 |
Ông Patrick Jean Gilabert, Trưởng đại diện UNIDO phát biểu tại cuộc họp. Ảnh: Đức Trung (MPI Portal)
|
Mặc dù việc thực hiện gặp nhiều thách thức song các đường lối và mục tiêu phát triển chiến lược đã có tác động lớn tới công dân, doanh nhân và cả xã hội. Liên hợp quốc cũng cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách các dữ liệu, bằng chứng và các giải pháp chính sách thay thế dựa trên kinh nghiệm tốt của thế giới.
Tuy nhiên, Việt Nam cần giải quyết một số trở ngại sau như khung pháp lý để phát triển thống kê quốc gia chưa đầy đủ, hệ thống thu thập dữ liệu yếu và việc chia sẻ thông tin giữa các cơ quan Chính phủ và nhân dân còn hạn chế. Đói nghèo cùng cực vẫn tồn tại, đặc biệt ở khu vực xa xôi và đồng bào dân tộc, công dân trong khu vực không chính thức và người nhập cư. Nền kinh tế không chính thức với rất nhiều công việc có điều kiện làm việc kém, lương thấp và không được bảo hiểm xã hội đầy đủ.
Bên cạnh đó, kỹ năng của lực lượng lao động không đáp ứng yêu cầu cần có kinh nghiệm quản lý và kỹ thuật ở mức cao hơn. Phân biệt đối xử đã hạn chế những nhóm dễ bị tổn thương đặc biệt là phụ nữ, người lao động nhập cư không tham gia đầy đủ trong thị trường lao động chính thức, đồng thời chênh lệnh về lương do vấn đề giới vẫn tồn tại.
Trong năm 2012, thống kê đã được sử dụng nhiều hơn trong việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Các lựa chọn chiến lược về phát triển lấy con người làm trọng tâm đã được đưa ra và được các nhà hoạch định chính sách xem xét. Chính phủ sử dụng cách tiếp cận đa chiều trong phân tích và lập kế hoạch giảm nghèo.
Mặt khác, Chính phủ đã xây dựng các chính sách phát triển doanh nghiệp, tập trung vào doanh nghiệp vừa và nhỏ và tạo việc làm tốt đã được xây dựng như Chiến lược việc làm quốc gia đã được xây dựng và phê duyệt, kế hoạch phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ quốc gia, chính sách về xây dựng cụm doanh nghiệp…
Bên cạnh đó, các chính sách và chương trình đào tạo nghề quốc gia đã đáp ứng nhu cầu thị trường hiện tại bằng việc chuẩn hóa mạng lưới giáo viên, lồng ghép vào hệ thống giáo dục và dạy nghề. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ mục tiêu đã cạnh tranh hơn với thị phần cao hơn và xuất khẩu lao động được hưởng lợi từ những chính sách việc làm tốt hơn theo đó ngăn chặn phân biệt đối xử và bóc lột quá mức.
2. Đối phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý môi trường và quản lý rủi ro thiên tai
Biến đổi môi trường đã nổi lên là một thách thức đối với Việt Nam. Thảm họa thiên tai và các thảm họa khí hậu khác đang tăng đồng thời nhu cầu năng lượng cũng như gia tăng khí thải gây hiệu ứng nhà kính, ô nhiễm môi trường và chi phí liên quan cũng gia tăng.
Năm 2012, Việt Nam đã chứng tỏ cam kết nhằm phát triển nền kinh tế ít các-bon bằng việc thông qua Chiến lược tăng trưởng xanh giai đoạn 2011 – 2020 với mục tiêu giảm khí thải nhà kính GHG khoảng 8 – 10% từ mức của năm 2010 và giảm tiêu thụ năng lượng/đơn vị GDP khoảng từ 1 đến 1,5%/năm.
 |
Toàn cảnh cuộc họp. Ảnh: Đức Trung (MPI Portal)
|
Trong Kế hoạch chung 2012 – 2016, Liên hợp quốc tư vấn chính sách và hỗ trợ kỹ thuật nhằm thiết kế và vận hành các chính sách về thích nghi và giảm thiểu biến đổi khí hậu dựa trên bằng chứng, xây dựng và thực hiện các chính sách và cơ chế tăng trưởng xanh nhằm thúc đẩy đa dạng sinh học, tiếp cận với các cơ hội tài trợ cho biến đổi khí hậu trên toàn cầu…
Một số kết quả đạt được trong năm 2012 như các chính sách, chương trình và kế hoạch của quốc gia có tính toán đến biến đổi khí hậu như các nghiên cứu và công tác thực địa để chuẩn bị các lựa chọn chính sách giải quyết vấn đề nhập cư, tái định cư và biến đổi khí hậu tập trung vào khu vực đồng bằng sông Cửu Long.
Các nhóm dễ bị tổn thương và thiệt thòi có thể chống chọi với các thảm họa thiên tai tốt hơn trong đó, quản lý rủi ro thiên tai dựa vào cộng đồng được thực hiện ở 63 tỉnh bao gồm đào tạo 602 cán bộ trong nước và xác định 6.000 cộng đồng dân cư dễ bị tổn thương nhất dựa trên Chỉ số rủi do tổng hợp. Chính phủ ưu tiên đầu tư nhằm xây dựng khả năng chống chọi của cộng đồng ở 20 tỉnh bị ảnh hưởng nhiều nhất.
Bên cạnh đó, sự tham gia của phụ nữ trong các cơ quan ra quyết định về quản lý rủi ro thiên tai được tăng cường như ở Bình Định nơi có hơn 80% số Ban Phòng chống lụt bão cấp huyện và xã có đại diện của Hội phụ nữ.
Chương trình giảm phát thải do mất rừng và suy thoái rừng (REDD) quốc gia và Kế hoạch hành động qua đó nhằm điều phối và định hướng hỗ trợ quốc tế cho REDD+ ở Việt Nam theo một khung duy nhất. 30 triệu USD được cam kết dành cho Chương trình Liên hợp quốc – REDD Việt Nam giai đoạn 2, bắt đầu từ năm 2013 và điều này đánh dấu Chương trình REDD+ lần đầu tiêu thực sự do quốc gia làm chủ.
Một số kết quả khác như Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu đi vào vận hành, các chính sách và năng lực quốc gia nhằm quản lý năng lượng công nghiệp được đưa tăng cường thông qua đào tạo các chuyên gia về quản lý sử dụng năng lượng hiệu quả và thí điểm áp dụng ISO 50001 trong tiêu chuẩn quản lý năng lượng của một số ngành.
Một số ưu tiên trong năm 2014 được các đại biểu tham dự cuộc họp chỉ ra đó là xác định các lĩnh vực hoạt động phù hợp nhất và tập trung hơn vào các lĩnh vực chủ trốt, cải thiện công tác quản lý rủi ro thiên tai và biến đổi khí hậu, lồng ghép quản lý môi trường và tài nguyên thiên nhiên và hỗ trợ thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới./.