổi một phần diện tích cao su, đất rừng trồng của các công ty sang cây trồng khác cho hiệu quả cao hơn và chuyển đổi mục đích sử dụng một số diện tích đất để phục vụ cho việc phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Diện tích chè búp ước đạt 1.242 ha, tăng 24 ha. Chè xanh (chè hái lá) ước đạt 1.769 ha, giảm 70 ha. Diện tích trồng chè búp đang ngày một tăng lên, mở rộng thêm do cây trồng này phù hợp điều kiện thổ nhưỡng, sản phẩm dễ tiêu thụ, có lợi nhuận. Diện tích cây lâu năm khác ước đạt 638 ha, bằng 112,52%, tăng 71 ha so với cùng kỳ năm 2021.
6 tháng đầu năm 2022, sản lượng cây ăn quả ước đạt 34.440 tấn, bằng 100,69%, tăng 235 tấn so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó: Sản lượng các loại quả nhiệt đới và cận nhiệt đới ước đạt 20.094 tấn, bằng 100,46%, tăng 92 tấn. Chuối tăng 85 tấn, ổi tăng 60 tấn, thanh long tăng 9 tấn...Sản lượng các loại quả có múi thuộc họ cam, quýt ước đạt 13.869 tấn, tăng 185 tấn. Sản lượng cam tăng 111 tấn. Sản lượng cao su ước đạt 1.247 tấn, bằng 115,78%, tăng 170 tấn. Sản lượng chè búp ước đạt 5.586 tấn, bằng 102,44%, tăng 133 tấn. Mô hình trồng chè búp đã đạt những kết quả khả quan, hiệu quả cao hơn so với trồng các loại cây công nghiệp khác. Chè xanh (chè hái lá) ước đạt 11.312 tấn, bằng 99,85%, giảm 17 tấn. Nguyên nhân do diện tích bị thu hẹp nên sản lượng chè xanh giảm.
*Tình hình sâu bệnh, thiên tai: Hiện nay các loại cây trồng vụ Hè Thu năm 2022 mới được gieo trồng, chưa xuất hiện các loại sâu bệnh gây hại. Đối với cây ăn quả thì bệnh nứt thân xì mủ, vàng lá thối rễ, câu cấu, sâu vẽ bùa gây hại, phân bố tại các huyện Hương Sơn, Hương Khê, Vũ Quang, Can Lộc.
b. Chăn nuôi
Với kết quả như phản ánh ở trên cho thấy sản xuất chăn nuôi 6 tháng đầu năm 2022 ổn định và tiếp tục có bước phát triển hơn so với cùng kỳ năm trước cả về số lượng cũng như sản lượng các loại thịt hơi xuất chuồng của đàn vật nuôi. Các dịch bệnh đối với chăn nuôi cơ bản được kiểm soát, việc tái đàn và phục hồi chăn nuôi đang tiếp tục được thực hiện, tổng đàn các loại vật nuôi đều tăng hơn so với cùng kỳ năm trước nhưng với mức tăng nhẹ. Trong 6 tháng đầu năm 2022, người chăn nuôi đã cung ứng các sản phẩm chăn nuôi đáp ứng đầy đủ nhu cầu tiêu dùng thực phẩm của người dân trên địa bàn, nhất là nhu cầu tăng cao trong dịp Tết. Nhìn chung, lượng cung các sản phẩm chăn nuôi trên địa bàn tỉnh tương đối dồi dào, giá cả ổn định, không xẩy ra hiện tượng khan hàng và tăng giá thực phẩm chăn nuôi. Tuy nhiên, trong khi giá bán sản phẩm không tăng nhưng giá thức ăn và các chi phí chăn nuôi đang tăng cao là khó khăn và rào cản lớn đối với hoạt động chăn nuôi trên địa bàn trong thời gian qua cũng như thời gian tới.
Tình hình dịch bệnh, thiệt hại: Theo báo cáo của Chi cục Chăn nuôi và Thú y Hà Tĩnh, từ đầu năm đến nay trên địa bàn tỉnh xảy ra một số dịch bệnh truyền nhiễm đối với đàn vật nuôi là dịch tả lợn Châu Phi và dịch lở mồm long móng. Dịch tả lợn Châu Phi xẩy ra tại 40 xã thuộc 9 huyện, thành phố, thị xã (Cẩm Xuyên, Đức Thọ, Hương Sơn, Vũ Quang, huyện Kỳ Anh, Thạch Hà, thị xã Kỳ Anh, Lộc Hà, thành phố Hà Tĩnh); số con mắc bệnh, chết, tiêu hủy là 904 con, với trọng lượng 49 tấn. Tính đến ngày 13/6/2022 trên địa bàn Hà Tĩnh vẫn còn có 3 xã, thị trấn của huyện Cẩm Xuyên (xã Nam Phúc Thăng, xã Cẩm Mỹ và thị trấn Cẩm Xuyên) và 1 xã của huyện Vũ Quang (xã Hương Minh) đang có dịch tả lợn Châu Phi chưa qua 21 ngày. Dịch lở mồm long móng xẩy ra trong tháng 2/2022 tại thị trấn Đức Thọ và xã Kỳ Bắc với số lượng chỉ có 2 con trâu, 2 con bò mắc bệnh và đã được điều trị khỏi bệnh.
Công tác tiêm phòng cho đàn gia súc, gia cầm vẫn đạt thấp so với kế hoạch, cụ thể kết quả tiêm phòng đợt I năm 2022 tính đến ngày 05/6/2022: Tiêm phòng lở mồm long móng cho đàn trâu, bò 71.640 liều, đạt 49% kế hoạch; bệnh tụ huyết trùng trâu, bò đạt 66.059 liều, đạt 46% kế hoạch; bệnh viêm da nổi cục trâu, bò đạt 910.166 liều, đạt 68% kế hoạch; dịch tả lợn 112.985 liều, đạt 76% kế hoạch; tụ huyết trùng lợn 112.835 liều, đạt 70,4% kế hoạch; tiêm phòng dại cho chó 83.280 liều, đạt 76% kế hoạch và tiêm phòng dịch cúm gia cầm 341.569 liều, đạt 15% kế hoạch.
6.2. Lăm nghiệp
Hoạt động sản xuất lâm nghiệp trong tháng 6/2022 vẫn tiếp tục triển khai trồng rừng tập trung và khai thác gỗ từ rừng trồng. Tuy nhiên, do cuối vụ và điều kiện thời tiết nắng nóng nên diện tích trồng rừng tập trung giảm mạnh so với tháng trước (giảm 206 ha), nhưng vẫn tăng hơn so với cùng kỳ năm trước (tăng 25 ha); sản lượng gỗ khai thác trong tháng 6/2022 tăng 8.167 m3 so với tháng trước và tăng 12.290 m3 so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, diện tích rừng tập trung ước đạt 2447 ha, tăng 8,23% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng gỗ khai thác ước đạt 170.642 m3, tăng 11,97% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân do sản lượng gỗ phụ thuộc vào chu kỳ khai thác rừng trồng và hoạt động trồng rừng tập trung cũng chủ yếu là rừng sản xuất nên sau khi khai thác sẽ có quỹ đất để tiếp tục trồng mới. Còn đối với trồng cây phân tán và khai thác củi thì do quỹ đất trồng cây ngày càng thu hẹp và nhu cầu sử dụng củi làm chất đốt giảm nên số lượng cây trồng phân tán và sản lượng củi khai thác giảm.
