I. TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2009
1. Về kinh tế:
1.1. Kinh tế tiếp tục tăng trưởng nhưng tốc độ tăng thấp hơn 6 tháng năm 2008: Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP, giá so sánh 1994)6 tháng đầu năm 2009 ước đạt 8,6%, thấp hơn mức tăng của cùng kỳ năm trước là 12,5%.Trong đó: Giá trị tăng thêm (giá so sánh 1994) của các ngành: nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,3% (cùng kỳ giảm 1,6%); ngành công nghiệp và xây dựng tăng 10% (cùng kỳ tăng 13,38%); ngành dịch vụ (giá so sánh 1994) tăng 7,6% (cùng kỳ tăng 13,5%). Trong điều kiện kinh tế toàn cầu đang suy thoái, thì với mức tăng trưởng như trên là mức tăng cao so với bình quân cả nước và so với các tỉnh thành khác[1], cũng là cố gắng bước đầu của tỉnh, góp phần thực hiện các chính sách ngăn chặn suy giảm kinh tế.
1.2. Lĩnh vực công nghiệp và xây dựngtiếp tục có chuyển biến tích cực tăng dần qua các tháng, đạt kế hoạch đề ra. Tính chung giá trị tăng thêm ngành công nghiệp và xây dựng (giá so sánh 1994) 6 tháng đầu năm 2009 ước đạt 2.781 tỷ đồng, tăng 10% so với cùng kỳ.
Giá trị sản xuất công nghiệp (giá cố định 1994) 6 tháng ước đạt 11.831,9 tỷ đồng, bằng 44,1% kế hoạch (26.800 tỷ đồng), tăng 11,5% so với cùng kỳ. Trong đó: công nghiệp Trung ương 7.602 tỷ đồng, đạt 38,4% kế hoạch, tăng 2,2%; công nghiệp địa phương 2.307,9 tỷ, đạt 74,5% kế hoạch, tăng 65,3%; công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 1.921,9 tỷ, đạt 49,3% kế hoạch, tăng 8%.
Xét theo diễn biến các tháng năm 2009 so với cùng kỳ như sau: tháng 01 giảm 7,2%; tháng 2 tăng 14,9%; tháng 3 giảm 0,6%; tháng 4 tăng 14,8%; tháng 5 tăng 17,5 %; tháng 6 tăng 27,7%, là kết quả tích cực của việc triển khai thực hiện các chính sách hỗ trợ sản xuất và kích cầu đầu tư và tiêu dùng.
Một số sản phẩm chủ yếu ước thực hiện so với cùng kỳ: Than sạch 19,5 triệu tấn, bằng 95%; than tiêu thụ 21,09 triệu tấn, bằng 95,7% (trong đó xuất khẩu 12,025 triệu tấn, tăng 4,4%); Điện sản xuất 436 triệu kwh, bằng 41%; Đóng mới tàu 179.636 tấn phương tiện, bằng 88,6%; Xi măng 1,451 triệu tấn, tăng 5,01 lần; Gạch nung 406 triệu viên, tăng 1%...Các dự án đầu tư phát triển công nghiệp về nhiệt điện, xi măng,…được quan tâm đẩy nhanh tiến độ thực hiện và đi vào hoạt động, đã góp phần đưa sản xuất công nghiệp có mức tăng trưởng khá.
Về lĩnh vực xây dựng đã có chuyển biến căn bản, giá trị tăng thêm ngành xây dựng (giá so sánh) 6 tháng đầu năm 2009 ước đạt 266 tỷ đồng, tăng 72,7% so với cùng kỳ.
Tổng số vốn chi đầu tư phát triển được ghi kế hoạch từ đầu năm 2009 của tỉnh là 1.633.454 triệu đồng (theo phân cấp: Tỉnh phân bổ 1.323.040 triệu đồng; các huyện, thị xã, thành phố phân bổ 310.414 triệu đồng). Từ đầu năm đến nay, vốn ngân sách huyện tăng 117.164 triệu đồng, vốn ngân sách tỉnh bổ sung 275.504 triệu đồng. Như vậy, tổng kế hoạch vốn đầu tư phát triển năm 2009 đến thời điểm báo cáo là: 2.026.122 triệu đồng. Trong đó, phần vốn kế hoạch có tính chất đầu tư xây dựng cơ bản là 1.544.650 triệu đồng, sau khi loại trừ các nguồn vốn không thuộc diện phải thực hiện và giải ngân hết trong 6 tháng đầu năm, tổng số vốn dành cho đầu tư xây dựng cơ bản thuộc diện phải giải ngân hết trong 6 tháng đầu năm của tỉnh Quảng Ninh là 1.235.588 triệu đồng. Với quyết tâm thực hiện như trên, đến ngày 30/6/2009 đã cơ bản đạt được mục tiêu giải ngân kế hoạch vốn dành cho đầu tư xây dựng cơ bản cả năm 2009. Nhiều công trình được đẩy nhanh tiến độ thi công, rút ngắn thời gian đầu tư, sớm hoàn thành đưa vào sử dụng và phát huy hiệu quả (có báo cáo riêng gửi Hội đồng nhân dân tỉnh về công tác xây dựng cơ bản).
1.3. Sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản phát triển ổn định và có mức tăng trưởng khá. Tính chung giá trị tăng thêm ngành nông, lâm, thuỷ sản (giá so sánh 1994) 6 tháng đầu năm 2009 ước đạt 280 tỷ đồng, tăng 3,3% so với cùng kỳ, đạt cao hơn so với kế hoạch (2,8%).
Trong 6 tháng đầu năm, tuy xuất hiện một số loại dịch bệnh nhưng nhìn chung thời tiết thuận lợi nên sản xuất nông nghiệp phát triển khá tốt. Vụ Đông Xuân 2009, toàn tỉnh đã gieo trồng được 37.228 ha cây các loại, đạt 96,2% so kế hoạch và bằng 97,9% cùng kỳ (trong đó: Lúa xuân 17.318 ha, đạt 96,2% KH và bằng 100,6% cùng kỳ), các cây trồng khác tương, lạc, rau xanh…cơ bản đạt kế hoạch đề ra. Theo đánh giá sơ bộ, sản lượng lương thực vụ Đông Xuân 2009 ước đạt 104.228 tấn, tương đương cùng kỳ; năng suất lúa ước đạt 50,8 tạ/ha, tăng 0,9 tạ so với cùng kỳ.Đàn gia súc, gia cầm phát triển chậm do ảnh hưởng của dịch bệnh. Đã trồng đ¬ược 10.524 ha rừng tập trung, đạt 69% kế hoạch, tăng 12% so cùng kỳ. Tổng sản lượng thuỷ sản ước thực hiện 38.912 tấn, đạt 55,6% kế hoạch, tăng 19,4% so với cùng kỳ, trong đó: Nuôi trồng 12.076 tấn, đạt 45,2% kế hoạch tăng 48,1% với cùng kỳ; Khai thác 26.836 tấn, đạt 62% kế hoạch, tăng 9,8% với cùng kỳ; kim ngạch chế biến thuỷ sản xuất khẩu ước đạt 10,535 triệu USD, bằng 62% kế hoạch, tăng 35% so với cùng kỳ.
1.4. Khu vực dịch vụ có mức tăng trưởng khá, song chưa đạt kế hoạch đề ra. Tính chung, lĩnh vực dịch vụ, giá trị tăng thêm 6 tháng đầu năm 2009 (giá hiện hành) ước đạt 4.456 tỷ đồng, tăng 10,3% so với cùng kỳ, thấp hơn nhiều so mức kế hoạch đề ra của cả năm là 18,68%. Mặc dù có nhiều biện pháp tích cực đẩy mạnh phát triển dịch vụ (xúc tiến thương mại, du lịch; đẩy mạnh xuất khẩu than, hỗ trợ tạm nhập, tái xuất...) nhưng giá trị tăng thêm ngành dịch vụ chưa đạt kế hoạch, chủ yếu do xuất khẩu và doanh thu dịch vụ du lịch đạt thấp.
Dự kiến 6 tháng đầu năm 2009, tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ 6 tháng ước đạt 10.398,1 tỷ đồng, tăng 13,96% so với cùng kỳ; trong đó bán lẻ tăng 36,71%. Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá trên địa bàn ước đạt 763,54 triệu USD, tăng 4,2% so với cùng kỳ và đạt 38,1% kế hoạch.
Các hoạt động du lịch diễn ra sôi động, nhiều hoạt động quảng bá, xúc tiến du lịch đã được tổ chức ở nhiều nơi. Trong thời gian tổ chức lễ hội Du lịch Hạ Long 2009, lượng khách du lịch đến Hạ Long tăng mạnh, thu hút được trên 45 vạn lượt khách, tăng 73% so với Lễ hội cùng kỳ (trong đó có 89.700 lượt khách tới thăm Vịnh Hạ Long tăng 20% so cùng kỳ).
Tổng số khách du lịch đến Quảng Ninh 6 tháng ước đạt 3.124,2 ngàn lượt, đạt 65% kế hoạch, tăng 14% cùng kỳ; khách nội địa tăng, tuy nhiên, khách quốc tế 708,3 ngàn lượt, giảm 41%. Khách lưu trú ước đạt 821,5 ngàn lượt, bằng 74% cùng kỳ, do đó mặc dù có nhiều biện pháp tích cực, song tổng doanh thu du lịch 6 tháng ước đạt 1.293,6 tỷ đồng, giảm 9% so cùng kỳ. Đây cũng là cố gắng lớn của tỉnh trong khi du lịch cả nước giảm.
Khối lượng vận chuyển hàng hoá tăng 16,9% so với cùng kỳ; vận tải hành khách tăng 29%; tổng doanh thu vận tải ước đạt 1.044 tỷ đồng, tăng 38,1% so với cùng kỳ. Việc phát triển mạng lưới giao thông đường bộ tiếp tục được quan tâm, nhất là đối với giao thông nông thôn, miền núi. Quốc lộ 18 đoạn Mông Dương - Móng Cái đang được tích cực triển khai. 1.5. Hoạt động xuất khẩu tăng trưởng thấp do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế thế giới, thị trường bị thu hẹp, giá xuất khẩu giảm: Kim ngạch xuất khẩu 6 tháng đầu năm 2009 ước đạt 763,5 triệu USD, đạt 38,1% kế hoạch, tăng 4,2 cho với cùng kỳ. Trong đó: khu vực kinh tế Trung ương đạt 652,88 triệu USD, bằng 41,2% kế hoạch, tăng 21,4%; khu vực kinh tế địa phương đạt 66,08 triệu USD, bằng 32,6% kế hoạch, bằng 60,3% cùng kỳ; khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 44,57 triệu USD, bằng 20,5% kế hoạch, bằng 52,4% cùng kỳ.
Một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu ước thực hiện so với cùng kỳ như sau: Than 12,02 triệu tấn, tăng 4,4%; cao su 1.414,3 tấn, bằng 40,4%; Hải sản các loại 1.501 tấn, tăng 4,6%; Tùng hương 2.644 tấn, tăng 11,8%; quần áo 540.600 cái, bằng 96%; dầu thực vật 5.194 tấn, bằng 22%...
