(MPI) – Ngày 07/11/2022, tại Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XV, thay mặt Chính phủ, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng đã trình bày tóm tắt những nội dung chủ yếu của dự án Luật Đấu thầu (sửa đổi).
|
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng trình bày những nội dung chủ yếu của dự án Luật Đấu thầu (sửa đổi) |
Phát biểu tại Kỳ họp, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho rằng, Luật Đấu thầu năm 2013 cùng với các Luật có liên quan đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng điều chỉnh hoạt động mua sắm, quản lý sử dụng vốn, tài sản của nhà nước phù hợp với các chuẩn mực, thông lệ quốc tế, bảo đảm yêu cầu công khai, minh bạch, cạnh tranh và hiệu quả kinh tế trong hoạt động đấu thầu.
Tuy nhiên, thực tiễn thi hành Luật Đấu thầu năm 2013 trong thời gian qua cũng đặt ra yêu cầu cấp thiết phải sửa đổi toàn diện Luật và được xây dựng trên cơ sở 05 nhóm chính sách trong Đề nghị xây dựng Luật đã được Quốc hội, Chính phủ thông qua, gồm 10 Chương, 98 Điều. So với Luật Đấu thầu năm 2013, Luật này đã sửa đổi 75 điều, bổ sung mới 21 điều, giữ nguyên 02 điều, bãi bỏ 12 điều.
Nhóm các quy định về phạm vi điều chỉnh và nguyên tắc áp dụng
Dự thảo Luật tiếp tục quy định về hoạt động lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư có sử dụng đất, đồng thời bổ sung quy định về hoạt động lựa chọn nhà đầu tư đối với dự án đầu tư phải tổ chức đấu thầu theo quy định của pháp luật.
Phạm vi điều chỉnh của dự thảo Luật Đấu thầu (sửa đổi) và Luật Đất đai (sửa đổi) về lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án có sử dụng đất đã được quy định thống nhất theo hướng: Luật Đấu thầu quy định về hồ sơ, trình tự, thủ tục đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án có sử dụng đất thuộc trường hợp phải đấu thầu theo quy định của pháp luật về đất đai, đồng thời quy định phương pháp, tiêu chuẩn đánh giá về năng lực, kinh nghiệm của nhà đầu tư và các yêu cầu về kỹ thuật, kinh tế, xã hội, môi trường của dự án đầu tư sử dụng đất; Luật Đất đai quy định về trường hợp, điều kiện xác định khu đất được lựa chọn để đấu thầu dự án có sử dụng đất; quy định về giao đất, cho thuê đất; quyền, nghĩa vụ của nhà đầu tư được lựa chọn để thực hiện dự án có sử dụng đất.
Dự thảo Luật tiếp tục áp dụng Luật Đấu thầu đối với hoạt động lựa chọn nhà thầu của doanh nghiệp nhà nước thuộc đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 88 Luật Doanh nghiệp, bao gồm các doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ hoặc tổng số cổ phần có quyền biểu quyết, đồng thời bãi bỏ quy định tại điểm c khoản 1 Điều 1 Luật Đấu thầu năm 2013 để không áp dụng Luật Đấu thầu đối với hoạt động lựa chọn nhà thầu thuộc dự án đầu tư phát triển sử dụng vốn của doanh nghiệp nhà nước từ 30% trở lên hoặc dưới 30% nhưng trên 500 tỷ đồng.
Ngoài ra, để bảo đảm tính minh bạch, thống nhất, tránh xung đột, mâu thuẫn giữa Luật Đấu thầu và các Luật có liên quan, khoản 3 Điều 1 của dự thảo Luật đã bổ sung quy định nhằm xác định rõ các hoạt động đấu thầu không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật này.
Về nguyên tắc áp dụng Luật Đấu thầu, dự thảo Luật đã quy định rõ nguyên tắc áp dụng Luật này đối với tổ chức, cá nhân có hoạt động đấu thầu không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Đấu thầu nhưng lựa chọn áp dụng Luật Đấu thầu.
Đồng thời, Dự thảo Luật đã quy định nguyên tắc áp dụng Luật Đấu thầu và các luật có liên quan đến hoạt động lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư trong lĩnh vực dầu khí; lựa chọn nhà thầu ở nước ngoài để thực hiện gói thầu ở nước ngoài của cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài và lựa chọn nhà đầu tư, nhà thầu thực hiện dự án đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP).
Nhóm các quy định sửa đổi, bổ sung nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác đấu thầu, bảo đảm cạnh tranh, công bằng, minh bạch trong hoạt động đấu thầu
Những nội dung chủ yếu của nhóm chính sách này gồm: Một là, sửa đổi, bổ sung quy định về công khai thông tin, thiết lập hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về nhà thầu theo hướng yêu cầu công khai tất cả các thông tin trong đấu thầu nhằm nâng cao tính minh bạch, trách nhiệm giải trình của các bên có liên quan, hạn chế tình trạng gian lận, làm cơ sở loại bỏ các nhà thầu không có uy tín, hàng hóa không bảo đảm chất lượng hoặc không đáp ứng được nhu cầu sử dụng thực tế.