Công tác bảo vệ rừng và quản lý lâm sản luôn được các cấp, các ngành quan tâm thực hiện. Tính từ đầu năm đến ngày 15/6/2022, trên địa bàn Hà Tĩnh không xẩy ra cháy rừng nhưng đã xẩy ra 40 vụ phá rừng (tăng 22 vụ), với diện tích rừng bị phá là 12,5 ha (tăng 6 ha) so với cùng kỳ năm trước; lực lượng kiểm lâm đã phát hiện và xử lý 57 vụ vi phạm; tịch thu 21,794 m3 gỗ các loại, 08 cá thể động vật với trọng lượng 12,8kg, 07 tang vật, phương tiện. Thực hiện tu sửa 141,53 km đường băng cản lửa, 26 chòi canh lửa, 306 biển tường phòng cháy chữa cháy rừng. Hiện nay đang bước vào mùa nắng nóng nên các cơ quan chức năng cần phải tăng cường tuần tra kiểm soát và người dân khi vào rừng cần phải nâng cao ý thức để phòng chống cháy rừng.
6.3. Thủy sản
Sản xuất thủy sản trong 6 tháng đầu năm 2022 vẫn duy trì mức tăng trưởng nhẹ so với cùng kỳ năm 2021, tổng sản lượng ước đạt trên 26.147 tấn, tăng 3,45%, trong đó sản lượng khai thác đạt 19.955 tấn, tăng 3,96%; sản lượng nuôi trồng đạt 6.192 tấn, tăng 1,86%. Mặc dù sản lượng hải sản khai thác biển chiếm khoảng trên 75% tổng sản lượng thủy, hải sản. Tuy nhiên hiện nay do điều kiện, phương tiện, tiềm lực khai thác biển đầu tư phát triển chậm nên khó để tạo ra bước đột phá trong khai thác hải sản. Mặt khác, mặc dù giá bán sản phẩm ổn định nhưng giá nhiên liệu và các chi phí khác trong thời gian qua tăng cao nên ngư dân gặp rất nhiều khó khăn, hiệu quả kinh tế đạt thấp. Hiện nay UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch số 04/KH-UBND ngày 07/01/2022 thực hiện Chiến lược phát triển thủy sản đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; tiếp tục thực hiện các giải pháp khắc phục cảnh báo của Ủy ban châu Âu (EC) về chống khai thác hải sản bất hợp pháp năm 2022.
Tình hình dịch bệnh: Từ đầu năm đến ngày 15/6/2022, đã xẩy ra các dịch bệnh đối với nuôi trồng thủy sản: Dịch bệnh hoại tử gan tụy cấp tính xảy ra tại 4 xã thuộc 2 huyện (Nghi Xuân, Thạch Hà) với diện tích 5,63 ha; dịch bệnh đốm trắng xảy ra tại 9 xã thuộc 6 huyện (Kỳ Anh, Cẩm Xuyên, Thị xã Kỳ Anh, Lộc Hà, thành phố Hà Tĩnh, Nghi Xuân) với tổng diện tích 86,6 ha. Khi bệnh xảy ra, các ngành chức năng đã cùng với người nuôi tôm xác định tác nhân gây bệnh, dùng hóa chất Chlorine dập dịch nhằm không để dịch bệnh lây lan và gây thiệt hại cho các hộ nuôi tôm.
7. Sản xuất công nghiệp
Sản xuất công nghiệp 6 tháng đầu năm 2022 trên địa bàn Hà Tĩnh tiếp tục giảm so với cùng kỳ. Trong đó, ngành giảm mạnh nhất là ngành sản xuất và phân phối điện (giảm 37,36% so với cùng kỳ) do sự cố hệ thống dầu bôi trơn tuabin của nhà máy nhiệt điện I bị hư hỏng đến nay chưa khắc phục được. Ngoài ra do giá nguyên liệu đầu vào tiếp tục tăng cao nên sản lượng phôi thép sản xuất của công ty Formosa Hà Tĩnh chỉ đạt 2.543 nghìn tấn, giảm 6,01% (giảm 163 nghìn tấn) so với cùng kỳ năm trước. Điều này dẫn đến chỉ số sản xuất của toàn ngành công nghiệp trong 6 tháng đầu năm 2022 dự ước giảm 7,54% so với cùng kỳ năm trước.
*Chỉ số sản xuất ngành công nghiệp (IIP)
- Ước tính tháng 6/2022, chỉ số sản xuất ngành công nghiệp so với tháng 5/2022 tăng 7,07%, trong đó: Ngành công nghiệp khai khoáng tăng 10,92%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,99%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 21,57%; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 8,57% so với tháng trước. Tuy nhiên, so với cùng kỳ năm trước, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp nghiệp giảm 1,05%. Trong đó: Ngành công nghiệp khai khoáng tăng 9,18%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 5,98%; ngành sản xuất và phân phối điện giảm 29,73%; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải giảm 8,74%.
- Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, hoạt động sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh tiếp tục gặp khó khăn. Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp 6 tháng đầu năm 2022 ước giảm 7,26% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Ngành công nghiệp khai khoáng giảm 1,34%; ngành công nghiệp chế biến chế tạo tăng 0,33%; ngành sản xuất và phân phối điện giảm 38,31%; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải giảm 9,79%. Nguyên nhân chính của việc giảm chỉ số sản xuất công nghiệp là do Tổ máy số 1 của Nhà máy Nhiệt điện Vũng Áng 1 gặp sự cố đang phải ngừng hoạt động đến nay chưa khắc phục được, tổng sản lượng điện chỉ sản xuất được 4.121 triệu KWh giảm 36,34% (giảm 2.362 triệu KWh) so với cùng kỳ. Trong đó, riêng nhà máy nhiệt điện I chỉ sản xuất 1.845 triệu KWh giảm 53,34% (giảm 2.109 triệu KWh) so với cùng kỳ. Ngoài ra việc giá xăng, dầu tăng cao đã khiến cho giá nguyên vật liệu đầu vào tăng theo đã ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp hoạt động công nghiệp nói riêng. Bên cạnh đó, trong khi các động lực tăng trưởng chính (Formosa, Nhiệt điện Vũng Áng I) sản xuất sụt giảm hoặc tăng trưởng thấp thì sản xuất công nghiệp vẫn chưa có các năng lực mới tăng thêm để đóng góp vào tăng trưởng chung của nền kinh tế.
