Báo cáo ngày 15 tháng 11 năm 2011 của UBND tỉnh Tiền Giang.
A. Kinh tế:
1. Sản xuất nông nghiệp, thủy hải sản:
a. Trồng trọt:
- Cây lúa: Diện tích gieo trồng trong tháng được 720 ha, tổng số đến nay đã gieo trồng được 241.772 ha, đạt 102,6% kế hoạch và giảm 0,9% so cùng kỳ; năng suất thu hoạch bình quân được 56,8 tạ/ha, đạt 106% kế hoạch và tăng 1,7%; sản lượng thu hoạch được 1.141.396 tấn, đạt 90,3% kế hoạch và tăng 1,1%. Vụ Đông Xuân: kết thúc vụ, đã gieo trồng và thu hoạch 81.023 ha, đạt 102,8% kế hoạch giảm 1,1% so cùng kỳ, năng suất bình quân được 66,7 tạ/ha, đạt 102,1% kế hoạch và tăng 1,7%. Sản lượng thu hoạch 540.424 tấn, đạt 105% kế hoạch và tăng 0,6%; Vụ Hè Thu sớm: tập trung ở các huyện Cái Bè, Cai Lậy, Tân Phước, Châu Thành với diện tích 39.627 ha, đạt 101,5% kế hoạch và giảm 0,3% so cùng kỳ; đã thu hoạch 100% diện tích, năng suất bình quân được 55,3 tạ/ha, đạt 101,7% kế hoạch và tăng 0,2%; sản lượng thu hoạch 219.296 tấn, đạt 103,2% kế hoạch, tương đương so cùng kỳ; Vụ Hè Thu chính vụ: chính thức xuống giống 80.152 ha, các huyện phía Tây một số diện tích xuống giống trễ nhưng do giống ngắn ngày nên thu hoạch hết diện tích trước khi lũ về.
Giá lúa thường IR 50404 thương lái mua tại ruộng với giá 5.300-5.400 đồng/kg, quy ra lúa khô khoảng 6.300-6.400 đồng/kg, mức giá khá cao nên việc chuyển đổi từ giống lúa thường sang giống lúa chất lượng cao khó thực hiện vì trồng lúa thường IR 50404 rất ít tốn chi phí so với lúa chất lượng cao, lợi nhuận sẽ nhiều hơn; Vụ Hè Thu muộn: trong tháng đã gieo trồng được 720 ha, tính đến 15/10 đã gieo trồng được 40.970 ha, đạt 106,1% kế hoạch và giảm 2,2% so cùng kỳ. Trà lúa đang trong giai đoạn đẻ nhánh, làm đòng trổ và phát triển bình thường.
- Cây bắp: gieo trồng được 182 ha, tính đến 15/10 đã gieo trồng được 4.580 ha, đạt 99,6% kế hoạch và giảm 0,8% so cùng kỳ. Thu hoạch được 4.256 ha, năng suất thu hoạch bình quân 33,5 tạ/ha, tăng 0,6%, với sản lượng 14.259 tấn, đạt 93,1% kế hoạch và giảm 1,9%.