Tuy nhiên, so với cả nước thì tuy không đạt kế hoạch nhưng kết quả trên cũng là tích cực (cả nước dự kiến kế hoạch 2009 là 13%, dự báo khó khăn sẽ điều chỉnh xuống 3%).
1.6. Tài chính, Ngân hàng và Giá cả:
- Tổng thu NSNN trên địa bàn ước thực hiện 6 tháng: 8.214,8 tỷ đồng đạt 59% dự toán, tăng 20% so cùng kỳ; Trong đó:
+ Thu về hoạt động xuất nhập khẩu ước thực hiện 6 tháng: 5.530,7 đồng, đạt 60% dự toán năm, tăng 17% so với cùng kỳ.
+ Thu nội địa (phần cân đối ngân sách) ước thực hiện 6 tháng: 2.432 tỷ đồng đạt 58% dự toán, tăng 31% so cùng kỳ.
+ Các khoản thu để lại quản lý qua ngân sách ước thực hiện 6 tháng: 251,9 tỷ đồng đạt 50% dự toán, bằng 93% so với cùng kỳ.
Thu ngân sách đạt cao là do thu từ xí nghiệp quốc doanh đạt 1209 tỷ đạt 62% dự toán (trong đó quốc doanh Trung ương 1184 tỷ, đạt 66% dự toán, ngoài quốc doanh 295 tỷ đạt 50% dự toán), thu cấp quyền sử dụng đất đạt 298 tỷ, đạt 75% dự toán.
Đối với các huyện, thị xã, thành phố, nhìn chung, việc giao dự toán của các địa phương đảm bảo tăng 5-7%. Dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn khối huyện là 1.996.350 triệu đồng. Ước thực hiện của các địa phương 6 tháng là 1.044.631 triệu đồng đạt 52% so với dự toán, trong đó đã có 2 địa phương hoàn thành kế hoạch thu ngân sách nhà nước tỉnh giao cả năm là huyện Bình Liêu đạt 113% dự toán (6.082/5.396 triệu đồng); huyện Ba Chẽ đạt 113% dự toán (2.836/2.518 triệu đồng).
Tổng chi ngân sách địa phương6 tháng đầu năm đạt khoảng 3.490,2 tỷ đồng, bằng 81% dự toán, tăng 88% so với cùng kỳ, trong đó: chi đầu tư phát triển đạt 1.449,8 tỷ đồng, bằng 89% dự toán, tăng 54% so với cùng kỳ; chi thường xuyên đạt 1.290 tỷ đồng, đạt 55% dự toán và tăng 44% so với cùng kỳ.
Việc quản lý giá cả được thực hiện theo nguyên tắc thị trường, điều chỉnh giá theo lộ trình, đối với những nhóm mặt hàng trong danh mục bình ổn giá như: giá nước sinh hoạt, giá xe buýt, giá các loại giống cây trồng, vật nuôi cho đồng bào miền núi…., đảm bảo được lợi ích hài hòa giữa nhà nước, doanh nghiệp và người tiêu dùng, từng bước xóa dần bao cấp từ ngân sách.
Hoạt động dịch vụ ngân hàng vẫn giữ được tốc độ phát triển và là địa phương có kết quả tích cực. Mạng lưới ngân hàng ngày càng được mở rộng trên địa bàn toàn tỉnh tập trung ở các trung tâm đô thị và đạt kết quả khá. Tổng nguồn vốn hoạt động của các ngân hàng dự kiến 6 tháng đạt 31.680 tỷ đồng, tăng 26,2% so với 31/12/2008 và tăng 51,7% so với cùng kỳ (trong đó: vốn huy động tại địa phương là 26.480 tỷ, tăng 30% so với 31/12/2008). Doanh số cho vay ước đạt 30.500 tỷ, tăng 105,1% cùng kỳ, trong đó cho vay ngắn hạn 25.000 tỷ, tăng 131%, cho vay trung và dài hạn 5.500 tỷ, tăng 35,8%. Tổng dư nợ vốn tín dụng 6 tháng 25.850 tỷ, tăng 30,1%, trong đó dư nợ vay ngắn hạn chiếm 47,2%; dư nợ vay trung và dài hạn chiếm 52,8% tổng dư nợ.
Tính đến ngày 31/5/2009 dư nợ cho vay hỗ trợ lãi suất 5.401,5 tỷ đồng, dự kiến đến 30/6 đạt 6000 tỷ. Đến nay đã có 3.908 khoản vay của các tổ chức và cá nhân được vay hỗ trợ lãi suất, trong đó: doanh nghiệp nhà nước 160 khoản, dự nợ đạt 2,857 tỷ; doanh nghiệp ngoài quốc doanh 775 khoản, dự nợ đạt 2.091 tỷ.
Chỉ số giá tiêu dùng 6 tháng đầu năm tương đối ổn định và dao động ở mức thấp. So với tháng trước chỉ số giá tiêu dùng tháng 1 tăng 1,01%, tháng 2 tăng 0,94%, tháng 3 giảm 0,78%, tháng 4 tăng 0,05%, tháng 5 tăng 0,43%, tháng 6 tăng 0,76%. So với tháng 12 năm 2008, chỉ số giá tiêu dùng tháng 6 tăng 2,39% và so với cùng kỳ tăng 6,53%. Một số nhóm hàng có chỉ số giá tăng cao: Giao thông, bưu chính viễn thong tăng 5,29%; Chỉ số giá vàng tháng 6 tăng 23,8%, chỉ số giá đô la Mỹ tăng 8,44% so với tháng 12/2008.
1.7. Hoạt động đầu tư và phát triển doanh nghiệp:
-Tổng vốn đầu tư toàn xã hội 6 tháng năm 2009 ước thực hiện đạt 14.094 tỷ đồng, bằng 36,5% kế hoạch và tăng 1,2% so với cùng kỳ; trong đó: vốn ngân sách nhà nước ước đạt 1.586 tỷ đồng, tăng 2,57 lần; các doanh nghiệp nhà nước đầu tư 6.131 tỷ đồng, tăng 6% (riêng TKV là 3.674 tỷ đồng, tăng 20,3%); khu vực dân cư 916,5 tỷ đồng, bằng 125% so với cùng kỳ…, chỉ tiêu này đạt thấp so với kế hoạch do việc huy động vốn cho đầu tư phát triển gặp khó khăn, các nhà đầu tư và doanh nghiệp phải tập trung nguồn lực tài chính để khắc phục tác động bất lợi của suy thoái kinh tế thế giới, duy trì sản xuất hoặc thực hiện các biện pháp để bảo toàn vốn.
-Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thực hiện 6 tháng ước đạt 35 triệu USD, bằng 38,9% kế hoạch. Từ đầu năm đến nay, đã cấp mới 02 giấy chứng nhận đầu tư với tổng số vốn đầu tư là 10 triệu USD; có 9 dự án chấm dứt hoạt động với tổng vốn đầu tư 26,7 triệu USD do chậm triển khai hoặc không có khả năng thực hiện. Luỹ kế đến hiện tại, trên địa bàn tỉnh có 101 dự án FDI còn hiệu lực pháp lý với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 1.580 triệu USD, luỹ kế vốn đầu tư thực hiện đạt 520 triệu USD, bằng 33,4% tổng số vốn đầu tư đăng ký.
-Trong tình hình sản xuất kinh doanh và tiêu thụ hàng hóa giảm sút, số doanh nghiệp đăng ký mới trong 6 tháng đầu năm có giảm so với cùng kỳ năm trước. Ước 6 tháng đầu năm toàn tỉnh có 556 doanh nghiệp được cấp đăng ký kinh doanh, bằng 99,6% so với cùng kỳ với tổng số vốn đăng ký 2.030 tỷ đồng, giảm 47,1% so với cùng kỳ.
2. Văn hoá - xã hội:
Mặc dù chịu tác động lớn của suy giảm kinh tế, song do có sự chủ động, nỗ lực của toàn tỉnh, nên các hoạt động văn hóa-xã hội đạt nhiều kết quả đáng ghi nhận, các chỉ tiêu xã hội cơ bản đạt kế hoạch đề ra. Cụ thể:
Về đảm bảo an sinh xã hội: Các chính sách an sinh xã hội do Trung ương ban hành đã được thực hiện tốt, đồng thời huy động nguồn lực của địa phương để tăng cường hỗ trợ với Trung ương, cụ thể: hỗ trợ người nghèo đón Tết Nguyên đán Kỷ Sửu (ngoài chính sách của Trung ương tỉnh đã hỗ trợ thêm từ nguồn ngân sách của địa phương số tiền là 20.282 triệu đồng cho các đối tượng chính sách xã hội và đối tượng cận nghèo, chưa kể nguồn hỗ trợ từ các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân). Tiếp tục rà soát hỗ trợ huyện nghèo và xã nghèo như: lập kế hoạch cải thiện nhà ở cho khoảng3.780 hộ nghèo (trong đó khoảng 2.250 nhà làm mới và 1.350 nhà cần sửa chữa) với tổng kinh phí thực hiện trong 2 năm (2009-2010) dự kiến trên 71,5 tỷ đồng (trong đó Trung ương hỗ trợ 26,460 tỷ đồng); hỗ trợ các xã nghèo khó khăn xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng (giao thông, thủy lợi, lớp học mầm non, mẫu giáo); hỗ trợ về dạy nghề ; hỗ trợ lãi suất vay; tạo điều kiện về cơ chế thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào vùng nghèo thông qua việc miễn thuế sử dụng đất hoặc tiền thuê đất; hỗ trợ kinh phí tuyển dụng, đào tạo lao động; hỗ trợ lãi suất cho vay..., để giảm bớt khó khăn cho người dân và thúc đẩy phát triển sản xuất.
Công tác giải quyết việc làm, đào tạo nghề và giảm nghèo được quan tâm, 6 tháng đầu năm ước giải quyết việc làm mới cho 10.600 lao động (kế hoạch năm là 2,6 vạn); tuyển sinh đào tạo nghề tăng 15,4%, tỷ lệ lao động qua đào tạo ước đạt 44%; giảm 800 hộ nghèo, đưa tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh từ 5,02% (cuối năm 2008) xuống còn 4,89%, giảm 0,13% (kế hoạch đề ra cuối năm 2009 từ 4,5-4,7%). Tình hình việc làm, thu nhập, đời sống của đại bộ phận nhân dân và người lao động trên địa bàn tỉnh giữ vững được ổn định; việc giãn hoặc giảm giờ làm việc của người lao động xảy ra ở một số doanh nghiệp nhưng số lượng không nhiều.
Chất lượng phổ cập giáo dục trung học cơ sở được giữ vững và nâng cao. Số học sinh các cấp bỏ học giảm 526 học sinh so với cùng kỳ. Kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông năm học 2008-2009 được tổ chức tốt, Quảng Ninh đứng đầu 15 tỉnh miền núi trung du phía Bắc, kết quả đỗ tốt nghiệp: hệ phổ thông là 13.646 thí sinh, đạt 90,97%, tăng 4,44%; hệ giáo dục thường xuyên là 1.470 thí sinh, đạt 72,12%, tăng 8,52% so với năm học trước; đã có 100% số Phòng Giáo dục và Đào tạo, trường THCS, THPT, Trung tâm hướng nghiệp và giáo dục thường xuyên được kết nối Internet băng thông tin rộng; 85,7% các trường mầm non và tiểu học đã có đường truyền Internet tốc độ cao. Chăm sóc sức khoẻ và nuôi dưỡng trẻ có chuyển biến, tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng trong các cơ sở giáo dục mầm non giảm từ 1-2% so với cùng kỳ. Công tác khám chữa bệnh được duy trì tốt, 6 tháng đầu năm 2009, số lần khám chữa bệnh tuyến tỉnh là 260.064 lượt, tăng 0,8%; tuyến huyện là 513.306 lượt, bằng 89% so với cùng kỳ. Trên địa bàn tỉnh không để phát sinh dịch bệnh lớn đặc biệt là dịch bệnh nguy hiểm (dịch tiêu chảy cấp, dịch cúm A – H1N1…).