- Trong 18 nhóm ngành công nghiệp cấp 2, có 12 nhóm ngành có chỉ số sản xuất cộng dồn 6 tháng đầu năm 2022 tăng so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, có 8 nhóm ngành có mức tăng cao, đóng góp chủ yếu vào mức tăng chung toàn ngành công nghiệp như: Sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 89,4%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 55,82%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 21,76%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 17,04%; sản xuất trang phục tăng 15,33%; sản xuất đồ uống tăng 11,31%; khai thác quặng kim loại tăng 9,73%; in, sao chép bản ghi các loại tăng 7,9%.
Chỉ số sản xuất công nghiệp một số ngành chủ yếu
Đơn vị tính: (%)
Tháng 5/2022 so với tháng 5/2021 Tháng 6/2022 So với tháng 5/2022 Tháng 6/2022 So với tháng 6/2021 6 tháng 2022 so với 6 tháng 2021
Toàn ngành công nghiệp 93,23 107,07 98,95 92,74
Chia theo ngành cấp 1
Khai khoáng 95,32 110,92 109,18 98,66
Công nghiệp chế biến, chế tạo 101,48 104,99 105,98 100,33
Sản xuất và phân phối điện 58,90 121,57 70,27 61,69
Cung cấp nước; xử lý rác thải 88,89 108,57 91,26 90,21
Một số ngành chủ yếu
Khai thác quặng kim loại 300,88 99,00 175,60 109,73
Khai khoáng khác 88,27 112,32 105,09 97,65
Sản xuất chế biến thực phẩm 92,06 102,12 101,32 101,91
Sản xuất đồ uống 143,09 92,89 101,35 111,31
Dệt 102,05 114,93 119,13 105,03
Sản xuất trang phục 96,68 101,21 159,70 115,33
Sản xuất than cốc 92,94 105,87 103,38 96,79
Sản xuất thuốc 112,43 103,27 100,77 121,76
SXSP từ khoáng phi kim loại 199,69 102,95 191,52 155,82
10.Sản xuất kim loại 103,51 104,59 106,68 100,63
11.Sản xuất và phân phối điện 58,90 121,57 70,27 61,69
12.Khai thác, xử lý, cung cấp nước 87,61 108,97 89,17 89,81
Có 6 ngành có chỉ số sản xuất cộng dồn 6 tháng đầu năm giảm so với cùng kỳ năm trước, ảnh hưởng tới tốc độ tăng toàn ngành như: Sản xuất và phân phối điện giảm 38,31%; khai thác, xử lý và cung cấp nước giảm 10,19%; hoạt động thu gom, xử lý và tiêu hủy rác thải, tái chế phế liệu giảm 5,18%; sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế giảm 3,21%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn giảm 2,87%; khai khoáng khác giảm 2,35%.
- Chỉ số tiêu thụ: Tính chung 6 tháng 2022, chỉ số tiêu thụ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 2,36% so với cùng kỳ. Trong đó: có một số ngành có chỉ số tiêu thụ giảm như: Sản xuất giường, tủ, bàn, ghế giảm 32,93%; sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế giảm 19,55%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn giảm 8,44%; dệt giảm 8,03%; … Như vậy, tính chung 6 tháng đầu năm 2022, nhu cầu tiêu thu sản phẩm công nghiệp giảm so với cùng kỳ, cho thấy hoạt động sản xuất và tiêu thụ sản phẩm công nghiệp trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh gặp khó khăn hơn so với cùng kỳ năm trước.
- Chỉ số tồn kho: Chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tháng 6/2022 tăng 5,01% so với tháng trước và giảm 3,03% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số tồn kho giảm so với cùng kỳ chủ yếu là do tồn kho sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác (giảm 71,83%), tồn kho của sản xuất chế biến thực phẩm (giảm 71,37%) so với cùng kỳ năm trước. Điều này cho thấy mức tiêu thụ sản phẩm gạch xây dựng, thực phẩm tăng cao. Hiện nay các dự án công trình xây dựng trên địa bàn được tập trung thi công đã tác động mạnh đến mức tiêu thụ sản phẩm sản xuất từ khoáng phi kim loại khác. Ngoài ra, một số sản phẩm có chỉ số tồn kho tăng cao so với cùng kỳ như: Sản xuất sợi tăng 605,88%, nguyên nhân tồn kho sợi tăng cao do tháng này công ty gom hàng để xuất khẩu một lần nên không phải do không tiêu thụ được sản phẩm; sản phẩm than cốc của Công ty Formosa Hà Tĩnh tồn kho tăng 86,24% so với cùng kỳ, nguyên nhân là do Formosa sản xuất ra nguyên liệu chủ yếu giữ lại để phục vụ cho sản xuất của doanh nghiệp. Như vậy, tồn kho của Formosa không phải là không tiêu thụ được mà do doanh nghiệp giữ lại để phục vụ cho hoạt động sản xuất của mình.
8. Thương mại, dịch vụ
8.1. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng:
Tình hình hoạt động thương mại, dịch vụ và du lịch 6 tháng đầu năm 2022 đã dần ổn định hơn sau những ảnh hưởng nặng nề bởi dịch Covid-19. Tổng mức bán lẻ hàng hóa tăng khá so với cùng kỳ, ngành dịch vụ đã dần hồi phục và có nhiều khởi sắc nhất là trong những tháng quý II cao điểm mùa du lịch với những hoạt động kích cầu du lịch đã thu hút được lượng du khách gần xa đến tham quan, nghỉ mát.
- Tổng mức bán lẻ hàng hóa ước tháng 6/2022 đạt 4.448,18 tỷ đồng, tăng 4,26% so với tháng trước và tăng 42,97% so với cùng kỳ năm trước. Một số nhóm ngành có chỉ số tăng mạnh so với cùng kỳ như: Đá quý, kim loại quý tăng 143,23%; hàng hóa khác tăng 86,27%; may mặc tăng 85,84%; đồ dùng, dụng cụ gia đình tăng 53,47%; xăng, dầu các loại tăng 66,13%; nhiên liệu khác (trừ xăng, dầu) tăng 52,70%; lương thực, thực phẩm tăng 42,15%. Nguyên nhân chủ yếu do trong tháng giá xăng dầu tiếp tục được điều chỉnh tăng mạnh đã tác động rất lớn đến doanh thu các nhóm hàng, cộng với việc thời tiết nắng nóng tác động đến tiêu dùng các mặt hàng điện lạnh, hàng may mặc, đồ uống, vật liệu xây dựng tăng và việc cùng thời điểm năm trước, Hà Tĩnh bắt đầu triển khai thực hiện giãn cách xã hội, nhu cầu tiêu dùng xã hội bị hạn chế.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, tổng mức bán lẻ hàng hóa ước đạt 24.179,48 tỷ đồng, tăng 12,09% so với cùng kỳ năm trước và tăng ở tất cả các nhóm hàng hóa. Nguyên nhân do nhu cầu tiêu dùng cao các hàng hóa bán lẻ sau tình hình dịch Covid diễn biến phức tạp trong những tháng quý I/2022 và việc tăng giá các mặt hàng do chi phí vận chuyển tăng và tăng phần nữa do quy mô doanh thu quý II năm trước đạt thấp vì trong thời gian giãn cách xã hội.
