NGHỊ QUYẾT
NGHỊ QUYẾT
CỦA CHÍNH
PHỦ SỐ 08/2008/NQ-CP NGÀY 31 THÁNG
3 NĂM 2008
PHIÊN HỌP CHÍNH PHỦ THƯỜNG KỲ THÁNG 3 NĂM 2008
Trong ba ngày, từ ngày 25 đến ngày 27 tháng 3 năm 2008, Chính phủ họp phiên
thường kỳ tháng 3, thảo luận và quyết nghị các vấn đề sau đây:
1.
Chính phủ nghe Báo cáo những vấn đề lớn nổi lên trong Quý I năm 2008 và các giải
pháp nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định chính trị-xã hội và duy trì tiềm năng tăng
trưởng của nền kinh tế, do Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình; Báo cáo tình
hình sản xuất công nghiệp và thương mại tháng 3 và Quý I năm 2008, do Bộ trưởng
Bộ Công Thương trình; Báo cáo tình hình sản xuất nông nghiệp đầu năm 2008 do Bộ
trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trình; Báo cáo tình hình giá cả
thị trường và biện pháp bình ổn giá, do Bộ trưởng Bộ Tài chính trình; Báo cáo về
tình hình thực hiện các giải pháp tiền tệ, tín dụng và hoạt động ngân hàng nhằm
kiềm chế lạm phát năm 2008, do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trình.
Chính phủ thống nhất nhận định: Bước vào thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh
tế-xã hội, ngay từ đầu năm chúng ta đã gặp nhiều khó khăn, tình hình kinh tế thế
giới có xu hướng tăng trưởng chậm lại, tỷ giá đồng Đô la Mỹ suy giảm, giá cả thế
giới tăng cao, có dấu hiệu lạm phát tăng trên phạm vi toàn cầu. Ở trong nước,
hậu quả thiên tai nặng nề của năm trước chưa khắc phục xong, đến năm nay thời
tiết rét đậm, rét hại kéo dài, dịch bệnh về gia súc, gia cầm và cây trồng tiếp
tục gây thiệt hại nặng nề cho sản xuất nông nghiệp và ảnh hưởng lớn đến đời sống
sinh hoạt của nhân dân. Để khắc phục khó khăn, phát triển sản xuất, ổn định đời
sống sinh hoạt của nhân dân, ngay từ đầu năm, Chính phủ đã chỉ đạo triển khai
mạnh mẽ, đồng bộ các giải pháp chủ yếu điều hành thực hiện kế hoạch và ngân sách
nhà nước năm 2008 được đề ra trong Nghị quyết số 02/2008/NQ-CP, tập trung điều
hành kinh tế vĩ mô, kiềm chế tăng giá, chỉ đạo phát triển sản xuất kinh doanh,
đầu tư; đồng thời thực hiện nhiều biện pháp hỗ trợ người nghèo và các đối tượng
gặp khó khăn. Do vậy, trong 3 tháng đầu năm, kinh tế nước ta đã duy trì được tốc
độ tăng trưởng khá cao (7,4%), xuất khẩu và vốn huy động cho đầu tư phát triển,
nhất là vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục tăng. Tuy nhiên, tốc độ phát triển có dấu
hiệu giảm sút, nhất là trong tháng 3 năm 2008. Sản xuất công nghiệp và xuất khẩu
giảm so với cùng kỳ năm trước, chỉ số lạm phát tăng cao, nhập siêu lớn, chỉ số
thị trường chứng khoán giảm mạnh, tiềm ẩn nguy cơ gây xáo trộn các cân đối vĩ
mô. Dư luận xã hội, nhìn chung là đồng thuận và tin tưởng vào sự chỉ đạo điều
hành của Chính phủ, nhưng cũng đã xuất hiện tâm lý băn khoăn, lo lắng về khả
năng thực hiện mục tiêu tăng trưởng, kiềm chế lạm phát và bảo đảm đời sống của
nhân dân.
Từ
những nguyên nhân khách quan, chủ quan và thực tế của tình hình hiện nay; dự báo
về khả năng tăng trưởng của kinh tế thế giới và trong nước, Chính phủ đánh giá
tiềm năng và lợi thế tăng trưởng của nền kinh tế nước ta là rất lớn, nhất là các
lĩnh vực nông nghiệp, dịch vụ và thu hút đầu tư. Tuy nhiên, nền kinh tế nước ta
đang trong xu thế mở cửa, hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới,
nên khó tránh khỏi những tác động hệ lụy của kinh tế khu vực và thế giới. Chính
phủ xác định mục tiêu, nhiệm vụ quan trọng trong chỉ đạo điều hành phát triển
kinh tế-xã hội hiện nay là: tập trung ưu tiên thực hiện các giải pháp kiềm chế
lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội; duy trì các tiềm năng
phát triển kinh tế đất nước để chuẩn bị cho sự phát triển cao hơn trong các năm
sau:
Để
đạt được mục tiêu, nhiệm vụ đề ra, Chính phủ thông qua tám nhóm giải pháp được
đề cập trong Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Trong đó, tập trung vào các vấn
đề sau:
a)
Tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, chủ động và linh hoạt theo
nguyên tắc thị trường, kiềm chế lạm phát và góp phần duy trì tăng trưởng của nền
kinh tế.