Đời sống nhân dân được đảm bảo cả về vật chất và tinh thần, thông qua các dịp đón Tết Nguyên đán Kỷ Sửu tạo được sự vui tươi, phấn khởi trong xã hội. Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" đạt được kết quả thiết thực trong giáo dục cán bộ và nhân dân. Thể thao thành tích cao và phong trào thể dục thể thao quần chúng có nhiều tiến bộ. Đã tham gia 15 lượt giải thể thao thành tích cao đạt 46 huy chương (15 vàng, 12 bạc, 19 đồng). Triển khai công tác chuẩn bị cho Đại hội thể thao Châu Á trong nhà lần thứ 3 tại tỉnh. Vịnh Hạ Long đang dẫn đầu danh sách bình chọn là một trong 7 kỳ quan thiên nhiên thế giới.
Hoạt động khoa học công nghệ có chuyển biến tích cực; đã đảm bảo xác định cụ thể sớm các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ. Tích cực chỉ đạo các mặt quản lý nhà nước về chất lượng hàng hoá, sở hữu trí tuệ nhằm bảo vệ lợi ích người tiêu dùng và hội nhập kinh tế quốc tế; bố trí vốn và tổ chức triển khai nhanh nhiệm vụ, nên đã khắc phục tình trạng chậm triển khai và không sử dụng hết như trước đây. Trong 6 tháng đầu năm đã triển khai 38 nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ các cấp với tổng kinh phí 9,1 tỷ đồng; chuẩn bị 32 nhiệm vụ cấp tỉnh với kinh phí khoảng 10 tỷ đồng. Năm 2009, tỉnh đã bố trí đủ nguồn vốn 30 tỷ đồng chi đầu tư phát triển khoa học và công nghệ do Trung ương giao.
Cổng thông tin điện tử của tỉnh tiếp tục được hoàn thiện, nhằm chuyển tải, tiếp nhận kịp thời thông tin giữa chính quyền và doanh nghiệp, nhân dân. Tiếp tục đầu tư hạ tầng, thiết bị công nghệ thông tin; đầu tư mới và nâng cấp phần mềm phục vụ yêu cầu quản lý. Tích cực đào tạo cán bộ, công chức để tiếp cận sử dụng công nghệ thông tin nâng cao hiệu quả công tác.
3. Công tác cải cách hành chính, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo; phòng chống tham nhũng.
Cải cách hành chính đã được xác định là khâu đột phá nhằm đảm bảo phát triển sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi trong việc giải quyết công việc của Nhà nước với các tổ chức và công dân. Trọng tâm công tác cải cách hành chính 6 tháng qua là tiếp tục rà soát các thủ tục hành chính để sửa đổi Quyết định 3752/QĐ-UBND ngày 28/11/2006 về việc ban hành danh mục thủ tục hành chính thực hiện cơ chế "một cửa" tại các cơ quan hành chính nhà nước tỉnh Quảng Ninh; nghiên cứu sửa đổi, thay thế quyết định phân cấp quản lý tổ chức, biên chế và cán bộ, công chức, viên chức; tiếp tục kiện toàn cơ quan chuyên môn thực hiện Nghị định số 13/2008/NĐ-CP và 14/2008/NĐ-CP ngày 04/02/2008 của Chính phủ.
Công tác giải quyết khiếu nại tố cáo có bước chuyển biển tích cực, tạo sự thay đổi về chất. Nhiều vụ việc phức tạp tồn đọng nay đã được giải quyết dứt điểm; xử lý chính xác, thống nhất, nên một vụ việc không để tái diễn nhiều lần. Các cấp, các ngành đẩy mạnh công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại tố cáo, duy trì hoạt động của các đường dây nóng để tiếp nhận và giải quyết kịp thời các kiến nghị, đề xuất của người dân, giải quyết kịp thời ngay từ cấp cơ sở, không để phát sinh thành "điểm nóng" gây mất an ninh trật tự. Sáu tháng đầu năm 2009, các cơ quan hành chính nhà nước các cấp đã tiếp 3.039 lượt công dân, tăng 29,2% (3.039/2.352 lượt) so với cùng kỳ năm 2008, với 939 vụ việc khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh, giảm 17,3% (939/1.121 vụ) so với cùng kỳ năm 2008, trong đó có 99 lượt đoàn đông người, với 44 vụ việc. Riêng tại Trụ sở tiếp công dân của tỉnh đã tiếp 637 lượt công dân, với 132 vụ việc, trong đó có 46 lượt đoàn đông người, với 14 vụ việc. Nội dung khiếu nại chủ yếu liên quan đến đất đai, đền bù giải phóng mặt bằng (chiếm 72,8%). Tỉnh cùng các ngành chức năng đã giải quyết theo thẩm quyền được 105 vụ việc khiếu nại, đạt 74,4% (105/141) và 47 vụ việc tố cáo, đạt 70,1% (47/67), đã góp phần ổn định xã hội.
Thực hiện nghiêm Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và Luật phòng chống tham nhũng và đẩy mạnh thực hiện Chương trình hành động của Uỷ ban nhân dân tỉnh thực hiện Luật Phòng chống tham nhũng và Chương trình hành động về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Đã tiến hành 162 cuộc thanh tra kinh tế xã hội và chuyên ngành với 4.723 đối tượng. Qua thanh tra đã phát hiện sai phạm về kinh tế với tổng số tiền là 12.288.618.000 đồng và 12.968m2 đất, trong đó: kiến nghị xử lý thu hồi nộp ngân sách nhà nước với tổng số tiền là 11.460.522.000 đồng, giảm cấp phát vốn với tổng số tiền là 740.151.000 đồng, xử lý khắc phục hậu quả đối với 12.968m2 đất; xử phạt vi phạm hành chính 2.499 trường hợp, với tổng số tiền phạt là 2.346.244.000 đồng. Kết quả đã đôn đốc các đơn vị thực hiện quyết định sau thanh tra, kiểm tra đạt số tiền là: 4.530.589.000 đồng.
4. An ninh-quốc phòng, trật tự an toàn xã hội; hoạt động đối ngoại:
Tình hình trật tự an ninh trên tuyến biên giới, biển đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và tình hình nội bộ nhân dân cơ bản ổn định. Các lực lượng vũ trang duy trì nghiêm chế độ trực sẵn sàng chiến đấu ở cơ quan, đơn vị. Đã hoàn thành nhiệm vụ tuyển quân đợt I năm 2009, đảm bảo chỉ tiêu quân số và chất lượng. Thực hiện tốt kế hoạch huấn luyện, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh cho các đối tượng.
Công tác đấu tranh phòng chống các loại tội phạm có chuyển biến tích cực,toàn tỉnh không có băng nhóm tội phạm nguy hiểm kiểu xã hội đen và các tụ điểm phức tạp về hình sự, tệ nạn xã hội. Trong 6 tháng, đã xảy ra 402 vụ tội phạm về xâm phạm trật tự xã hội làm chết 19 người, tài sản thiệt hại trị giá khoảng 5 tỷ đồng; trong đó trọng án 94 vụ (tăng 03 vụ). Đã điều tra làm rõ 85,6 % số vụ, bắt 609 đối tượng, trong đó trọng án làm rõ 92,5% số vụ, bắt 194 đối tượng; số vụ tội phạm về ma tuý bắt giữ tăng 23,5% (221/179) và số đối tượng tăng 18,8% (285/240) so với cùng kỳ. Chất lượng hoạt động điều tra, bắt giữ, truy tố, xét xử và thi hành án được đảm bảo đúng thời hạn và quy định của pháp luật.
Đã tăng cường lực lượng, phương tiện triển khai mở các đợt cao điểm tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm an toàn giao thông, số vụ tai nạn giao thông đường bộ giảm trên cả 3 tiêu chí so với cùng kỳ: Giảm 33,7% số vụ (59/89), giảm 40,5% số người chết (66/111), giảm 41% số người bị thương (42/71);tai nạn lao động đã xảy ra 10 vụ, làm chết 10 người (riêng ngành than 6 vụ, làm chết 6 người); so với cùng kỳ 2008, giảm 3 vụ, số người chết giảm 4 người.
Tiếp tục chấn chỉnh các hoạt động khai thác, tiêu thụ than trái phép, đã kiểm tra, xoá bỏ 214 lượt điểm khai thác; đình chỉ 27 điểm tập kết, tiêu thụ, chế biến than trái phép; phát hiện xử lý 409 trường hợp vận chuyển than trái phép, thu giữ 31.261 tấn than, trị giá 11,5 tỷ đồng; khởi tố 12 vụ, 46 bị can phạm tội liên quan đến than.
Tăng cường các biện pháp quản lý vũ khí, vật liệu nổ, tính đến ngày 31/5/2009, đã thu được 1.370 khẩu súng, 301 nòng súng, 13.887 viên đạn, 45,1 kgthuốc nổ, 363 kíp mìn, 298 quả bom mìn, lựu đạn, đầu đạn, 54 công cụ hỗ trợ, 17.432 súng nhựa và 1.532 dao kiếm các loại, kết quả trên đã góp phần quan trọng trong phòng ngừa tôi phạm.
Tình hình buôn lậu và gian lận thương mại diễn biến phức tạp, nhưng các lực lượng chức năng đã triển khai nhiều biện pháp tích cực, chủ động, đồng bộ ngăn chặn, giữ vững và kiểm soát được tình hình, không có tụ điểm nóng về buôn lậu, đặc biệt là hoạt động biên mậu đã phối hợp các lực lượng giải quyết tích cực, đảm bảo ổn định khu vực biên giới. Đã kiểm tra, xử lý 3212 vụ với tổng số tiền phạt vi phạm hành chính và phát mại hàng hoá là 62 tỷ đồng, bằng 67,4% so với cùng kỳ.
Công tác phân giới cắm mốc trên đất liền đã hoàn tất, hai bên tiếp tục duy trì quản lý đường biên, mốc giới . Quan hệ hợp tác đối ngoại, xúc tiến đầu tư với nhiều quốc gia trên các lĩnh vực kinh tế, thương mại, du lịch..., tiếp tục được duy trì và phát triển, tập trung vào các tỉnh, thành phố của Trung Quốc trong khu vực hai hành lang 1 vành đai, Hồng Công, Ma Cao và các đối tác khác có tiềm năng như: Bêlarus, Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất...