- Dịch vụ l¬ưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành: Hoạt động dịch vụ lưu trú, ăn uống và lữ hành trên địa bàn tỉnh đang phục hồi tích cực sau thời gian dài hạn chế hoạt động và tạm ngừng (từ tháng 6 năm 2021 đến tháng 4 năm 2022). Các đơn vị kinh doanh ngày càng đầu tư nâng cao chất lượng dịch vụ để phục vụ, đáp ứng tốt hơn yêu cầu của khách hàng. Ước tháng 6/2022 doanh thu dự tính đạt 580,26 tỷ đồng, tăng 5,48% so với tháng trước, tăng 257,49% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Dịch vụ l¬ưu trú ước đạt 27,98 tỷ đồng, tăng 11,70% so với tháng trước, tăng 6,1 lần% so với cùng kỳ năm trước; dịch vụ ăn uống ước đạt 547,98 tỷ đồng, tăng 5,13% so với tháng trước, tăng 246,02% so với cùng kỳ năm trước. Dịch vụ du lịch lữ hành và hoạt động hỗ trợ du lịch ước đạt 4,3 tỷ đồng, tăng 11,98% so với tháng trước.
Tính chung 6 tháng đầu năm, doanh thu ước đạt 2.858,36 tỷ đồng, tăng 18,26% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: L¬ưu trú ước đạt 113,29 tỷ đồng, tăng 30,54% với lượt khách phục vụ 632.636 lượt, tăng 19,13%; ngày khách phục vụ 538.852 ngày, tăng 9,41%. ăn uống ước đạt 2.736,71 tỷ đồng, tăng 17,82%; du lịch lữ hành ước đạt 8,36 tỷ đồng, tăng 13,66% so với cùng kỳ năm trước.
- Dịch vụ khác: Doanh thu 6 tháng đầu năm 2022 ước đạt 1.128,66 tỷ đồng, tăng 22,03% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, tăng mạnh ở các nhóm như: Kinh doanh bất động sản tăng 24,22%; hành chính và dịch vụ hỗ trợ tăng 29,65%; giáo dục đào tạo tăng 49,73%; dịch vụ khác tăng 32,76%. Tuy nhiên vẫn có 2 nhóm dịch vụ giảm doanh thu so cùng kỳ, đặc biệt là nhóm nghệ thuật, vui chơi và giải trí giảm mạnh (giảm 32,74%).
8.2. Hoạt động vận tải
Hoạt động kinh doanh vận tải, kho bãi tháng 6 và tính chung 6 tháng đầu năm 2022 đều tăng khá so với cùng kỳ. Nguyên nhân là do dịch bệnh được kiểm soát, cuộc sống ổn định hơn, các hoạt động vận tải hoạt động ổn định trở lại. Việt Nam chính thức mở cửa lại ngành du lịch, nhu cầu đi lại, tham quan du lịch của người dân trong dịp lễ tăng cao, đây là tín hiệu khởi sắc cho hoạt động kinh doanh vận tải.
Kết quả vận tải, kho bãi tháng 6/2022 Doanh thu ước đạt 477,59 tỷ đồng, tăng 1,41% so tháng trước và tăng 67,09% so cùng kỳ năm trước. Trong đó: Vận tải hành khách doanh thu ước đạt 103,01 tỷ đồng, giảm 3,32% so với tháng trước và tăng 220,97% so với cùng kỳ năm trước; vận tải hàng hóa ước đạt 299,55 tỷ đồng, tăng 2,36% so với tháng trước và tăng 65,26% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải ước đạt 74,95 tỷ đồng, tăng 4,58% so với tháng trước và tăng 3,42% so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2022 doanh thu vận tải, kho bãi ước đạt 2.672,14 tỷ đồng, tăng 5,49% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Doanh thu vận tải hành khách ước đạt 535,08 tỷ đồng, giảm 20,67%; doanh thu vận tải hàng hóa ước đạt 1.680,51 tỷ đồng, tăng 19,72% với khối lượng vận chuyển ước đạt 18.878,94 nghìn tấn, tăng 21,21%; doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải ước đạt 456,14 tỷ đồng tăng 0,27% so với cùng kỳ năm trước.
8.3. Xuất nhập khẩu hàng hóa
Kim ngạch xuất, nhập khẩu Hà Tĩnh tháng 6 dự ước tăng cả so với tháng trước và so với cùng kỳ. Tính chung 6 tháng đầu năm 2022 ước đạt 3.044 triệu USD, trong đó xuất khẩu tăng 12,05%, nhập khẩu tăng 19,36% so với cùng kỳ năm trước. Qua đó, cho thấy sự phục hồi rõ rệt sau nhiều thách thức do đại dịch Covid-19 gây ra.
- Kim ngạch xuất khẩu: Tháng 6 ước đạt 184,50 triệu USD, tăng 58,56% so với tháng trước và tăng 5,89% so với cùng kỳ năm trước. Tăng mạnh nhất ở nhóm hàng thủy sản do yếu tố mùa vụ thì đây là thời gian thủy, hải sản ngon nhất trong năm, tuy nhiên do mặt hàng này chiếm tỷ trọng không cao nên không ảnh hưởng lớn tới tốc độ tăng xuất khẩu.Mặt hàng chủ đạo thép, phôi thép vẫn giữ tính ổn định và tăng trưởng cao (ước đạt 169,50 triệu USD) tăng 65,96% so với tháng trước và tăng 6,64% so với cùng kỳ.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 1.020 triệu USD, tất cả các mặt hàng xuất khẩu đều có kim ngạch tăng đóng góp vào mức tăng chung 12,05% của xuất khẩu. Trong đó, xuất khẩu thép, phôi thép là mặt hàng chủ lực của toàn tỉnh ước đạt 914,8 triệu USD (chiếm 89,69%) tăng 10,44%; tăng cao nhất là mặt hàng thủy sản 184,26%, tiếp đến là các mặt hàng dệt và may mặc 119,72%; xơ,sợi dệt các loại tăng 37,19%; dăm gỗ tăng 36,38%; chè tăng 2,61%.
- Kim ngạch nhập khẩu: Tháng 6/2022 ước đạt 360,0 triệu USD, tăng 6,61% so với tháng trước nhưng lại giảm 1,07% so với cùng kỳ năm trước. Mặc dù nhập khẩu nguyên liệu đầu vào Formosa vẫn tăng nhẹ so với cùng kỳ (0,31%) nhưng việc sụt giảm mạnh các loại hàng hóa khác do tình hình bất ổn của thế giới khiến kim ngạch xuất khẩu tháng 6 giảm so với cùng kỳ.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, kim ngạch nhập khẩu ước đạt 2.024 triệu USD, tăng 19,36% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó chủ yếu là nhập khẩu nguyên liệu đầu vào phục vụ sản xuất Formosa đạt 1.803 triệu USD (Chiếm 89,08%) tăng 46,49%. Với việc Fomosa tăng cường nhập khẩu nguyên liệu đầu vào Formosa, thời gian tới sẽ tăng cường sản xuất và xuất khẩu kỳ vọng sẽ tăng khá khả quan.