b)
Phấn đấu tăng thu, thắt chặt chi tiêu, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn ngân
sách nhà nước, tăng cường tiết kiệm điện, xăng dầu; cắt giảm các hạng mục, công
trình đầu tư chưa bức thiết; tập trung vốn cho các công trình có hiệu quả.
c)
Đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu, hạn chế nhập khẩu hàng tiêu
dùng chưa thật thiết yếu.
d)
Các Bộ ngành chức năng xây dựng và tổ chức triển khai phương án bảo đảm giữ vững
cân đối cung cầu các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và đời sống.
đ)
Các cơ quan Trung ương, chính quyền địa phương, hiệp hội ngành hàng và doanh
nghiệp phối hợp chặt chẽ triển khai các biện pháp quản lý thị trường, chống đầu
cơ, buôn lậu và gian lận thương mại trên mọi địa bàn.
e)
Khẩn trương rà soát, tháo gỡ khó khăn thúc đẩy phát triển sản xuất công nghiệp,
nông nghiệp và dịch vụ; tăng cường kiểm soát dịch bệnh, đẩy mạnh tiến độ, sớm
đưa vào hoạt động các công trình tạo ra những sản phẩm quan trọng, thiết yếu
phục vụ sản xuất và đời sống.
g)
Tăng cường các biện pháp hỗ trợ ổn định đời sống nhân dân, tiếp tục trợ giúp các
đối tượng thuộc hộ nghèo, có thu nhập thấp bảo đảm an sinh xã hội và đời sống,
sản xuất của nông dân.
h)
Chỉ đạo công tác thông tin tuyên truyền bảo đảm khách quan, trung thực, tạo sự
đồng thuận cao trong tất cả các cấp, các ngành, địa phương, doanh nghiệp để thực
hiện các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra nhằm đưa nền kinh tế vượt qua
khó khăn, phát triển ổn định.
Giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Công Thương,
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiếp thu ý
kiến các thành viên Chính phủ hoàn chỉnh báo cáo Chính phủ để trình Bộ Chính trị
và báo cáo Quốc hội.
2.
Chính phủ nghe Báo cáo quyết toán ngân sách nhà nước năm 2006 do Bộ trưởng Bộ
Tài chính trình; nghe Tổng kiểm toán nhà nước báo cáo về kết quả kiểm toán ngân
sách nhà nước năm 2006.
Chính phủ nhất trí thông qua Báo cáo quyết toán ngân sách nhà nước năm 2006.
Giao Bộ Tài chính tiếp thu ý kiến các thành viên Chính phủ; thảo luận với Kiểm
toán Nhà nước về các nội dung chưa thống nhất, báo cáo Thủ tướng Chính phủ để
trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Bộ
Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư dự thảo Chỉ thị của Thủ
tướng Chính phủ về chấn chỉnh việc thực hiện các kết quả kiểm toán và thực hiện
nghiêm chỉnh các chính sách tài khóa, trình Thủ tướng Chính phủ trong tháng 4
năm 2008.
3.
Chính phủ đã thảo luận, tham gia ý kiến về dự án Luật Sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam do Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam chuẩn bị và xin ý kiến.
Giao Văn phòng Chính phủ chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp tiếp thu ý kiến các
thành viên Chính phủ hoàn chỉnh Báo cáo của Chính phủ tham gia ý kiến vào dự án
Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, trình Thủ tướng Chính phủ gửi Ủy ban Trung ương
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
4.
Chính phủ đã thảo luận và cho ý kiến vào các dự án Luật Công nghệ cao; Luật Sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi đua, Khen thưởng; Luật Sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Phòng, chống ma túy; Luật Giao thông đường bộ (sửa đổi),
Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi), Luật Quốc tịch Việt Nam (sửa đổi).
Giao Bộ trưởng các Bộ: Khoa học, công nghệ, Nội vụ, Công an, Giao thông vận tải,
Tư pháp theo trách nhiệm được phân công chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên
quan tiếp thu ý kiến các thành viên Chính phủ, hoàn chỉnh các dự án Luật và thừa
ủy quyền Thủ tướng Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
5.