Đánh giá chung:tình hình kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm mặc dù còn khó khăn, nhưng đã có chuyển biến theo hướng tích cực và rõ nét trong nhiều ngành và lĩnh vực: Tăng trưởng kinh tế GDP ước đạt 8,6% tuy chưa đạt tốc độ tăng của kế hoạch đề ra cả năm (10-11%), song là mức tăng trưởng cao so với mức bình quân chung của cả nước, trong bối cảnh kinh tế toàn cầu suy thoái, với mức tăng trưởng như trên cũng là kết quả bước đầu của sự cố gắng lớn toàn tỉnh; sản xuất nông nghiệp, thuỷ sản giữ được sự ổn định và có mức tăng trưởng khá (tăng 3,3%); dịch bệnh được kiểm soát; sản xuất công nghiệp có xu hướng tăng cao dần (quý I tăng 3,1%, 4 tháng tăng 9,6%; 5 tháng tăng 10,7%; dự kiến 6 tháng tăng 11,5%); Công tác đầu tư xây dựng cơ bản bằng ngân sách nhà nước có sự chuyển biến căn bản, đạt được kết quả tích cực, thông qua cơ chế phân bổ vốn đã khắc phục tình trạng nợ đọng kéo dài, đầu tư trọng tâm trọng điểm, tiến độ giải ngân xây dựng cơ bản được đẩy nhanh, toàn tỉnh quyết tâm hoàn thành kế hoạch giải ngân vốn ngay trong 6 tháng đầu năm; khu vực dịch vụ có mức tăng trưởng khá, tổng mức lưu chuyển hàng hoá ước tăng 13,96% so với cùng kỳ; Tổng thu ngân sách nhà nước tăng 20% (trong đó thu nội địa tăng 31%)… Chính trị xã hội ổn định, an ninh quốc phòng giữ vững; quan hệ đối ngoại được tăng cường; tai nạn giao thông, tai nạn lao động đều giảm so với cùng kỳ; việc làm của người lao động được quan tâm không có biến động phức tạp; công tác an sinh xã hội được các cấp, các ngành thường xuyên chăm lo, đã tạo điều kiện cho 800 hộ thoát nghèo, giảm tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh xuống còn 4,89% (giảm 0,13%) và nâng tỷ lệ dân nông thôn được dùng nước sạch lên 78% (tăng thêm 1,8%); công tác sắp xếp tổ chức bộ máy, cải cách hành chính được đặc biệt quan tâm…
Tuy nhiên, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh còn bộc lộ những hạn chế, tồn tại chủ yếu, đó là: Chất lượng tăng trưởng một số ngành và lĩnh vực chưa thực sự vững chắc, một số chỉ tiêu phát triển của các ngành sản xuất, kinh doanh tuy đã tăng dần trong tháng 4, tháng 5 nhưng vẫn đạt thấp hơn mục tiêu kế hoạch và thấp hơn so với cùng kỳ (như: Tổng kim ngạch xuất khẩu; khách du lịch quốc tế giảm...), cân đối ngân sách dự báo vẫn còn khó khăn; một số công trình đầu tư trọng điểm tiến độ triển khai còn chậm; tình trạng ngập úng khu dân cư chưa được giải quyết dứt điểm; cải cách hành chính tuy được quan tâm đẩy mạnh, song nhìn chung chưa đáp ứng được mong muốn; gian lận thương mại, hàng hoá nhập lậu qua biên giới vẫn diễn biến phức tạp...Tình hình 6 tháng cuối năm 2009 khả năng sẽ còn nhiều khó khăn, đòi hỏi phải có những giải pháp đồng bộ cùng với sự chỉ đạo tập trung quyết liệt của các cấp, các ngành, nhằm hoàn thành thắng lợi các chỉ tiêu kế hoạch đã được Hội đồng nhân dân tỉnh thông qua.
(Kết quả thực hiện các chỉ tiêu Kế hoạch năm 2009 có các Phụ lục đính kèm)
Đạt được những kết quả trên là do các nguyên nhân chủ yếu sau:
- Rút ra bài học kinh nghiệm của năm 2008, tỉnh đã chủ động nắm bắt, dự báo diễn biến tình hình kinh tế thế giới, khu vực và trong nước để chủ động đối phó với các tình huống do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu: kịp thời giải quyết các vướng mắc, khó khăn, hỗ trợ các dự án lớn về nhiệt điện, xi măng, cơ khí…; tích cực tổ chức các hoạt động huy động các nguồn lực phục vụ sự phát triển kinh tế - xã hội; chủ động chuẩn bị dự án, kế hoạch đón gói kích cầu của Chính phủ, đề ra các giải pháp tổ chức thực hiện hiệu quả.
- Chủ động nâng cao vị thế, tăng cường mối quan hệ với các bộ, ngành Trung ương nhờ đó đã tranh thủ được sự hỗ trợ, ủng hộ của Bộ Chính trị, Chính phủ, các bộ, ngành Trung ương về cơ chế, chính sách, nguồn lực và định hướng phát triển.
- Có sự đồng thuận, nỗ lực cố gắng của cả hệ thống chính trị, sự hưởng ứng của cộng đồng doanh nghiệp, nhân dân toàn tỉnh; sự thống nhất cao trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của cấp ủy, chính quyền từ tỉnh đến cơ sở.
- Sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt trong tổ chức thực hiện; đổi mới công tác thanh tra, kiểm tra; tăng cường nắm tình hình tại cơ sở để kịp thời đưa ra các biện pháp giải quyết các khó khăn, vướng mắc cho các địa phương, cộng đồng doanh nghiệp...
II. KIỂM ĐIỂM CÔNG TÁC CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH CỦA UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH:
Bám sát sự chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân tỉnh, sự chỉ đạo điêù hành của Uỷ ban nhân dân tỉnh đã bao quát đồng bộ, toàn diện các lĩnh vực công tác theo Luật định, tập trung vào những công tác chủ yếu sau:
1. Chủ động xây dựng, triển khai sớm kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội và chỉ đạo làm tốt công tác dự báo, kịp thời có các giải pháp ứng phó để thực hiện kế hoạch, ngăn chặn suy giảm kinh tế.
Căn cứ Quyết định số 1675/2008/QĐ-TTg ngày 19/11/2008 và Quyết định số 1676/2008/QĐ-TTg ngày 19/11/2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc giao chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2009 cho Quảng Ninh, ngay sau kỳ họp thứ 14 Hội đồng nhân dân tỉnh khóa XI, Uỷ ban nhân dân tỉnh đã sớm ban hành quyết định số 3898/QĐ-UBND ngày 15/12/2009 giao kế hoạch năm 2009 cho các ngành, địa phương và ngày 22/12/2008 đã tổ chức Hội nghị toàn tỉnh triển khai nhiệm vụ kế hoạch năm 2009. Trên cơ sở dự báo tình hình, bám sát chỉ đạo của Trung ương đã khẩn trương ban hành chương trình công tác số 4961/CTr-UBND ngày 31/12/2008 đề ra 7 nhóm giải pháp chính chỉ đạo điều hành để thực hiện kế hoạch kinh tế-xã hội và ngân sách nhà nước năm 2009, phù hợp với tình hình thực tiễn của tỉnh, qua đó phát huy được lợi thế, khắc phục những hạn chế, tồn tại từ những năm trước. Các nhóm giải pháp đó thực sự đã có vai trò quan trọng trong lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện nhiệm vụ kinh tế-xã hội của tỉnh.
Tập trung chỉ đạo đảm bảo thực hiện nghiêm túc, chủ động những giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội. Tập thể lãnh đạo tỉnh đã chủ động làm việc với Bộ chính trị, Thủ tướng, Phó Thủ tướng và các Bộ ngành Trung ương để tranh thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng và hỗ trợ kịp thời về nguồn lực cho địa phương thực hiện các nhiệm vụ cấp bách nhằm tháo gỡ khó khăn như hạ tầng giao thông, phát triển các khu kinh tế...; thành lập Tổ công tác triển khai các biện pháp kích cầu đầu tư và tiêu dùng của tỉnh nhằm kịp thời đề ra những giải pháp phù hợp để thực hiện chủ trương kích cầu đầu tư và tiêu dùng trên địa bàn tỉnh như: điều hành giá cả, kinh doanh thương mại, du lịch, đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm của địa phương, định hướng tiêu dùng...
Đặc biệt quan tâm biện pháp ứng phó thực hiện có hiệu quả công tác xây dựng cơ bản, chú trọng đẩy nhanh tiến độ giải ngân 6 tháng đầu năm, đẩy mạnh xây dựng cơ bản 6 tháng cuối năm. Qua đó, huy động các nguồn lực của Trung ương và các nguồn lực khác dành cho đầu tư phát triển, tận dụng được cơ hội giá cả vật liệu xuống thấp, tiêu thụ sản phẩm, vật liệu lợi thế tại địa phương như gạch, ngói, xi măng...
2. Tập trung chỉ đạo tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp để duy trì tăng trưởng và đảm bảo việc làm, ổn định đời sống cho người lao động.
Lãnh đạo Uỷ ban nhân dân tỉnh đã dành nhiều thời gian làm việc trực tiếp với các ngành, cơ quan, địa phương, doanh nghiệp, kiểm tra việc triển khai thực hiện kế hoạch, qua đó kịp thời có các biện pháp tháo gỡ khó khăn cho cơ quan, doanh nghiệp như: tập trung chỉ đạo quyết liệt công tác giải phóng mặt bằng, xử lý kịp thời triệt để các vướng mắc phát sinh ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh (dừng nổ mìn sản xuất đá, kéo điện để phục vụ sản xuất...) đã tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ đầu tư, doanh nghiệp đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án, nhất là các dự án trọng điểm quốc gia (điện, xi măng, cơ khí), góp phần quan trọng vào việc tăng trưởng GDP của tỉnh.
Chỉ đạo tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính về đất đai, xuất nhập khẩu, cấp phép đầu tư, đăng ký kinh doanh.. cho các doanh nghiệp, đặc biệt là phối hợp với ngành than tiếp tục duy trì tốt công tác lập lại trật tự trong sản xuất, vận chuyển, chế biến, tiêu thụ than và tạo điều kiện tháo gỡ khó khăn để đẩy mạnh sản xuất, xuất khẩu than, thống nhất quy chế xuất khẩu than qua Cảng Vạn gia để thực hiện kế hoạch xuất khẩu than, đóng góp quan trọng vào việc duy trì tốc độ tăng trưởng của tỉnh và duy trì việc làm, ổn định đời sống cho người lao động, nhất là hàng ngàn lao động ngành than.
Thực hiện đầy đủ, kịp thời các chính sách của Chính phủ về giãn nợ, miễn, giảm thuế, hỗ trợ lãi xuất, bảo lãnh tín dụng, tao điều kiện khắc phục khó khăn cho doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ.
3. Tăng cường quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực: quy hoạch, đầu tư, tài nguyên và môi trường; tích cực quản lý điều hành dự toán thu-chi ngân sách, giá cả thị trường
Công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch tiếp tục được chỉ đạo tích cực, nhằm đẩy nhanh tiến độ thực hiện các quy hoạch, nhất là quy hoạch các dự án trọng điểm; nhiều Đồ án quy hoạch có chất lượng (quy hoạch phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch xây dựng tổng thể, chi tiết, quy hoạch phát triển ngành, quy hoạch phát triển vật liệu xây dựng, quy hoạch xử lý chất thải rắn, chất thải lỏng...đã được lập và phê duyệt), nhằm đem lại diện mạo mới cho các đô thị trong tỉnh, góp phần định hướng và tạo hiệu quả cao cho các Dự án đầu tư.
Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc phân bổ vốn đầu tư, đảm bảo tập trung bố trí công trình hoàn thành và chuyển tiếp, hạn chế bố trí công trình mới. Đồng thời kiên quyết và kịp thời cắt giảm hoặc điều hoà vốn cho công trình, dự án khác đối với các đơn vị triển khai chậm hoặc không hoàn thành đủ thủ tục. Qua đó làm chuyển đổi cơ bản công tác quản lý nhà nước về đầu tư xây dựng cơ bản.
Tăng cường công tác quản lý đất đai, tiếp tục rà soát tiến độ thực hiện các dự án có sử dụng đất trên địa bàn tỉnh, kiên quyết thu hồi, xử lý các dự án đầu tư vi phạm pháp luật về đất đai, đầu tư, xây dựng, môi trường. Trong 6 tháng, tỉnh đã tiến hành giao đất cho 35 dự án với diện tích 911,6 ha, cho thuê đất 60 dự án bằng 6.871,44 ha; thu hồi đất của 12 dự án với diện tích 43,5 ha; cấp 104 giấy chứng nhận quyền sử dụngđất... Tiếp tục phối hợp tốt với ngành Than tập trung chấn chỉnh tình trạng khai thác, vận chuyển, tiêu thụ than trái phép trên địa bàn; đồng thời quan tâm làm tốt công tác quản lý các loại tài nguyên, khoáng sản khác, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm. Chỉ đạo các địa phương tăng cường kiểm tra, xử lý ô nhiễm môi trường, thoát nước đô thị ở các địa bàn trọng điểm, khu vực sản xuất than, quốc lộ 18A, trên các sông hồ, Vịnh Hạ Long...Nhìn chung, môi trường ở các địa bàn bức xúc trước đây đã có chuyển biến tích cực.
Ngay từ đầu năm, dự báo tình hình ngân sách có khó khăn, xuất hiện các yếu tố hụt thu do thực hiện các chính sách kích cầu, Ủy ban nhân dân tỉnh đã tập trung chỉ đạo một số biện pháp cơ bản trong điều hành thu chi ngân sách như: yêu cầu các địa phương giao dự toán thu tăng từ 5-7%, lưu ý phân bổ giao tăng thu, huy động và khai thác nguồn thu, nhất là từ tiền sử dụng đất, xử lý công nợ đọng dây dưa, kể cả sử dụng các chế tài cần thiết; tăng cường thanh kiểm tra tài chính ; chỉ đạo phân khai dự toán đảm bảo tiết kiệm chi tiêu, chống lãng phí, cắt giảm các khoản chi tiêu chưa bức thiết, giảm tối đa các hội nghị, tổ chức lễ hội, đi công tác nước ngoài không thực sự cần thiết, dành nguồn lực tối đa cho thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm, hạn chế tối đa mua sắm trang thiết bị trong 6 tháng đầu năm ; nắm bắt tình hình để chủ động có biện pháp ứng phó điều hành thu chi ngân sách. Bố trí đủ kinh phí thực hiện các chính sách an sinh xã hội đảm bảo công khai, minh bạch đúng đối tượng. Đồng thời tăng cường công tác quản lý giá theo nguyên tắc thị trường có lộ trình phù hợp với thực tiễn địa phương, nhằm đảm bảo quyền lợi kinh doanh của doanh nghiệp, phù hợp với đời sống của nhân dân, tao điều kiện cho cho các doanh nghiệp ổn định phát triển tiêu thu sản phảm do điều chỉnh giá. Với các biện pháp điều hành ngân sách đó thực sự đã góp phần quan trọng vào kết quả thu chi ngân sách của tỉnh.
4. Chăm lo phát triển lĩnh vực văn hoá-xã hội, tạo việc làm, xoá đói giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội.
Tiếp tục quan tâm chỉ đạo các lĩnh vực văn hoá, xã hội, khoa học, công nghệ, giáo dục, y tế , thể dục thể thao...; tăng cường công tác quản lý báo chí, xuất bản; đẩy mạnh việc thực hiện chính sách khuyến khích xã hội hóa trong lĩnh vực văn hoá-xã hội; Chỉ đạo thực hiện tốt cuộc vận động “nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục”; chuẩn bị tốt các điều kiện cho kỳ thi tốt nghiệp THPT. Chỉ đạo quyết liệt công tác bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, quản lý thị trường thuốc chữa bệnh; Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm, không để xảy ra vụ ngộ độc thực phẩm lớn; tăng cường công tác y tế dự phòng và nâng cao chất lượng khám chữa bệnh cho nhân dân; quan tâm hỗ trợ các đề tài khoa học công nghệ ứng dụng vào sản xuất, đời sống, tăng cường bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; đẩy mạnh thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm các vụ việc gây ô nhiễm, suy thoái môi trường; chỉ đạo tổ chức thành công lễ hội du lịch Hạ Long gắn với bình chọn Vịnh Hạ Long là kỳ quan thiên nhiên thế giới; quản lý tốt các lễ hội đầu xuân; tổ chức nhiều hoạt động văn hoá, vui chơi giải trí phong phú trong dịp Tết Nguyên đán Kỷ Sửu và những ngày kỷ niệm lớn của đất nước, của tỉnh, tạo được sự phấn khởi, đồng thuận trong nhân dân...
Cùng với việc quan tâm chỉ đạo phát triển kinh tế, Uỷ ban nhân dân tỉnh tích cực triển khai thực hiện các chính sách an sinh xã hội đã có của Chính phủ và thực hiện bổ sung chính sách của tỉnh để bảo đảm an sinh xã hội như trợ cấp tết, trợ cấp dầu, cải thiện nhà ở; hỗ trợ các xã nghèo khó khăn xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng; hỗ trợ về dạy nghề; hỗ trợ lãi suất vay vốn cho hộ nghèo; trợ cước, trợ giá..., kịp thời thăm hỏi, tặng quà, trợ cấp khó khăn cho các đối tượng chính sách và hộ nghèo chu đáo, tình nghĩa; Song song với đó là các biện pháp chỉ đạo điều hành kích thích phát triển kinh tế đã được áp dụng, nên hầu hết doanh nghiệp trên địa bàn đảm bảo được sản xuất kinh doanh, ổn định việc làm cho người lao động.
Tập trung chỉ đạo để bảo đảm đủ giống, phân bón, nước sản xuất; chuyển đổi cơ cấu cây trồng phù hợp để các hộ dân sử dụng hết diện tích trồng trọt; tích cực chỉ đạo phòng trừ dịch bệnh cây trồng; tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ hàng hoá, giống lúa, giống cây trồng...để giúp nông dân khôi phục sản xuất, phát triển đàn gia súc, gia cầm đi đôi với phòng chống, kiểm soát dịch bệnh; tổ chức đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để phát triển sản xuất và đẩy mạnh xuất khẩu thủy sản; thực hiện tốt chính sách khuyến nông, khuyến ngư. Chủ động kế hoạch đối phó nhằm hạn chế thấp nhất thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh gây ra. Sự điều hành tích cực, kịp thời của Uỷ ban nhân dân tỉnh góp phần cho sản xuất nông lâm ngư nghiệp 6 tháng đầu năm tăng trưởng ổn định và đảm bảo đời sống người nông dân.
5. Quan tâm chỉ đạo quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; triển khai tốt hoạt động đối ngoại và hợp tác kinh tế quốc tế; cải tiến phương pháp chỉ đạo điều hành, lề lối làm việc tạo chuyển biến trong cải cách hành chính.
Quan tâm xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, gắn chặt với thế trận an ninh nhân dân, hỗ trợ kinh phí, đảm bảo an ninh quốc phòng. Công tác phòng chống tội phạm và các tệ nạn xã hội được tăng cường chỉ đạo. Khẩn trương điều tra làm rõ, kịp thời bắt giữ hung thủ trong một số vụ án giết người, được dư luận đồng tình. Tăng cường lực lượng, đầu tư xử lý một số điểm nóng về giao thông đô thị..., nên số vụ tai nạn, số người chết và số người bị thương do tai nạn giao thông đã giảm nhiều so với năm 2008. Việc giải quyết các khiếu kiện của nhân dân được chú trọng, nhiều vụ việc khiếu kiện kéo dài được Uỷ ban nhân dân tỉnh tập trung đối thoại, giải quyết dứt điểm.
Do chủ động trước diễn biến phức tạp của tình hình buôn lậu và gian lận thương mại trên địa bàn, Uỷ ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo triển khai những giải pháp kịp thời, đúng đắn, tập trung vào các địa bàn trọng điểm, kể cả đường bộ, đường biển, nhất là ngăn chặn buôn lậu qua biên giới.
Công tác phòng chống tham nhũng được tập trung chỉ đạo; kiện toàn bộ máy, đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao chất lượng hoạt động của bộ phân chuyên trách và các lực lượng phòng chống tham nhũng. Công tác thanh tra, kiểm tra được tăng cường tập trung vào lĩnh vực trọng yếu, kiên quyết xử lý thu hồi tài sản thiệt hại. Công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí được quan tâm chỉ đạo ngay từ trong việc quản lý và sử dụng ngân sách và được các ngành, các cấp, các doanh nghiệp và nhân dân hưởng ứng tích cực. Chỉ đạo thực hiện nghiêm túc chủ trương tiết kiệm thêm 10% chi thường xuyên, đã tiết kiệm được cho ngân sách, góp phần bổ sung cho việc thực hiện các nhiệm vụ khác.
Chỉ đạo chủ động triển khai các hoạt động đối ngoại, xây dựng và cụ thể hóa các chương trình hoạt động, xác định trọng tâm, trọng điểm trong quan hệ với các đối tác. Thực hiện các hoạt động xúc tiến đầu tư vào các thị trường trong nước và nước ngoài, bên cạnh các thị trường truyền thống như: Trung Quốc, Bêlarus, Hàn Quốc, Mỹ…tiếp tục mở rộng quan hệ các thị trường mới có tiềm năng như Hồng Công, Ma Cao, Các tiểu vương quốc Ả rập thống nhất...với phương châm ngày càng đi vào chiều sâu, chú trọng hiệu quả, thiết thực.
Duy trì nguyên tắc tập trung dân chủ, thống nhất trong chỉ đạo điều hành theo hướng phân công rõ trách nhiệm nhưng không phân lập và không khép kín. Hàng tuần, thường trực Uỷ ban nhân dân tỉnh và Ban cán sự Đảng Uỷ ban nhân dân tỉnh định kỳ kiểm điểm công tác chỉ đạo, điều hành và bàn bạc các nội dung quan trọng cần thống nhất tập thể, xác định nội dung quan trọng xin ý kiến Thường trực Tỉnh ủy, Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh. Thường xuyên chấn chỉnh các ngành, địa phương trong việc thực hiện quy chế làm việc của Uỷ ban nhân dân tỉnh theo hướng cải tiến lề lối làm việc, giảm bớt thủ tục hành chính rườm rà và phát huy vai trò, trách nhiệm của Thủ trưởng các cơ quan chuyên môn trong việc tham mưu, đề xuất, tránh đề xuất chung chung; tiếp tục chỉ đạo thực hiện Chương trình hành động của tỉnh về đẩy mạnh cải cách hành chính; thực hiện việc thống kê, rà soát thủ tục hành chính theo Đề án đơn giản hóa thủ tục hành chính giai đoạn 2007–2010; ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin trong công tác chỉ đạo điều hành, thông qua việc hạn chế hội họp, tích cực họp qua hệ thống truyền hình trực tuyến để tiết kiệm chi phí; xử lý, điều hành công việc bằng công nghệ thông tin và sử dụng thư điện tử; phát huy vai trò của Cổng thông tin điện tử của tỉnh..., bước đầu cũng đã có hiệu quả rõ rệt...