II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI
1. Lao động, việc làm
Bước sang quý II năm 2022 dịch covid-19 ở Hà Tĩnh cơ bản được kiểm soát tốt, hoạt động sản xuất kinh doanh từng bước phục hồi, các hoạt động du lịch mở cửa trở lại trong điều kiện "bình thường mới", nên tình hình về lao động và việc làm ở Hà Tĩnh có phần khởi sắc hơn, so với quí trước lao động đang làm việc trong nền kinh tế tăng 1,88%, tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động giảm 0,15 điểm %. Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, lao động đang làm việc trong tỉnh tăng 3,91% so với cùng kỳ năm trước; tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động giảm 0,53 điểm phần trăm.
Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của tỉnh Hà Tĩnh, ước quý II năm 2022 là 526.842 người, so với quý trước tăng 1,48% và tăng 3,35% so với cùng kỳ năm 2021. Tính chung 6 tháng đầu năm lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên ước tính 522.997 người, tăng 4,15% so với cùng kỳ năm 2021; trong đó lực lượng lao động là nam 280.667 người (chiếm 53,67%) trong tổng số lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên; lực lượng lao động thuộc khu vực thành thị là 123.936 người, chiếm 23,7%. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động 6 tháng năm 2022 là 54,05%, tăng 0,68 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm 2021.
Tổng số lao động từ 15 tuổi trở lên có việc làm ở Hà Tĩnh ước tính quý II năm 2022 là 498.605 người, chiếm 94,64% trong tổng số lượng lao động từ 15 tuổi trở lên; so với quý trước tăng 1,88% và tăng 3% so với cùng kỳ năm 2021. Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, số lao động đang làm việc là 494.006 người, chiếm 94,46% tổng số lực lượng lao động 15 tuổi trở lên và tăng 3,91% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó, lao động có việc làm ở thành thị là 122.041 người, chiếm 24,7%; ở nam giới là 263.015 người, chiếm 53,24%. Khi phân theo ngành kinh tế thì lao động làm việc trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 31,38% (tương ứng 155.014 người), giảm 1,77 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm 2021; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 29,06% (tương ứng 143.549 người), tăng 0,02 điểm phần trăm; còn khu vực dịch vụ chiếm 39,56% (tương ứng 195.443 người), tăng 1,75 điểm phần trăm.
Tính riêng quý II/2022 dân số lao động không có việc làm (thất nghiệp) là 28.237 người, chiếm 5,36% lực lượng lao động 15 tuổi trở lên và giảm 0,37 điểm phần trăm so quý trước. Xét riêng trong độ tuổi lao động thì tỷ lệ thất nghiệp ước tính là 5,28%, giảm 0,15 điểm phần trăm so với quý trước và 0,22 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Ước tính 6 tháng năm 2022, số người không có việc làm (thất nghiệp) là 28.992 người, chiếm 5,54% lực lượng lao động 15 tuổi trở lên; tăng 0,21 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Xét riêng trong độ tuổi lao động thì tỷ lệ thất nghiệp ước tính là 5,35%, giảm 0,53 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước.
Tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động ở Hà Tĩnh, ước tính quý II/2022 là 3,7%, giảm 0,3 điểm phần trăm so với quý trước và tăng 0,76 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm 2021. Tính chung 6 tháng năm 2022, ước tính tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động là 3,85%, tăng 0,88 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước.
Số người được giải quyết việc làm và xuất khẩu lao động quý II/2022, là 6.140 người, giảm 5,17% so với quý I/2022. Trong đó, lao động được giải quyết việc làm thông qua các chương trình phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh giảm 3.199 người, lao động đi làm việc ngoại tỉnh tăng 376 người, xuất khẩu lao động tăng 2.488 người. Tính chung 6 tháng đầu năm 2022 số người được giải quyết việc làm và xuất khẩu lao động là 12.615 người, đạt 57,34% kế hoạch năm 2022, tăng 23,34% so cùng kỳ năm 2021. Trong đó, lao động được giải quyết việc làm thông qua các chương trình phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh 5.787 người, giảm 16,63% so với cùng kỳ; lao động đi làm việc ngoại tỉnh 3.948 người, tăng 207,48%; xuất khẩu lao động 2.880 người, giảm 27,67%. Thị trường xuất khẩu lao động 6 tháng đầu năm 2022 ở Hà Tĩnh chủ yếu làm việc tại Nhật Bản là 1.360 người, chiếm 47,22% trong tổng số người đi xuất khẩu lao động; tiếp đến là Đài Loan 1.175 người, chiếm 40,8%; còn lại các nước khác là 345 người, chiếm 11,98%.
2. Đời sống dân cư và bảo đảm an sinh xã hội
- Đời sống dân cư: Trong 6 tháng đầu năm 2022, tình hình dịch bệnh covid-19 ở Hà Tĩnh cơ bản được kiểm soát tốt, các cơ sở sản xuất kinh doanh, hoạt động công nghiệp, xây dựng thương mại và dịch vụ vẫn hoạt động bình thường và dần đi vào ổn định. Bên cạnh đó các dịch bệnh đối với chăn nuôi được kiểm soát tốt hơn so với cùng kỳ năm trước, việc tái đàn và phục hồi chăn nuôi đang tiếp tục được thực hiện. Nhìn chung đời sống nhân dân ổn định, toàn tỉnh không xảy ra tình trạng thiếu đói trong dân cư.
- Công tác đảm bảo an sinh xã hội: Công tác đảm bảo an sinh xã hội trên địa bàn tỉnh triển khai kịp thời; các cấp, các ngành làm tốt công tác huy động nguồn lực, tổ chức thăm hỏi, tặng quà cho người có công, đối tượng bảo trợ xã hội và các đối tượng khác kịp thời, chu đáo. Đến nay, toàn tỉnh đã trao tặng khoảng 280.830 suất quà cho các đối tượng người có công, hộ nghèo, người cao tuổi, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn và các đối tượng bảo trợ xã hội với tổng số tiền là 101,684 tỷ đồng. Cụ thể: tặng quà cho người có công khoảng 127.981 suất quà trị giá 34,421 tỷ đồng; tặng quà cho hộ nghèo, hộ cận nghèo khoảng 50.576 suất quà trị giá 25,376 tỷ đồng; tặng quà cho người cao tuổi khoảng 37.207 suất quà trị giá 10,656 tỷ đồng; tặng quà cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn khoảng 21.500 suất quà trị giá 11,800 tỷ đồng; tặng quà cho các đối tượng bảo trợ xã hội và đối tượng khác khoảng 43.566 suất quà trị giá 19,431 tỷ đồng. Cấp khoảng 22.014 thẻ bảo hiểm y tế cho hộ nghèo, 42.045 thẻ bảo hiểm y tế cho hộ cận nghèo, 158.963 thẻ bảo hiểm y tế cho trẻ em dưới 6 tuổi và 50.096 thẻ bảo hiểm y tế cho người có công. Ngoài ra Hà Tĩnh đã trao tặng 04 sổ tiết kiệm với tổng số tiền là 24 triệu đồng cho người có công. Số nhà tình nghĩa, nhà tình thương xây mới là 149 nhà kinh phí khoảng 9.904 triệu đồng; Số nhà tình nghĩa, nhà tình thương sửa chữa là 05 nhà kinh phí khoảng 145 triệu đồng.
