Tính đến 20/02/2023, tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần, mua phần vốn góp (GVMCP) của nhà ĐTNN đạt gần 3,1 tỷ USD, giảm 38% so với cùng kỳ năm 2022. Vốn thực hiện của dự án ĐTNN ước đạt khoảng 2,55 tỷ USD, giảm 4,9% so với cùng kỳ năm 2022.
Tính lũy kế đến ngày 20/02/2023, cả nước có 36.611 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký gần 442,3 tỷ USD. Vốn thực hiện lũy kế của các dự án ĐTNN ước đạt hơn 276,5 tỷ USD, bằng gần 62,5% tổng vốn đầu tư đăng ký còn hiệu lực.
Thông tin chi tiết như sau:
1. Tình hình thu hút ĐTNN 02 tháng đầu năm 2023
1.1. Tình hình hoạt động
Vốn thực hiện:
Tính tới 20/02/2023, ước tính các dự án ĐTNN đã giải ngân được khoảng 2,55 tỷ USD, giảm 4,9% so với cùng kỳ năm 2022, tăng 11,4 điểm phần trăm so với tháng 01 năm 2023.
Tình hình xuất, nhập khẩu:
Xuất khẩu: Kim ngạch xuất khẩu của khu vực ĐTNN giảm trong 02 tháng đầu năm 2023 song mức độ giảm đã được cải thiện so với tháng 01 năm 2023. Xuất khẩu (kể cả dầu thô) ước đạt hơn 38,4 tỷ USD, giảm 5,3% so với cùng kỳ, chiếm 76,7% kim ngạch xuất khẩu. Xuất khẩu không kể dầu thô ước đạt gần 38,1 tỷ USD, giảm 5,5% so với cùng kỳ, chiếm gần 76% kim ngạch xuất khẩu cả nước.
Nhập khẩu: Nhập khẩu của khu vực ĐTNN ước đạt hơn 33 tỷ USD, giảm 10,9% so cùng kỳ và chiếm 67,5% kim ngạch nhập khẩu cả nước.
Mặc dù kim ngạch xuất khẩu giảm song tính chung trong 02 tháng đầu năm 2023, khu vực ĐTNN vẫn xuất siêu gần 5,4 tỷ USD kể cả dầu thô và xuất siêu hơn 5 tỷ USD không kể dầu thô. Trong khi đó, khu vực doanh nghiệp trong nước nhập siêu hơn 4,2 tỷ USD.
1.2. Tình hình đăng ký đầu tư
Tính đến 20/02/2023, tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần của nhà ĐTNN đạt gần 3,1 tỷ USD, giảm 38% so với cùng kỳ năm 2022. Tổng vốn đầu tư đăng ký giảm do vốn điều chỉnh giảm mạnh. Trong khi đó, vốn đầu tư mới và GVMCP vẫn tăng so với cùng kỳ. Cụ thể:
Vốn đăng ký mới: Có 261 dự án mới được cấp GCNĐKĐT (tăng 42,6% so với cùng kỳ), tổng vốn đăng ký đạt hơn 1,76 tỷ USD (tăng gần 2,8 lần so với cùng kỳ).
Vốn điều chỉnh: Có 133 lượt dự án đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư (giảm 6,3% so với cùng kỳ), tổng vốn đăng ký tăng thêm đạt gần 535,4 triệu USD (giảm 85,1% so với cùng kỳ).
Góp vốn, mua cổ phần: Có 440 lượt GVMCP của nhà ĐTNN (tăng 10% so với cùng kỳ), tổng giá trị vốn góp đạt gần 797,9 triệu USD (tăng 3,7% so với cùng kỳ).
(Biểu số liệu chi tiết tại Phụ lục I kèm theo báo cáo).
Theo ngành:
Các nhà ĐTNN đã đầu tư vào 17 ngành trong tổng số 21 ngành kinh tế quốc dân. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đạt hơn 2,17 tỷ USD, chiếm 70,1% tổng vốn đầu tư đăng ký. Ngành hoạt động kinh doanh bất động sản đứng thứ hai với tổng vốn đầu tư gần 396,9 triệu USD, chiếm hơn 12,8% tổng vốn đầu tư đăng ký. Tiếp theo lần lượt là các ngành bán buôn, bán lẻ; vận tải kho bãi với tổng vốn đăng ký đạt lần lượt là gần 202,1 triệu USD và gần 141,9 triệu USD. Còn lại là các ngành khác.