Trong chỉ đạo điều hành Uỷ ban nhân dân tỉnh cũng luôn quan tâm duy trì tốt mối quan hệ chặt chẽ với Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể tỉnh theo quy chế phối hợp trong việc triển khai các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước đến người dân, nhất là việc chỉ đạo triển khai thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, các cuộc vận động lớn, các phong trào thi đua lao động sản xuất, công tác đền bù, giải phóng mặt bằng..., tạo được sự đồng thuận cao trong cán bộ và nhân dân.
Bên cạnh những ưu điểm, tiến bộ nêu trên, trong chỉ đạo điều hành của Uỷ ban nhân dân tỉnh cũng còn một số tồn tại:
1. Việc chấp hành sự chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân tỉnh ở một số ngành, địa phương, lĩnh vực chưa đầy đủ và nghiêm túc: Chế độ thông tin báo cáo, dự báo tình hình, tham mưu, đề xuất giải pháp phục vụ sự chỉ đạo, điều hành của Uỷ ban nhân dân tỉnh của một số ngành, địa phương vẫn chậm, chưa chủ động, chất lượng còn hạn chế; thẩm định, đề xuất đôi khi còn chung chung; sự phối hợp giữa một số ngành trong giải quyết công việc chưa chặt chẽ. Một số ngành, địa phương triển khai thực hiện chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân tỉnh còn chậm, phải đôn đốc, nhắc nhở, có đơn vị phải phê bình, rút kinh nghiệm.
2. Công tác quản lý Nhà nước về quy hoạch, đất đai, tài nguyên-môi trường, quản lý đô thị...trên một số mặt còn tồn tại: việc quản lý sử dụng tài nguyên đất đai ở một số địa bàn chưa hiệu quả, một số dự án chậm triển khai; vẫn còn để xảy ra tình trạng khai thác than trái phép ở một số nơi; bảo vệ môi trường, thoát nước đô thị, vệ sinh an toàn thực phẩm, dịch bệnh tuy đã được quan tâm nhưng vẫn còn nhiều bất cập chưa khắc phục kịp thời…
3. Công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo tuy đã có nhiều cố gắng nhưng tình hình khiếu nại, tố cáo vẫn còn nhiều phức tạp, số vụ khiếu kiện chưa được giải quyết còn nhiều do trách nhiệm và sự phối hợp của Thủ trưởng một số ngành, địa phương trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân từ cấp cơ sở chưa cao.
4. Công tác tổ chức và quản lý giao thông, quản lý đô thị, an toàn lao động còn hạn chế, dẫn đến số vụ tai nạn giao thông, tai nạn lao động còn xảy ra nhiều. Công tác cải cách hành chính đã có nhiều chuyển biến tích cực song chưa đáp ứng được yêu cầu trong tình hình mới...
III. DỰ BÁO KHẢ NĂNG THỰC HIỆN KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2009
Với các dự báo về kinh tế thế giới gần đây và kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm 2009, kinh tế trong nước và tỉnh ta trong năm 2009 không bị rơi vào khủng hoảng và suy thoái như các quốc gia khác và bắt đầu có dấu hiệu chuyển biến theo chiều hướng tích cực. Trên cơ sở đó và với việc thực hiện các chính sách hỗ trợ, kích cầu đang triển khai thực hiện, dự báo tình hình kinh tế - xã hội năm 2009 của tỉnh như sau:
(1) Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) năm 2009: Dự báo tăng trưởng kinh tế trong quý III, quý IV sẽ tăng cao hơn 6 tháng đầu năm. Trên từng lĩnh vực, tính theo giá so sánh dự báo năm 2009 khu vực nông, lâm, ngư nghiệp tăng khoảng 3,5%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng khoảng 12,2%; khu vực dịch vụ tăng khoảng 9,2%. Trên cơ sở đó, dự báo tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) năm 2009 toàn tỉnh tăng khoảng 10,4% (đạt kế hoạch đề ra tăng từ 10-11%). Ngoài ra, nếu kinh tế thế giới phục hồi nhanh hơn so với dự báo hiện nay, các ngành chủ lực như: Than, điện, xi măng,... có dấu hiệu khả quan hơn có thể phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng GDP trên 10,4%.
(2) Về sản xuất công nghiệp và xây dựng: khó khăn lớn nhất trong sản xuất công nghiệp là thị trường tiêu thụ bị thu hẹp cả ở trong nước và xuất khẩu. Dự báo tốc độ tăng trưởng ngành công nghiệp các tháng cuối năm sẽ tăng cao hơn các tháng đầu năm nhờ tác động tích cực của các biện pháp hỗ trợ sản xuất và kích thích tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Ngành than tăng sản lượng tiêu thụ than lên trên 42 triệu tấn, khả năng tiêu thụ các sản phẩm chủ yếu như: điện, xi măng, thuỷ sản, quần áo may sẵn, gạch, ngói... đều tăng. Trên cơ sở tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp (giá cố định 1994) 6 tháng đầu ước tăng 11,3%, dự kiến cả năm 2009 tăng 13,7% so với năm 2008, theo đó giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp (giá so sánh) có thể đạt khoảng 8,3%.
Riêng ngành xây dựng có triển vọng thuận lợi hơn, cùng với các động thái giảm giá vật liệu xây dựng, Chính phủ đang xem xét bổ sung thêm các nguồn vốn thực hiện các dự án đầu tư, dự báo GTTT ngành xây dựng (giá so sánh) cả năm tăng khoảng 78,9%.
Tính chung lại, giá trị tăng thêm ngành công nghiệp và xây dựng (giá so sánh) năm 2009 dự báo tăng khoảng 12,2% (kế hoạch là 10,01%)
(3) Sản xuất nông, lâm, ngưnghiệp: Năm 2009, vụ Đông xuân có thuận lợi hơn do thời tiết tốt, đủ nước tưới. Thời tiết thuận lợi nên đánh bắt và nuôi trồng thủy sản 6 tháng đầu năm 2009 tăng trưởng khá, sản lượng thuỷ sản tăng 19,4% cùng kỳ (đánh bắt tăng 9,8%; nuôi trồng tăng 48,1%); chăn nuôi có dấu hiệu phục hồi. Giá cả và nhu cầu tiêu thụ lương thực, nông sản lại đang có xu hướng tăng lên, đồng thời giá phân bón vật tư nông nghiệp giảm sẽ là những yếu tố thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp. Với tình hình trên, dự báo giá trị tăng thêm năm 2009 ngành nông, lâm, thủy sản có thể tăng khoảng 3,5% (cao hơn kế hoạch đề ra là 2,8%)
(4) Khu vực dịch vụ:Chịu tác động ảnh hưởng trực tiếp của suy thoái kinh tế thế giới. Nhiều hộ kinh doanh buôn bán nhỏ tạm dừng hoạt động, sức mua giảm. Căn cứ kết quả thực hiện 6 tháng đầu năm và triển vọng các tháng tiếp theo với kết quả thực hiện các chính sách kích cầu, trong các tháng tới khu vực dịch vụ vẫn tiếp tục phát triển, trong đó doanh thu (giá hiện hành) một số ngành dự kiến: Du lịch tăng 5%, vận tải tăng 30%, ngân hàng tăng 20%, viễn thông tăng 25%, khu vực hành chính sự nghiệp tăng 10%; tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ xã hội tăng 15%... song mức tăng trưởng chung của khu vực dịch vụ (giá so sánh) dự báo chỉ đạt khoảng 10,1% so với cùng kỳ (chưa đạt kế hoạch đề ra 12% giá so sánh và 18% giá hiện hành).
(5) Về xuất khẩu: Do chịu ảnh hưởng do thị trường thế giới suy giảm, trong những tháng tới xuất khẩu sẽ tiếp tục gặp khó khăn. Các đơn hàng như:đóng tàu, thủy sản, tùng hương, cao su, quần áo, giày dép,… đều có yếu tố giảm cả về lượng và giá so với cùng kỳ năm 2008, nhưng đối với mặt hàng có kim ngạch lớn và có lợi thế như: than, cao su sơ chế… giá xuất khẩu có xu hướng tăng, đặc biệt giá than dự báo sẽ tăng đạt mức bình quân 60 USD/tấn (theo xu hướng tăng giá dầu trên thế giới), đồng thời làm tốt công tác xuất khẩu than qua cảng Vạn Gia (khả năng năm 2009 sẽ xuất trên 3 triệu tấn).
Tổng hợp các yếu tố trên và kết quả xuất khẩu trong 6 tháng đầu năm, dự báo tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu năm 2009 đạt khoảng 9,8% so với năm 2008 (chưa đạt kế hoạch đề ra 15%).
(6) Về thu ngân sách nhà nước:Ngay sau khi giao dự toán ngân sách địa phương đã xuất hiện các yếu tố làm giảm thu ngân sách do thực hiện Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP ngày 11/12/2008 của Chính phủ về những giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội (khi tính toán giao dự toán năm 2009 chưa tính toán yếu tố này)… làm giảm thu ngân sách trên địa bàn dự kiến 600 tỷ đồng. Tuy nhiên cũng xuất hiện các yếu tố làm tăng thu so với dự toán được giao khoảng 730 tỷ đồng, gồm tăng thu từ Tập đoàn TKV 300 tỷ đồng do việc điều chỉnh tăng thuế suất thuế tài nguyên từ 2% lên 6%, thuế thu nhập doanh nghiệp từ năm trước chuyển sang… và tăng thu thuế từ nhà thầu nước ngoài, từ XDCB và các dự án xi măng, nhiệt điện đi vào sản xuất, tiền đất... Với việc thực hiện các biện pháp phấn đấu tăng thu NSNN, tăng cường công tác quản lý thu NSNN. Dự kiến tổng thu NSNN năm 2009 đạt 14.005 tỷ đồng, tăng 1,1% so với dự toán HĐND tỉnh giao (trong đó: Thu nội địa phần cân đối ngân sách 4.305 tỷ đồng, tăng 3,5%; thu Hải quan và các nguồn thu để lại đạt 100% dự toán)
(7) Về đầu tư phát triển: Tình hình suy giảm kinh tế, những khó khăn trong sản xuất kinh doanh, hiệu quả đầu tư kinh doanh giảm sút ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động đầu tư phát triển. Xu hướng giảm đầu tư ở tất cả các khu vực, các thành phần kinh tế trong và ngoài nước. Để thực hiện các mục tiêu kích cầu đầu tư, ngăn chặn suy giảm kinh tế, cần thực hiện nhiều giải pháp chính sách để huy động các nguồn vốn, bao gồm việc ứng trước kế hoạch đầu tư NSNN của các năm sau, bổ sung tăng thêm nguồn vốn Trái phiếu Chính phủ, vốn tín dụng đầu tư, tín dụng xuất khẩu... Với các giải pháp huy động vốn bổ sung nêu trên, dự kiến tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trên địa bàn năm 2009 có khả năng đạt 35.022 tỷ đồng, đạt 90,8% kế hoạch điều chỉnh, tăng 15% cùng kỳ, đạt kế hoạch đề ra là tăng 15%.