3. Giáo dục đào tạo
- Giáo dục phổ thông: Năm học 2021-2022, ngành Giáo dục Hà Tĩnh triển khai thực hiện tốt Chỉ thị số 800/CT-BGDĐT ngày 24/8/2021 của Bộ Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) về thực hiện nhiệm vụ năm học 2021- 2022 ứng phó với dịch COVID-19, tiếp tục thực hiện đổi mới, kiên trì mục tiêu chất lượng giáo dục và đào tạo nên chất lượng giáo dục Hà Tĩnh vẫn được giữ vững và nâng cao, đạt nhiều thành tích nổi bật. Kết quả thi học sinh giỏi quốc gia năm 2022, Hà Tĩnh có 75/99 học sinh đạt giải (chiếm tỷ lệ 75,75%), đứng thứ 5 toàn quốc về số lượng thí sinh đạt giải, đặc biệt năm 2022 Hà Tĩnh có học sinh đạt giải Nhất quốc gia môn Hóa học dự thi Olympic quốc tế. Ngoài ra Cuộc thi KHKT cấp quốc gia học sinh trung học năm học 2021-2022, Hà Tĩnh có 02 dự án được lựa chọn tham dự vòng chung kết cả 2 dự án đều đạt giải Nhì; kỳ thi học sinh giỏi tỉnh lớp 9 năm học 2021 -2022 có 715/1134 em đạt giải, trong đó: Giải nhất 59 em, giải nhì 182, giải ba 247, giải khuyến khích 227; thi học sinh giỏi tỉnh lớp 12 năm học 2021 -2022 có 537/858 em đạt giải, trong đó: Giải nhất 45 em, giải nhì 138 em, giải ba 180 em, giải khuyến khích 174 em.
Cũng trong thời gian này, tính từ ngày 6-7/6 đã diễn ra Kỳ thi tuyển sinh vào lớp 10 THPT năm học 2022-2023 với hơn 16.000 thí sinh tham gia, tại 36 điểm thi gồm 2.316 cán bộ làm nhiệm vụ tại 686 phòng, kỳ thi đã diễn ra thành công tốt đẹp, đảm bảo các yếu tố an toàn, nghiêm túc và đúng quy chế.
- Giáo dục đào tạo: Toàn tỉnh hiện có 7 trường Cao đẳng, Trung cấp thuộc hệ thống cơ sở giáo dục nghề nghiệp công lập, đào tạo các chuyên ngành: Công nghệ, kỹ thuật, văn hóa, du lịch, nghệ thuật, hội họa, chuyên ngành Y và một số trường đào tạo đa ngành nghề. Các cơ sở đào tạo luôn quan tâm chú trọng các giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo nghề trọng điểm, liên kết đào tạo, phân luồng học sinh học nghề; tập trung công tác tư vấn, giải quyết việc làm, cập nhật thông tin thị trường lao động. Với những nỗ lực đó, 6 tháng đầu năm 2022 các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn tỉnh đã duy trì tổ chức đào tạo nghề cho khoảng 11.471 người. Trong đó, trình độ cao đẳng nghề khoảng 92 người; trình độ trung cấp nghề khoảng 5.558 người; trình độ sơ cấp và đào tạo dưới 3 tháng khoảng 5.821 người.
4. Tình hình dịch bệnh, ngộ độc thực phẩm
Thực hiện chiến lược tiêm chủng vắc-xin phòng COVID-19 cho người dân đã góp phần giúp Hà Tĩnh phòng, chống hiệu quả dịch bệnh COVID-19. Hiện tại số lượng bệnh nhân có các triệu chứng vừa và nặng tại các cơ sở y tế giảm sâu; tất cả 216 xã, phường, thị trấn đều có mức nguy cơ dịch cấp 1 (vùng xanh), mọi hoạt động đời sống xã hội trở lại trạng thái bình thường mới. Bên cạnh đó Hà Tĩnh tiếp tục tăng cường, chủ động triển khai các biện pháp phòng, chống dịch bệnh mùa hè năm 2022.
- Tình hình dịch bệnh Covid-19: Tổng số ca mắc từ ngày 01/01/2022 đến ngày 19/6/2022 là 50.475 ca, lũy kế từ 04/6/2021 đến nay 52.424 ca mắc. Toàn tỉnh đã có 13/13 địa phương thực hiện việc cách ly, điều trị các ca bệnh tại nhà với 45.837 ca, trong đó đã có 45.402 ca khỏi bệnh.
Tình hình điều trị các ca bệnh: Chuyển các Bệnh viện tuyến trên 128 BN. Điều trị khỏi 51.919 BN, trong đó có 123 BN tuyến trên, 51.796 BN tại Hà Tĩnh, 52 BN tử vong.
Trong thời gian tới, Hà Tĩnh tiếp tục rà soát những người trên 12 tuổi đủ điều kiện nhưng chưa tiêm vắc xin và trẻ em từ 5 đến dưới 12 tuổi để triển khai tiêm vắc xin đạt tỷ lệ và hiệu quả cao nhất; tiếp tục tuyên truyền, vận động nâng cao tỷ lệ tiêm vắc xin mũi nhắc lại lần 1 (mũi 3); triển khai tiêm liều nhắc lại lần 2 (mũi 4) theo hướng dẫn của Bộ Y tế. Mặc dù tình hình dịch bệnh hiện nay đang được kiểm soát, nhưng vẫn cảnh giác cao với các biến thể mới của biến chủng Omicron.
- Tình hình dịch bệnh khác: Tính đến ngày 15/6/2022, trên địa bàn Hà Tĩnh xuất hiện 2 ổ dịch sốt xuất huyết Dengue với 5 ca bệnh. Ngoài ra, còn một số ca bệnh đơn lẻ, cụ thể: 9 ca sốt xuất huyết, 1 ca mắc bệnh quai bị, 3 ca mắc lỵ trực trùng; 8 ca mắc lỵ a míp; 3 ca mắc bệnh thủy đậu, 768 ca mắc bệnh cúm, 3 ca chân tay miệng và không có người chết vì do các bệnh trên.