Hai là, hoàn thiện quy định về tiêu chí bảo đảm cạnh tranh trong nội dung hồ sơ mời thầu nhằm hạn chế tình trạng “cài cắm” tiêu chí đánh giá, gây ra sự cạnh tranh không bình đẳng.
Ba là, sửa đổi, bổ sung quy định về cách xác định chi phí cho toàn bộ quá trình sử dụng của hàng hóa, công trình nhằm hạn chế tình trạng nhà thầu bỏ thầu giá rẻ để trúng thầu, dẫn đến việc thực hiện hợp đồng không bảo đảm tiến độ, chất lượng.
Bốn là, sửa đổi, bổ sung quy định về hình thức chỉ định thầu, lựa chọn nhà thầu trong trường hợp đặc biệt nhằm tạo điều kiện thuận lợi để áp dụng đối với các gói thầu có các điều kiện đặc thù hoặc cần đẩy nhanh tiến độ thực hiện.
Năm là, sửa đổi, bổ sung quy định về hình thức mua sắm trực tiếp, tự thực hiện nhằm hạn chế tình trạng áp giá cao trong mua sắm trực tiếp; khắc phục tình trạng lạm dụng hình thức tự thực hiện để giao gói thầu cho các đơn vị trực thuộc chủ đầu tư thực hiện thay vì áp dụng đấu thầu rộng rãi.
Sáu là, bổ sung quy định cho phép hồ sơ mời thầu được đưa ra yêu cầu hàng hóa phải có xuất xứ từ một nhóm quốc gia, vùng lãnh thổ cụ thể trong trường hợp cần mua hàng hóa có chất lượng, tiêu chuẩn kỹ thuật bảo đảm đáp ứng yêu cầu sử dụng, trong đó có vật tư, trang thiết bị y tế.
Bên cạnh đó, dự thảo Luật đã hoàn thiện quy định về phương pháp đánh giá lợi ích xã hội, lợi ích Nhà nước nhằm lựa chọn được nhà đầu tư có đề xuất phương án đầu tư kinh doanh mang lại lợi ích cao nhất cho xã hội, Nhà nước, bảo đảm mục tiêu phát triển bền vững, hài hòa lợi ích của Nhà nước, nhà đầu tư, người dân.
Nhóm các quy định sửa đổi, bổ sung nhằm đơn giản hóa quy trình, thủ tục thực hiện hoạt động đấu thầu lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư, cắt giảm thời gian, chi phí trong hoạt động đấu thầu
Những nội dung chủ yếu của nhóm chính sách này gồm: Một là, sửa đổi, bổ sung quy định thời gian, trình tự, thủ tục trong hoạt động đấu thầu nhằm đơn giản hóa thủ tục, tiết kiệm và rút ngắn thời gian tổ chức đấu thầu theo hướng: Chỉ quy định thời gian tối thiểu để nhà thầu, nhà đầu tư chuẩn bị hồ sơ dự thầu, làm rõ hồ sơ dự thầu và quy định thời gian tối đa để người có thẩm quyền, chủ đầu tư, bên mời thầu đăng tải các thông tin trong đấu thầu.
Cắt bỏ một số thủ tục thẩm định, phê duyệt ở cấp trung gian (như phê duyệt danh sách nhà thầu đáp ứng yêu cầu về kỹ thuật; danh sách xếp hạng nhà thầu; thương thảo hợp đồng, trừ gói thầu lớn, phức tạp); lược bỏ thủ tục lập, thẩm định, phê duyệt kế hoạch lựa chọn nhà đầu tư.
Bổ sung quy định cho phép mua các hàng hóa, dịch vụ phát sinh trên cơ sở hợp đồng đã thực hiện trước đó nhằm tạo sự chủ động, linh hoạt cho người có thẩm quyền, chủ đầu tư, bên mời thầu trong việc thực hiện các hoạt động đấu thầu.
Bổ sung quy định cho phép triển khai trước một số hoạt động đấu thầu (như lập, thẩm định, phê duyệt hồ sơ mời thầu, tổ chức lựa chọn nhà thầu); cho phép đấu thầu các gói thầu có thời gian thực hiện hợp đồng dài hơn 01 năm hoặc cần yêu cầu nhà thầu cam kết cung cấp dịch vụ trong thời gian dài.
Hai là, bổ sung quy định về kết nối, chia sẻ thông tin giữa Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia với các Cổng thông tin điện tử, Hệ thống khác (như: Hệ thống quản lý đăng ký về doanh nghiệp, Hệ thống kê khai thuế điện tử…) nhằm tăng cường tính công khai, minh bạch, ngăn chặn các hành vi thông đồng, gian lận trong đấu thầu.