Xét về số lượng dự án mới, công nghiệp chế biến chế tạo cũng là ngành dẫn đầu về số dự án mới (chiếm gần 30%) và điều chỉnh vốn (chiếm 63,9%).
Theo đối tác đầu tư:
Đã có 51 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam trong 02 tháng đầu 2023. Trong đó, Singapore dẫn đầu với tổng vốn đầu tư hơn 978,4 triệu USD, chiếm gần 31,6% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam, giảm 42,7% so với cùng kỳ 2022; Đài Loan đứng thứ hai với gần 407,1 triệu USD, chiếm 13,1% tổng vốn đầu tư, gấp 3,85 lần so với cùng kỳ. Hà Lan đứng thứ ba với tổng vốn đầu tư đăng ký gần 369 triệu USD, chiếm hơn 11,9% tổng vốn đầu tư. Tiếp theo là Trung Quốc, Hàn Quốc, Thụy Điển,..
Xét về số dự án, Trung Quốc là đối tác dẫn đầu về số dự án đầu tư mới (chiếm gần 17,2%); Hàn Quốc dẫn đầu về số lượt điều chỉnh vốn (chiếm 21,1%) và GVMCP (chiếm 30,5%).
Theo địa bàn đầu tư:
Các nhà ĐTNN đã đầu tư vào 39 tỉnh, thành phố trên cả nước trong 02 tháng đầu năm 2023. Bắc Giang dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đăng ký hơn 824,3 triệu USD, chiếm hơn 26,6% tổng vốn đầu tư đăng ký và tăng hơn 8,4 lần so với cùng kỳ năm 2022. TP Hồ Chí Minh xếp thứ hai với 103 dự án mới, tổng vốn đầu tư đăng ký hơn 369,1 triệu USD, chiếm hơn 11,9% tổng vốn đầu tư cả nước. Tiếp theo lần lượt là Bình Dương, Quảng Ninh, Đồng Nai,…
Nếu xét về số dự án, TP Hồ Chí Minh dẫn đầu cả nước cả về số dự án mới (39,5%), số lượt dự án điều chỉnh (21,8%) và GVMCP (69,3%).
(Biểu số liệu chi tiết tại Phụ lục II kèm theo báo cáo).
2. Tình hình ĐTNN luỹ kế tới 20/02/2023
Tính lũy kế đến ngày 20/02/2023, cả nước có 36.611 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký hơn 442,3 tỷ USD. Vốn thực hiện lũy kế của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài ước đạt hơn 267,5 tỷ USD, bằng 62,5% tổng vốn đầu tư đăng ký còn hiệu lực.
- Theo ngành: các nhà ĐTNN đã đầu tư vào 19/21 ngành trong hệ thống phân ngành kinh tế quốc dân. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm tỷ trọng cao nhất với gần 262,9 tỷ USD, chiếm 59,4% tổng vốn đầu tư. Tiếp theo là các ngành kinh doanh bất động sản với gần 66,5 tỷ USD (chiếm 15% tổng vốn đầu tư); sản xuất, phân phối điện với hơn 38,3 tỷ USD (chiếm 8,7% tổng vốn đầu tư).
- Theo đối tác đầu tư: Hiện có 142 quốc gia, vùng lãnh thổ có dự án đầu tư còn hiệu lực tại Việt Nam. Trong đó, đứng đầu là Hàn Quốc với tổng vốn đăng ký hơn 81,3 tỷ USD (chiếm 18,4% tổng vốn đầu tư). Singapore đứng thứ hai với gần 72,1 tỷ USD (chiếm 16,3% tổng vốn đầu tư). Tiếp theo lần lượt là Nhật Bản, Đài Loan, Hồng Kông.
- Theo địa bàn: ĐTNN đã có mặt ở tất cả 63 tỉnh, thành phố trong cả nước, trong đó TP Hồ Chí Minh vẫn là địa phương dẫn đầu trong thu hút ĐTNN với hơn 56,3 tỷ USD (chiếm 12,7% tổng vốn đầu tư); tiếp theo là Bình Dương với hơn 39,6 tỷ USD (chiếm gần 9% tổng vốn đầu tư); Hà Nội với gần 38,9 tỷ USD (chiếm gần 8,8% tổng vốn đầu tư).
(Biểu số liệu chi tiết tại Phụ lục III kèm theo báo cáo)
File đính kèm: FDI_2.2023.xlsx
Cục Đầu tư nước ngoài
Bộ Kế hoạch và Đầu tư