(8) Về chỉ số giá cả: Hiện nay kinh tế thế giới đang trong tình trạng suy thoái sâu và giá cả biến động ở mức thấp. Trên địa bàn tỉnh, chỉ số giá tiêu dùng đến tháng 6 chỉ tăng 6,53%, thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng cùng kỳ năm trước là 26,37%. Tuy nhiên, với việc thực hiện các chính sách kích cầu đầu tư và tiêu dùng sau khi Chính phủ đã chi ra các khoản tài chính để kích thích nền kinh tế,... có thể ảnh hưởng đến giá cả trên địa bàn tỉnh. Dự báo chỉ số giá tiêu dùng năm 2009 có thể tăng 10 - 12%, thấp hơn kế hoạch đề ra là khoảng 16%.
(9) Về giải quyết việc làm.Trong bối cảnh chung của suy thoái kinh tế, các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh cũng gặp nhiều khó khăn trong giải quyết việc làm, số lao động phải nghỉ việc tại các doanh nghiệp ở Quảng Ninh khoảng 1.532 lao động (nhiều nhất là khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh 1.449 lao động), sau khi Nhà nước triển khai các biện pháp kích cầu, hỗ trợ lãi suất, các doanh nghiệp đã chủ động tiếp cận đơn hàng, thay đổi chiến lược kinh doanh. Đến nay, các doanh nghiệp đã gọi lao động quay trở lại làm việc nên số lao động mất việc, thiếu việc chỉ còn 967 lao động. Việc xuất khẩu lao động cũng rất khó khăn (6 tháng mới xuất khẩu được 82 lao động, thấp hơn nhiều so với kế hoạch đề ra là 1.500 lao động). Hiện nay nhu cầu tuyển dụng lao động đang có xu hướng tăng lên, dự kiến chỉ tiêu về giải quyết việc làm mới năm 2009 đạt kế hoạch đề ra.
Phần thứ hai
NHIỆM VỤ VÀ CÁC GIẢI PHÁP TRỌNG TÂM 6 THÁNG CUỐI NĂM 2009
Những diễn biến của kinh tế thế giới, trong nước và trên địa bàn tỉnh trong 6 tháng đầu năm trên đây cho thấy có nhiều yếu tố tác động không thuận lợi đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, theo dự báo tình hình như trên, Uỷ ban nhân dân tỉnh đề nghị Hội đồng nhân dân tỉnh không điều chỉnh các chỉ tiêu Hội đồng nhân dân tỉnh đã giao. Để thực hiện được các mục tiêu và chỉ tiêu phát triển năm 2009 phải có sự nỗ lực rất lớn của các ngành, các cấp. Mục tiêu, nhiệm vụ trọng tâm từ nay đến cuối năm là:“Tập trung cao độ mọi nỗ lực ngăn chặn suy giảm kinh tế, phấn đấu duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững, quyết tâm hoàn thành chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế GDP đã đề ra (10-11%); chủ động phòng ngừa lạm phát, bảo đảm an sinh xã hội, quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội; trong đó mục tiêu hàng đầu là ngăn chặn suy giảm kinh tế”.
Để đảm bảo thực hiện các mục tiêu nêu trên, cần tiếp tục thực hiện đồng bộ các giải pháp đã đề ra trong Báo cáo kế hoạch trình Hội đồng nhân dân tỉnh khoá XI, Kỳ họp thứ 14 và được Hội đồng nhân dân tỉnh thông qua bằng Nghị quyết số 26/2008/NQ-HĐND ngày 12/12/2008, đồng thời tập trung thực hiện các nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu sau:
1. Quán triệt sâu sắc và tổ chức thực hiện tốt các nội dung chỉ đạo của Trung ương, của tỉnh trong bối cảnh mới.
Triển khai thực hiện tốt nội dung Kết luận chỉ đạo của Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ trong các buổi làm việc với lãnh đạo tỉnh và ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng thường trực Nguyễn Sinh Hùng về các nội dung thực hiện kết luận của Bộ Chính trị. Tiếp tục tổ chức thực hiện tốt Nghị quyết số 01/2009/NQ-CP ngày 09/01/2009 về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch kinh tế-xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước năm 2009 và Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP ngày 11/12/2008 của Chính phủ về những giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm, duy trì tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội với 5 nhóm giảm pháp chủ yếu: (1) Thúc đẩy sản xuất, kinh doanh và xuất khẩu; (2) Thực hiện các biện pháp kích cầu đầu tư và tiêu dùng; (3) Chính sách tài chính và tiền tệ; (4) Bảo đảm an sinh xã hội; (5) Tăng cường công tác điều hành, tổ chức thực hiện chính sách.
Đối với các cấp, các ngành trong tỉnh cần tiếp tục thực hiện tốt 7 nội dung đã đề ra trong Chương trình công tác (số 4961/CTr-UBND) của UBND tỉnh năm 2009 là: (1) Tập trung làm tốt công tác dự báo; chỉ đạo, điều hành linh hoạt; chủ động ngăn chặn suy giảm kinh tế. (2) Tập trung chỉ đạo tháo gỡ các khó khăn vướng mắc, huy động mọi nguồn lực để duy trì tăng trưởng, thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh. (3) Nâng cao hiệu quả công tác quy hoạch, đầu tư phát triển, tích cực quản lý điều hành dự toán thu - chi ngân sách, giá cả thị trường. (4) Tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. (5) Chăm lo phát triển lĩnh vực văn hoá - xã hội, giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội. (6) Nâng cao hiệu quả bộ máy chính quyền các cấp, đẩy mạnh công tác cải cách hành chính; tích cực phòngchống tham nhũng, lãng phí. (7) Tăng cường công tác đối ngoại, củng cốquốc phòng, an ninh, đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
2. Tập trung chỉ đạo tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và xuất khẩu
Đối với sản xuất nông nghiệp: Cần chỉ đạo sát sao, bảo đảm đủ nước tưới, phân bón, thuốc trừ sâu; không để dịch bệnh lây lan cả đối với cây trồng và vật nuôi. Chuẩn bị tốt các điều kiện cho sản xuất vụ Mùa và vụ Đông 2009. Tăng cường theo dõi, kiểm tra, phát hiện kịp thời, chủ động khoanh vùng, ngăn chặn, xử lý, dập tắt các ổ dịch bệnh đối với cây trồng, vật nuôi, không để dịch bệnh lan rộng, tái phát tạo môi trường an toàn, thuận lợi cho nông nghiệp phát triển. Đẩy nhanh tiến độ trồng rừng đi đôi với chăm sóc, bảo vệ rừng. Triển khai việc tu bổ các công trình hồ chứa, đê điều, công trình thủy lợi nhằm chủ động đối phó với thiên tai trong mùa bão, lũ sắp tới để đảm bảo an toàn lao động cho sản xuất và đời sống. Phát triển ngành Thuỷ sản theo hướng tăng trưởng nhanh và bền vững. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng các cảng cá, khu neo đậu tránh trú bão; khuyến khích đầu tư chế biến và xuất khẩu thuỷ sản, gắn với phát triển nuôi trồng thuỷ sản.
Về sản xuất công nghiệp và xây dựng: Tiếp tục rà soát, đơn giản hóa các thủ tục có liên quan đến đầu tư và hoạt động sản xuất kinh doanh. Tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong việc giải phóng mặt bằng, tiếp cận các nguồn vốn tín dụng, thủ tục nộp thuế. Kịp thời nắm bắt, tháo gỡ khó khăn và phối hợp các Bộ ngành liên quan để sớm đưa vào sản xuất các nhà máy nhiệt điện, xi măng ở Hạ Long, Hoành Bồ, Cẩm Phả đúng tiến độ đề ra. Đẩy mạnh phát triển các ngành công nghiệp chủ lực của tỉnh như: Than, điện, đóng tàu, vật liệu xây dựng,… với mức tăng trưởng cao trên cơ sở nâng cao chất lượng và hiệu quả sản phẩm. Tiếp tục thực hiện tốt Chỉ thị số 11-CT/TU ngày 09/4/2008 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác quản lý các hoạt động khai thác, vận chuyển, chế biến và tiêu thụ than trên địa bàn tỉnh, đảm bảo cho sản xuất kinh doanh than phát triển. Hoàn thành bàn giao lưới điện hạ thế nông thôn trong năm 2009 cho ngành điện quản lý theo đúng kế hoạch đã đề ra.
Phát triển các ngành dịch vụ: Tiếp tục tổ chức thực hiện tốt Nghị quyết số 21-NQ/TU của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về phát triển các ngành dịch vụ đến năm 2010, định hướng đến 2015. Tạo mọi điều kiện thuận lợi để các ngành dịch vụ phát triển nhanh, có chất lượng cao, phấn đấu tốc độ tăng trưởng dịch vụ đạt và vượt kế hoạch đề ra, chú trọng các lĩnh vực có lợi thế là thương mại, du lịch, dịch vụ cảng biển, vận tải, viễn thông, ngân hàng, bảo hiểm,... đi đôi với tăng cường công tác quản lý nhà nước về hoạt động dịch vụ; trong đó cần làm tốt công tác biên mậu, tìm mọi biện pháp để tăng kim ngạch xuất khẩu, nhất là xuất khẩu than, tổ chức tốt việc xuất khẩu than qua cảng Vạn Gia. Tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại, đẩy mạnh các biện pháp chống buôn lậu, gian lận thương mại để bảo vệ sản xuất trong nước.
3. Thực hiện các biện pháp kích cầu đầu tư và tiêu dùng
Đi đôi với việc thực hiện các biện pháp chính sách tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích các nhà đầu tư trong và ngoài nước bỏ vốn đầu tư kinh doanh, cần phải thực hiện một số giải pháp cụ thể sau:
- Thực hiện có hiệu quả các gói kích cầu đầu tư và tiêu dùng: Tập trung làm tốt công tác thu hút các nguồn lực đầu tư phát triển, tranh thủ các nguồn vốn Trung ương để bổ sung kế hoạch vốn đầu tư xây dựng cơ bản cho tỉnh và các địa phương 6 tháng cuối năm. Tiếp tục thực hiện các biện pháp đẩy nhanh tiến độ giải ngân các nguồn vốnNSNN, trái phiếu Chính phủ, vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), vốn tín dụng đầu tư, vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước, nhất là đối với các công trình dự án quy mô lớn, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và các dự án đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển nông nghiệp, nông thôn. Nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước, triệt để thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, cắt giảm các nhiệm vụ chi chưa cần thiết, nhất là trong việc hội họp, đi nước ngoài, tổ chức lễ hội, mua sắm,…
- Tranh thủ tối đa sự ủng hộ của các Bộ ngành Trung ương để thực hiện có hiệu quả các nội dung Kết luận của Bộ Chính trị, Thủ tướng và Phó Thủ tướng Chính phủ trong các buổi làm việc với lãnh đạo tỉnh Quảng Ninh. Bên cạnh việc tổ chức thực hiện tốt kế hoạch bổ sung vốn đầu tư 6 tháng cuối năm, cần thắt chặt quản lý đầu tư xây dựng. Các Sở ngành và địa phương khẩn trương xử lý những vướng mắc về thủ tục đầu tư, tiếp tục làm tốt công tác giải phóng mặt bằng; tăng cường trách nhiệm của chủ đầu tư, của người quyết định đầu tư và phát huy vai trò giám sát cộng đồng trong việc bảo đảm tiến độ và chất lượng các công trình, dự án.