Tính chung 6 tháng đầu năm trên địa bàn Hà Tĩnh có 2 ổ dịch sốt xuất huyết và một số ca bệnh đơn lẻ: 16 ca mắc sốt xuất huyết (tăng 433,33% so với cùng kỳ năm trước), 0 ca mắc sốt rét (giảm 1 ca), 0 ca viêm não do vi rút (giảm 93 ca), 66 ca mắc bệnh quai bị (tăng 214,29%), 123 ca mắc lỵ trực trùng (tăng 78,26%); 177 ca mắc lỵ a míp (tăng 78,79%); 107 ca mắc bệnh thủy đậu (giảm 82,80%), 7.845 ca mắc bệnh cúm (giảm 25,53%), 4 ca chân tay miệng (giảm 63,64%), tiêu chảy 1.266 ca (giảm 16,02%), viêm gan vi rút khác 40 ca (giảm 0,28%) tất cả các ca bệnh trên không tạo thành dịch và không có ca bệnh nào bị tử vong vì các bệnh nói trên.
- Công tác phòng chống HIV/AIDS: Trong tháng, có 1 người nhiễm mới HIV, 1 người chuyển thành AIDS và 2 người chết vì AIDS; so với cùng kỳ năm trước số người nhiễm mới HIV, số người chuyển thành AIDS số người chết vì AIDS không đổi. Tính chung 6 tháng đầu năm 2022 có 12 người nhiễm mới HIV, 6 người chuyển thành AIDS và 2 người chết vì AIDS, so với cùng kỳ năm trước giảm 16 người (giảm 57,14%) nhiễm mới HIV, giảm 18 người (giảm 75%) chuyển thành AIDS , số người chết vì AIDS không đổi.
- Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm: Công tác đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm luôn được quan tâm thực hiện. Trong tháng, không xảy ra vụ ngộ độc thực phẩm, chỉ có 98 ca ngộ độc đơn lẻ. Tính chung 6 tháng đầu năm 2022 có 1 vụ ngộ độc tập thể làm 4 người bị ngộ độc; ngoài ra có 345 ca bị ngộ độc đơn lẻ, không có người chết vì ngộ độc; so với cùng kỳ năm trước giảm 2 vụ ngộ độc tập thể (giảm 66,67%), giảm 49 ca ngộ độc tập thể (giảm 92,45%), số ca ngộ độc đơn lẻ giảm 218 ca (giảm 38,72%), số ca tử vong không đổi.
5. Hoạt động văn hóa - thể thao
- Hoạt động văn hóa: Trong tháng nhiều hoạt động văn hóa đã diễn ra sôi nổi. Ngày 28-29/5, tổ chức trình diễn bay khinh khí cầu “Hà Tĩnh - đón Sao La về nhà” nhằm chào mừng SEA Games 31 thành công rực rỡ, cùng hướng tới kỷ niệm 65 năm Ngày Bác Hồ về thăm Hà Tĩnh (15/6/1957 - 15/6/2022) và 15 năm thành lập TP Hà Tĩnh (28/5/2007 - 28/5/2022); ngày 11/6 tổ chức chương trình lễ kỷ niệm 65 năm Ngày Bác Hồ về thăm Hà Tĩnh (15/6/1957 - 15/6/2022) và 15 năm thành lập TP Hà Tĩnh (28/5/2007 - 28/5/2022) tại Quảng trường TP Hà Tĩnh bao gồm các hoạt động: Lễ dâng hoa, dâng hương tại Khu lưu niệm Bác Hồ về thăm Hà Tĩnh; lễ kỷ niệm, chương trình nghệ thuật và bắn pháo hoa chào mừng; Chào mừng kỷ niệm 97 năm Ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam (21/6/1925 - 21/6/2022), 30 năm thành lập Hội Nhà báo Hà Tĩnh, ngày 12/6, Hội Nhà báo tỉnh tổ chức Giải Bóng chuyền hơi CLB Nhà báo nữ Hà Tĩnh lần thứ nhất. Nhìn chung trong quí I năm 2022, tình hình dịch Covid đang còn diễn biến phức tạp nên hoạt động văn hóa có phần trầm lắng. Tuy nhiên bước sang quí II năm 2022, tình hình dịch Covid-19 cơ bản được kiểm soát tốt, các hoạt động văn hóa diễn ra sôi động hơn so với thời điểm đầu năm.
- Công tác kiểm tra, thanh tra văn hóa: Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, Sở Văn hóa, thể thao và Du lịch Hà Tĩnh đã tổ chức 3 cuộc kiểm tra trong đó 01 cuộc phối hợp đội Kiểm tra liên ngành văn hóa xã hội tỉnh. Cụ thể: 1 cuộc kiểm tra 65 cơ sở kinh doanh dịch vụ văn hóa, thể thao và du lịch đã xử phạt vi phạm hành chính 01 cá nhân với số tiền 5 triệu đồng; 1 cuộc kiểm tra công tác quản lý, tổ chức các hoạt động lễ hội và công tác tuyên truyền phòng, chống dịch Covid -19 tại các điểm di tích trên địa bàn tỉnh, qua kiểm tra cơ bản các di tích chấp hành nghiêm túc các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo của cấp trên, thực hiện đầy đủ các biện pháp phòng chống dịch Covid-19 theo quy định; 1 cuộc kiểm tra các cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch, qua kiểm tra tại 6 cơ sở, cơ bản các cơ sở chấp hành các quy định của pháp luật.
- Hoạt động thể thao: Trong tháng hoạt động thể thao quần chúng tiếp tục được đẩy mạnh và nâng cao chất lượng. Ngày 19-20/5 tại Khu du lịch biển Thiên Cầm, UBND huyện Cẩm Xuyên tổ chức giải đua thuyền năm 2022; chiều 19/5, tại khu vực sông Phủ, UBND TP Hà Tĩnh đã tổ chức khai mạc giải đua thuyền truyền thống. Nhìn chung 6 tháng đầu năm 2022 sau khi dịch COVID-19 dần được kiểm soát, hoạt động thể dục thể thao quần chúng trên địa bàn tỉnh đã sôi động trở lại.
- Thể thao thành tích cao: Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, Hà Tĩnh tham gia 14 giải đấu, đạt 94 huy chương các loại (35 huy chương vàng, 27 huy chương bạc, 32 huy chương đồng), trong đó 04 giải quốc tế đạt 15 huy chương (7HCV-5HCB-3HCĐ), SEA Games 31 đạt 12 huy chương (5 huy chương vàng, 5 huy chương bạc, 2 huy chương đồng).
6. Tai nạn giao thông
Tính từ ngày 15/5-14/6/2022 trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh xảy ra 10 vụ tai nạn đường bộ, làm 8 người chết, 2 người bị thương, thiệt hại 180 triệu đồng. So với tháng trước tăng 3 vụ tai nạn đường bộ, tăng 3 người chết và số người bị thương không đổi; so với cùng kỳ năm trước tăng 3 vụ và tăng 1 người chết và tăng 2 người bị thương.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2022 (từ ngày 15/12/2021-14/6/2022) đã xẩy ra 46 vụ tai nạn giao thông đường bộ, làm 39 người chết, 19 người bị thương, tổng thiệt hại ước tính 690 triệu đồng, riêng dịp Tết Nguyên đán Nhâm Dần năm 2022 (từ ngày 29/01 (27 tháng Chạp) đến ngày 06/02/2022 (ngày Mùng 06 Tết)) xảy ra 5 vụ, làm chết 3 người, bị thương 5 người. So với cùng năm 2021 giảm 5 vụ (giảm 9,80%), số người chết và người bị thương không đổi.