Ba là, sửa đổi, bổ sung quy định về hợp đồng nhằm giải quyết các bất cập trong việc áp dụng từng loại hợp đồng, đặc biệt là hợp đồng trọn gói theo hướng: Quy định cụ thể nguyên tắc, điều kiện áp dụng đối với từng loại hợp đồng để cho phép chủ đầu tư, người có thẩm quyền căn cứ vào quy mô, tính chất, điều kiện của từng gói thầu quyết định lựa chọn áp dụng loại hợp đồng phù hợp thay vì quy định hợp đồng trọn gói là loại hợp đồng cơ bản như Luật Đấu thầu năm 2013 nhằm giải quyết các bất cập trong việc áp dụng từng loại hợp đồng, đặc biệt là hợp đồng trọn gói.
Cụ thể hóa quy định về các trường hợp sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh hợp đồng cho phù hợp với các nguyên tắc đã được quy định tại Bộ luật dân sự và pháp luật xây dựng, đồng thời bổ sung quy định cho phép điều chỉnh hợp đồng trong quá trình thực hiện khi giá nguyên, nhiên, vật liệu có biến động lớn để bảo đảm quyền lợi cho nhà thầu.
Nhóm các quy định sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện chính sách đấu thầu mua sắm hàng hóa trong nước, sản phẩm đổi mới sáng tạo, mua sắm xanh
Những nội dung chủ yếu của nhóm chính sách này gồm: Sửa đổi, bổ sung quy định để áp dụng ưu đãi cho hàng hóa sản xuất trong nước, doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp có sử dụng lao động thuộc nhóm yếu thế nhằm hỗ trợ, thúc đẩy sản xuất trong nước.
Bổ sung quy định về ưu tiên, ưu đãi cho doanh nghiệp trong nước sản xuất hàng hóa thay thế hàng nhập khẩu, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo; ưu tiên, ưu đãi cho các sản phẩm thân thiện môi trường nhằm mục tiêu phát triển bền vững.
Quy định các hình thức ưu tiên, ưu đãi cho từng đối tượng cụ thể gồm: (i) ưu đãi trong đánh giá về tài chính; (ii) ưu tiên đánh giá về năng lực, kinh nghiệm và các tiêu chí khác trong quá trình đánh giá hồ sơ dự thầu; (iii) ưu tiên cho các doanh nghiệp cấp nhỏ, siêu nhỏ tham dự thầu các gói thầu xây lắp có giá dưới 5 tỷ đồng.
Nhóm các quy định sửa đổi, bổ sung nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về đấu thầu; phòng chống tiêu cực, tham nhũng, lãng phí trong hoạt động đấu thầu
Những nội dung chủ yếu của nhóm chính sách này gồm: Bổ sung quy định cụ thể về nhiệm vụ của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nhằm nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu Bộ, cơ quan Trung ương, địa phương trong việc thực hiện công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động đấu thầu; đồng thời bổ sung, hoàn thiện quy định về nội dung, trình tự, thủ tục thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động đấu thầu.
Bổ sung quy định về các trường hợp người có thẩm quyền được phép đình chỉ, không công nhận kết quả lựa chọn nhà thầu, quyết định vô hiệu đối với các quyết định của chủ đầu tư, bên mời thầu trong trường hợp phát hiện có sai phạm trong hoạt động tổ chức lựa chọn nhà thầu nhằm nâng cao giá trị, hiệu lực pháp lý của việc xử lý vi phạm trong đấu thầu.
Hoàn thiện quy định về các hành vi bị cấm để xác định đầy đủ các hành vi vi phạm trong đấu thầu đã xảy ra trong thực tế, đồng thời quy định cụ thể phạm vi cấm tham gia hoạt động đấu thầu đối với nhà thầu, nhà đầu tư có hành vi vi phạm cho phù hợp với thẩm quyền quản lý của từng người có thẩm quyền.
Sửa đổi, bổ sung quy định về giải quyết kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trong đấu thầu nhằm xác định rõ quy trình, thủ tục, điều kiện giải quyết kiến nghị và khiếu nại, tố cáo hoặc khởi kiện ra tòa án theo quy định của pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo, tố tụng dân sự.
Về điều khoản chuyển tiếp, dự thảo Luật đã quy định điều khoản chuyển tiếp đối với các dự án, gói thầu thực hiện trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành. Trong thời gian Luật Đất đai (sửa đổi) chưa có hiệu lực thi hành, để tránh khoảng trống pháp lý trong việc thực hiện quy định về lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án có sử dụng đất thuộc các trường hợp theo quy định của Luật Đất đai, dự thảo Luật quy định việc lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án có sử dụng đất được tiếp tục thực hiện theo quy định của Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13 cho đến ngày Luật Đất đai (sửa đổi) có hiệu lực thi hành./.
Thúy Quyên
Bộ Kế hoạch và Đầu tư