Về dự án Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam (sửa đổi) và dự án Luật các tổ chức
tín dụng (sửa đổi), Chính phủ thống nhất: Từ nay đến năm 2010 giữ mô hình Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam như hiện nay để vừa thực hiện chức năng quản lý nhà nước
về ngân hàng vừa thực hiện chức năng là Ngân hàng Trung ương. Vì vậy, trước mắt,
việc sửa đổi Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam cần tập trung vào hai nội dung là
sửa các quy định để phù hợp với các cam kết của Việt Nam với Tổ chức Thương mại
Thế giới (WTO) và các quy định mà nếu không sửa thì Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
không thể thực hiện tốt được chức năng, nhiệm vụ của mình.
Giao Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiếp thu ý kiến các thành viên Chính phủ, hoàn
chỉnh các nội dung sửa đổi dự án Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam và Luật Các tổ
chức tín dụng theo phương án trên, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét và lấy ý
kiến thành viên Chính phủ trước khi báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Đồng thời,
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì nghiên cứu xây dựng dự án Luật về Ngân hàng
Trung ương theo định hướng phát triển ngành ngân hàng đến năm 2020 đúng tinh
thần kết luận của Bộ Chính trị và Quyết định số 112/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ.
6.
Chính phủ thảo luận, cho ý kiến vào dự thảo Nghị định của Chính phủ về chính
sách khuyến khích phát triển xã hội hóa; nghe Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng
Chính phủ báo cáo thẩm tra về dự thảo Nghị định.
Chính sách khuyến khích phát triển các cơ sở cung ứng dịch vụ ngoài công lập của
Nhà nước trong thời gian qua đã có tác dụng huy động được nguồn lực xã hội để
phát triển các cơ sở ứng dụng dịch vụ ngoài công lập, đáp ứng một phần nhu cầu
ngày càng cao và đa dạng của mọi tầng lớp nhân dân; đóng góp tích cực vào sự
phát triển kinh tế-xã hội. Bên cạnh kết quả đạt được, trong quá trình triển khai
thực hiện đã bộc lộ những vướng mắc cần phải được sửa đổi và quy định rõ hơn.
Chính sách khuyến khích phát triển xã hội hóa trong thời gian tới cần tạo được
cơ chế khuyến khích, thúc đẩy xã hội hóa mạnh hơn, thu hút được các nguồn đầu tư
trong và ngoài nước tham gia để đáp ứng nhu cầu của xã hội với chất lượng và số
lượng ngày càng cao; đồng thời,khắc phục được những vấn đề còn vướng mắc về đối
tượng điều chỉnh, tiêu chí về loại hình, quy mô, tiêu chuẩn chất lượng dịch vụ...
Giao Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ, Bộ Tư pháp và các
cơ quan có liên quan tiếp thu ý kiến các thành viên Chính phủ, hoàn chỉnh dự
thảo Nghị định trình Thủ tướng Chính phủ ký ban hành.
Giao các Bộ khẩn trương xây dựng Danh mục các loại hình và tiêu chí về quy mô,
chất lượng, tiêu chuẩn đối với các cơ sở được ưu đãi theo chính sách khuyến
khích phát triển xã hội hóa của Nhà nước, gửi Bộ Tài chính tổng hợp để trình Thủ
tướng ban hành đồng thời với Nghị định này.
7.
Chính phủ nhất trí thông qua việc thu phí khai thác tư liệu đo đạc bản đồ.
Giao Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn cụ
thể về mức thu và chế độ quản lý, sử dụng tiền phí thu được theo đúng quy định
của pháp luật về phí, lệ phí hiện hành.
8.
Chính phủ nhất trí thông qua Báo cáo tình hình thực hiện công tác cải cách hành
chính tháng 3 năm 2008, do Bộ Nội vụ trình; Báo cáo tình hình thực hiện chương
trình công tác, các quyết nghị của Chính phủ từ phiên họp tháng 02 năm 2008, do
Văn phòng Chính phủ trình.
Chính phủ yêu cầu các Bộ, cơ quan rà soát toàn bộ chương trình công tác, kịp
thời điều chỉnh, bổ sung chương trình cả năm 2008, cụ thể hóa thành các chương
trình công tác hàng Quý, hàng tháng bảo đảm tính khả thi theo đúng Quy chế làm
việc của Chính phủ; khẩn trương hoàn thành các dự thảo Nghị định quy định chức
năng nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các Bộ, cơ quan trình Thủ tướng
Chính phủ ký ban hành trong tháng 4 năm 2008; đặc biệt sớm hoàn thành việc xây
dựng các nghị định hướng dẫn thi hành các Luật đã ban hành và có hiệu lực thi
hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2008./.
TM. CHÍNH PHỦ
THỦ TƯỚNG
Nguyễn Tấn Dũng
File đính kèm: Nghi quyet 08-2008 CP.doc