4. Tích cực cải thiện môi trường đầu tư, đẩy mạnh thực hiện các dự án trọng điểm.
Tiếp tục thực hiện các biện pháp tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế dân doanh và thu hút vốn đầu tư ngoài ngân sách. Tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc liên quan đến các thủ tục hành chính về đầu tư, xin địa điểm, giao đất, thuê đất cho các tổ chức, nhà đầu tư. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, bố trí cán bộ, công chức có đủ năng lực ở các lĩnh vực trực tiếp giải quyết công việc liên quan đến người dân và doanh nghiệp; cải thiện năng lực cạnh tranh cấp tỉnh bằng các giải pháp đồng bộ với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị.
Thực hiện tốt công tác quy hoạch đất đai, trên cơ sở quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được cấp có thẩm quyền phê duyệt, chủ động giải phóng mặt bằng, đầu tư hạ tầng, đấu giá công khai quỹ đất để tạo nguồn đầu tư phát triển đô thị, cơ sở hạ tầng; phát triển quỹ đất “sạch” để thu hút đầu tư.
Tăng cường quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư, nhất là các nguồn vốn đầu tư từ ngân sách, đẩy nhanh tiến độ thực hiện, thi công các công trình trọng điểm đã xác định; đặc biệt quan tâm đầu tư khắc phục tình trạng quá tải trong các bệnh viện, trường học và các công trình an sinh xã hội (nhà ở cho công nhân, ký túc xá cho học sinh, sinh viên...).
5.Về chính sách tài chính tín dụng, điều hành ngân sách:
Tiếp tục tổ chức thực hiện tốt các chính sách giãn, miễn, giảm thuế theo Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP của Chính phủ. Thực hiện tốt các chính sách miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng. Đồng thời phấn đấu thu đạt và vượt dự toán ngân sách đã được Hội đồng nhân dân tỉnh thông qua tăng tối thiểu 3,5% so với dự toán và thực hiện chi ngân sách đúng mục đích, tiết kiệm và hiệu quả.
Chủ động dự báo sát thực về khả năng thu ngân sách hàng tháng, hàng quý để điều hành ngân sách đảm bảo phù hợp với khả năng cân đối các nguồn thu.Tăng cường các biện pháp quản lý thu, chống thất thu, nợ động thuế; chống gian lận thương mại, trốn thuế; quản lý tốt nguồn dự phòng, tăng dự phòng để chi khắc phục thiên tai, an sinh xã hội. Thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí trong sử dụng ngân sách nhà nước; các đơn vị phải chủ động sử dụng dự toán đã được giao để thực hiện các nhiệm vụ, điều chỉnh nhiệm vụ chi phù hợp, không bổ sung chi ngân sách ngoài dự toán. Nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách, kịp thời chi hỗ trợ trực tiếp cho các đối tượng được hưởng chính sách an sinh xã hội, nhằm giảm bớt khó khăn do tác động của suy giảm kinh tế, giá cả gia tăng theo các chính sách của Trung ương và của tỉnh…
Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc, phương án phân bổ nguồn vốn bổ sung kế hoạch xây dựng cơ bản năm 2009 (dự kiến 600 tỷ đồng gồm: 300 tỷ đồng vay từ nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của Kho bạc Nhà nước, 100 tỷ đồng nguồn 2008 chuyển sang và dự kiến năm 2009 tỉnh sẽ phấn đấu tăng thu khoảng 200 tỷ đồng. Trong đó, 100 tỷ đồng đãphân bổ cho một số dự án cấp thiết ngay trong 6 tháng đầu năm 2009, còn lại 500 tỷ đồng bổ sung vào kế hoạch 6 tháng cuối năm). Cụ thể như sau:
- Về nguyên tắc thực hiện kích cầu của địa phương, chỉ bố trí cho các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, an sinh xã hội, văn hoá, giáo dục, y tế...; đã có đủ các thủ tục đầu tư theo quy định Nhà nước; bố trí vốn tập trung, tránh dàn trải, bảo đảm tiến độ cấp vốn theo quy định; đảm sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư của ngân sách nhà nước, tạo điều kiện để thu hút các nguồn vốn khác với mục tiêu huy động cao nhất các nguồn vốn cho đầu tư phát triển.
- Về phương án phân bổ vốn đầu tư bổ sung phải đảm bảo:(1)Hoàn trả đủ vốn cho các công trình đã được giao kế hoạch năm 2009 do điều hoà trong 6 tháng đầu năm; (2)Bố trí vốn cho công tác chuẩn bị đầu tư, vốn giải phóng mặt bằng các dự án trọng điểm, các dự án Trung ương có chủ trương hỗ trợ có mục tiêu cho tỉnh để thực hiện như các dự án sử dụng nguồn vốn hạ tầng khu kinh tế cửa khẩu, hạ tầng biên giới, khu trung tâm thể thao, các dự án sử dụng nguồn trái phiếu Chính phủ về giáo dục và y tế... ( khoảng 5% tổng nguồn bổ sung) để chuẩn bị cho công tác xây dựng cơ bản năm 2010 được triển khai sớm ngay đầu năm; (3)Bố trí vốn cho các dự án, công trình có khả năng rút ngắn tiến độ đầu tư và hoàn thành trong năm 2009 sớm đưa vào bàn giao sử dụng, phát huy ngay hiệu quả đầu tư (chợ, kênh mương, đập, hạ tầng giao thông..); (4)Ưu tiên cho các chủ đầu tư (Sở, Ban ngành, UBND các địa phương) làm tốt công tác đầu tư và giải ngân trong 6 tháng đầu năm 2009 để tiếp tục thực hiệncông tác xây dựng cơ bản tránh gián đoạn; (5)Đầu tư ưu tiên các công trình y tế, giáo dục, an sinh xã hội.... đặc biệt là bệnh viện và trường học; (6) Dành khoảng 10% tổng số vốn đểbố trí thực hiện các công trình mới đã đủ thủ tục để khởi công trong quý III/2009; (6) Dành một phần để hỗ trợ các địa bàn miền núi, vùng sâu khó khăn; Trước mắt hỗ trợ cho địa bàn huyện Ba Chẽ phần vốn đối ứng các dự án, nhưng không có khả năng cân đối, để đảm bảo có đủ nguồn lực thực hiện đầu tư hoàn thiện các công trình đưa vào khai thác, sử dụng tăng hiệu quả đầu tư.
6. Về chính sách an sinh xã hội
Tiếp tục tổ chức thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội đã ban hành, bảo đảm kịp thời, đúng đối tượng hỗ trợ, góp phần giảm bớt khó khăn về đời sống nhân dân và hỗ trợ thúc đẩy sản xuất phát triển, nhất là các vùng miền núi, vùng đồng bào dân tộc,... Đặc biệt quan tâm dến việc đầu tư các công trình thuộc lĩnh vực y tế, giáo dục để nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân, cải thiện điều kiện dạy và học; điều kiện ăn ở cho học sinh, sinh viên…
Triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp chính sách tạo thêm nhiều việc làm mới, thông qua việc hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa, phát triển các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động. Tổ chức tốt việc đào tạo lại cho số lao động bị mất việc làm, chuyển đổi nghề nghiệp lao động xuất khẩu về nước trước hạn...
Thực hiện chính sách hỗ trợ người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số. Triển khai thực hiện Đề án hỗ trợ người nghèo về nhà ở theo Quyết định số 167/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và Quyết định số 1178/2009/QĐ-UBND ngày 23/4/2009 của Uỷ ban nhân dân tỉnh. Nghiên cứu lập quỹ mua nhà trả góp để hỗ trợ đối tượng thu nhập thấp có khó khăn về nhà ở; có chính sách hỗ trợ một phần để đảm bảo đời sống đối với những người bị mất việc làm trong các doanh nghiệp...Chuẩn bị các điều kiện để triển khai thực hiện chủ trương xây dựng nhà ở cho sinh viên từ nguồn vốn trái phiếu Chính phủ.
Tăng cường các biện pháp để phòng ngừa, kiểm soát dịch bệnh, nhất là các dịch bệnh nguy hiểm, như: dịch cúm A (H1N1),… bảo đảm thực hiện tốt chính sách khám chữa bệnh và bảo hiểm y tế cho người nghèo. Thực hiện tốt việc chính sách lương và phụ cấp cho các đối tượng được thụ hưởng theo đúng chương trình cải cách tiền lương đã được phê duyệt.
7.Về công tác chỉ đạo điều hành
Tăng cường các biện pháp tổ chức thực hiện, điều hành tập trung, quyết liệt từ tỉnh đến cơ sở. Tập trung công tác thanh tra hướng vào việc thực hiện các chính sách kích cầu, ngăn chặn suy giảm kinh tế và an sinh xã hội.
Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền, trong đó phải chú trọng tuyên truyền sâu rộng việc áp dụng các chính sách mới của Chính phủ, của tỉnh hỗ trợ doanh nghiệp và người dân để mọi người dân và doanh nghiệp hiểu rõ và có cơ hội tiếp cận các chính sách này. Đồng thời, tổ chức cung cấp công khai, minh bạch thường xuyên các thông tin về việc triển khai gói kích cầu trên các phương tiện thông tin đại chúng; tăng cường chỉ đạo điều hành theo đúng chính sách của Đảng và Nhà nước đảm bảo thông tin kịp thời, chính xác, tiết kiệm chi phí thông qua việc ứng dụng công nghệ thông tin, tạo sự đồng thuận trong hệ thống chính trị và nhân dân.
Đi đôi với việc giải quyết những khó khăn trước mắt, phải có các giải pháp dài hạn, căn cơ trong phát triển kinh tế-xã hội, tạo chuyển biến thật sự về chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế trong những năm tiếp theo, nhất là về mục tiêu, định hướng phát triển và cơ cấu kinh tế,... theo đúng tinh thần Nghị quyết Trung ương 9 (khóa X); Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 12. Các nhiệm vụ quan trọng này cần kết hợp trong việc nghiên cứu, tổng kết tình hình thực hiện mục tiêu Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010, thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2006-2010 và xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011-2015.
8. Triển khai xây dựng Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2010 theo Chỉ thị số 756/CT-TTg ngày 05/6/2009 của Thủ tướng Chính phủ.
Các ngành, các địa phương, đơn vị tập trung tiến hành đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2009, đồng thời xây dựng Kế hoạch năm 2010 là năm cuối cùng thực hiện kế hoạch 5 năm, có ý nghĩa “quyết định” thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ của Kế hoạch 5 năm 2006 - 2010 vàtạo đà phát triển cho các năm tiếp theo./.