7. Thiệt hại thiên tai
Trong tháng, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 3 vụ thiên tai làm 2 người chết, 17 nhà hư hỏng với giá trị ước tính 100 triệu đồng. So với tháng trước tăng 2 vụ thiên tai, tăng 2 người chết, thiệt hại về tài sản giảm 7.568 triệu đồng; so với cùng kỳ năm trước giảm 1 vụ thiên tai, giảm 1 người chết, thiệt hại giảm 17.200 triệu đồng. Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 5 vụ thiên tai, cụ thể là 1 vụ sóng to, gió lớn (ngày 3/4); 1 vụ mưa lớn (ngày 30/4-1/5); 2 vụ sét đánh (ngày 26/5 và 14/6), 1 vụ lốc xoáy (ngày 14/6); làm chết 3 người; làm hư hỏng 1 chiếc tàu, 17 nhà hư hỏng, thiệt hại 512 ha diện tích lúa, 153 ha diện tích hoa màu, ước tính tổng thiệt hại là 7.968 triệu đồng. So với cùng kỳ năm trước giảm 3 vụ thiên tai, tăng 1 người chết, giảm 1 người bị thương, tổng thiệt hại về tài sản giảm 39.032 triệu đồng.
8. Bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ
- Tình hình cháy, nổ: Từ ngày 15/5/2022 đến ngày 14/6/2022 đã xảy ra 6 vụ cháy, nổ không có thiệt hại về người, tổng thiệt hại ước tính là 1.541 triệu đồng. So với tháng trước tăng 3 vụ cháy, nổ; số người chết và số người bị thương không đổi; so với cùng kỳ năm trước tăng 2 vụ; số người chết và số người bị thương không đổi.
Sáu tháng đầu năm (từ ngày 15/12/2021-14/6/2022) đã xảy ra 17 vụ cháy, nổ làm 1 người chết, không có người bị thương, tổng thiệt hại ước tính 2.016 triệu đồng; so với cùng kỳ năm trước: Tăng 1 vụ (tăng 6,25%), giảm 1 người chết (giảm 50%), thiệt hại ước tính giảm 294 triệu đồng.
- Công tác bảo vệ môi trường: Tính từ ngày 15/5 đến ngày 14/6/2022 đã phát hiện 34 vụ, đã xử lý 13 vụ, với tổng số tiền xử phạt là 43,89 triệu đồng; so với tháng trước số vụ phát hiện giảm 30 vụ (giảm 46,88%), số vụ xử lý giảm 36 vụ (giảm 73,47%), số tiền nộp phạt giảm 246,20 triệu đồng (giảm 84,87%); so với cùng kỳ năm 2021 tăng 22 vụ đã phát hiện (tăng 183,33%), giảm 2 vụ đã xử lý (giảm 13,33%), số tiền xử phạt giảm 360,71 triệu đồng (giảm 89,15%).
Tính chung 6 tháng đầu năm (từ ngày 15/12/2021 - 14/6/2022) đã phát hiện 508 vụ, đã xử lý 353 vụ, với tổng số tiền xử phạt 1.312,86 triệu đồng; so với cùng kỳ năm trước số vụ phát hiện tăng 433 vụ (tăng 5,77 lần), số vụ đã xử lý tăng 301 vụ (tăng 5,79 lần), số tiền nộp phạt tăng 465,81 triệu đồng (tăng 54,99%). Vi phạm môi trường đã phát hiện trong 6 tháng đầu năm chủ yếu là vận chuyển cát trái phép, sử dụng xung kích điện đánh bắt thủy sản trái phép... gồm 458 vụ (chiếm 90,16%); vận chuyển, chôn, lấp, đổ, thải, đốt chất thải rắn, chất thải nguy hại không đúng quy trình kỹ thuật, quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường 26 vụ (chiếm 5,12%); xả nước thải, xả khí thải chưa được xử lý đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường ra môi trường 20 vụ (3,94%); thực hiện dự án đầu tư hoặc xả thải khi chưa đủ điều kiện theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường 4 vụ (chiếm 0,78%).
III. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP TRONG THỜI GIAN TỚI
Để thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chỉ tiêu KT-XH năm 2022 mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX đã đề ra, đòi hỏi các cấp, các ngành, địa phương cần phải thực hiện nghiêm túc các chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh về thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2022, đồng thời cần tập trung thực hiện tốt một số nội dung sau:
(1) Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19. Tiếp tục nâng cao chất lượng công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe Nhân dân theo Kết luận số 38-KL/TU ngày 28/01/2022 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Nghị quyết số 03/NQ/TU của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh.
(2) Tiếp tục cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư, kinh doanh; đẩy mạnh cải cách hành chính, đơn giản hóa, cắt giảm các thủ tục nhằm giảm thời gian, chi phí cho doanh nghiệp và người dân. Hỗ trợ doanh nghiệp, nhà đầu tư tiếp cận thụ hưởng các cơ chế, chính sách phục hồi và phát triển kinh tế. Tạo điều kiện để các doanh nghiệp lớn tìm hiểu, khảo sát đầu tư.
(3) Tập trung đẩy mạnh tiến độ thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công cho những tháng cuối năm; huy động tốt nguồn vốn tư nhân cho đầu tư phát triển.
(4) Chủ động bám sát diễn biến thời tiết, tăng cường các biện pháp phòng chống dịch bệnh, không để xảy ra dịch tả lợn châu Phi, dịch viêm da nổi cục trên đàn trâu bò. Tập trung chỉ đạo thực hiện thắng lợi sản xuất vụ Hè Thu năm 2022. Tiếp tục tuyên truyền, triển khai quyết liệt các cơ chế, chính sách đã ban hành, nhất là đề án tập trung, tích tụ ruộng đất, thúc đẩy cơ cấu lại sản xuất, xây dựng cánh đồng lớn; phát triển nông nghiệp hữu cơ, trước mắt xây dựng các mô hình, chuỗi sản phẩm lúa gạo, rau màu, cây ăn quả, chăn nuôi lợn…, sơ kết đánh giá trước khi triển khai nhân rộng. Đẩy mạnh chuyển đổi số, truy xuất nguồn gốc, xây dựng thương hiệu sản phẩm cây ăn quả.
(5) Quan tâm phát triển thị trường trong nước gắn với cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”; xây dựng và thực hiện kế hoạch kích cầu tiêu dùng, chương trình khuyến mại tập trung năm 2022.
Tóm lại, tình hình kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm 2022 diễn ra trong điều kiện có nhiều khó khăn, kinh tế tăng trưởng chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của Hà Tĩnh. Để thực hiện nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội cả năm 2022 cần phải có sự chỉ đạo sát sao hơn nữa của cấp ủy chính quyền các cấp và sự quyết tâm vào cuộc của cả hệ thống chính trị xã hội trong 6 tháng cuối năm./.