- Các loại cây hàng năm khác: Cây chất bột có củ: gieo trồng được 69 ha, tính đến 15/10 đã gieo trồng được 1.695 ha, đạt 99,7% kế hoạch và giảm 5% so cùng kỳ; Cây rau, đậu các loại: gieo trồng được 300 ha, tổng diện tích gieo trồng đến tháng 10 được 36.563 ha, đạt 100,2% kế hoạch và tăng 6,6%; đã thu hoạch 31.204 ha, năng suất 162,7 tạ/ha đạt 100,1% kế hoạch, tăng 0,1%; sản lượng 507.636 tấn, đạt 85,5% kế hoạch, tăng 2,3%. Trong đó cây rau các loại đã gieo trồng được 36.421 ha, tăng 6,6%, đã thu hoạch 31.087 ha, năng suất bình quân đạt 163,2 tạ/ha, tăng 0,1%, với sản lượng 507.335 tấn, tăng 2,3%; Cây công nghiệp hàng năm: tổng diện tích gieo trồng 10 tháng được733 ha, giảm 4,7% so cùng kỳ, trong đó diện tích cói giảm 29,4% và diện tích mía giảm 10,8%, do hai loại cây trồng này không đem lại hiệu quả kinh tế (huyện Tân Phước chuyển đổi từ cây cói sang cây khóm và cây ăn quả, thị xã Gò Công chuyển đổi từ cây mía sang cây hàng năm khác). (Xem biểu Sản xuất nông nghiệp)
- Cây lâu năm: Ngày 12/9/2011, UBND tỉnh Tiền Giang chính thức công bố dịch bệnh chổi rồng trên cây nhãn ở huyện Cai Lậy và Cái Bè. Toàn tỉnh số diện tích nhiễm bệnh chổi rồng là 4.165 ha chủ yếu nhãn tiêu quế. Ban Chỉ đạo phòng chống dịch bệnh trên cây trồng và vật nuôi tỉnh đã tổ chức dập dịch bệnh chổi rồng trên cây nhãn và hỗ trợ kinh phí cho nông dân có nhãn bị thiệt hại nặng là 2 triệu đồng/ha, diện tích hỗ trợ khoảng 6.000 ha. Đồng thời yêu cầu nông dân không nên chặt phá những cây nhãn đã nhiễm bệnh. Tỉnh đã áp dụng đồng loạt các biện pháp để diệt nhện lông nhung trên cây nhãn – côn trùng gây bệnh chổi rồng, hỗ trợ thuốc bảo vệ thực vật chống dịch, tổ chức nông dân thực hiện đồng loạt các biện pháp được khuyến cáo theo quy trình trên diện tích của hộ mình canh tác… Nhờ thực hiện các biện pháp quản lý tổng hợp kết hợp với phòng trừ sâu bệnh và chăm sóc hồi phục tích cực, hiện nay địa phương đã cơ bản khống chế bệnh chổi rồng trên nhãn. Hầu hết các vườn nhãn bị bệnh sau khi điều trị tích cực đã hồi phục nhanh.
b. Chăn nuôi:
Theo Quyết định số 2810/QĐ-UBND ngày 27/9/2011 của Ủy ban nhân dân tỉnh Tiền Giang về việc công bố dịch tai xanh trên heo tại 2 xã Tân Bình Thạnh và Trung Hoà thuộc huyện Chợ Gạo. Tính đến ngày 14/10/2011 bệnh tai xanh trên heo đã phát sinh trên địa bàn 13 xã ( huyện Chợ Gạo 11 xã và huyện Gò Công Tây 2 xã) với tổng số heo bệnh 1.364 con/82 hộ (trong đó 47 hộ có heo đã khỏi bệnh và 35 hộ có heo bệnh đang được theo dõi), tiêu hủy 491 con (12.459 kg). Các ngành chuyên môn tiếp tục khẩn trương triển khai các biện pháp phòng chống dịch heo tai xanh nhằm hạn chế mức độ lây lan; đồng thời tuyên truyền, phổ biến tình hình dịch bệnh tai xanh trên gia súc, bệnh cúm gia cầm và các biện pháp phòng ngừa trên các phương tiện thông tin đại chúng toàn tỉnh để người chăn nuôi có cách phòng ngừa thích hợp với đàn vật nuôi của mình.
2. Thủy hải sản:
Tính đến tháng 10, các hộ thả nuôi xong vụ nuôi năm 2011, tổng diện tích nuôi trồng thủy sản các loại được 14.078 ha, đạt 107,1% kế hoạch, tăng 7,2% (tương đương 944 ha) so với cùng kỳ, gồm: Nuôi thủy sản nước ngọt 6.552 ha, đạt 104,1% kế hoạch, tăng 3,5%, diện tích thả nuôi ổn định với nhiều chủng loại cá, các huyện phía Tây đang tiến hành thu hoạch cá do ảnh hưởng lũ; Nuôi thủy sản mặn, lợ 7.526 ha, đạt 109,7% kế hoạch, tăng 10,6%, chủ yếu là diện tích nuôi nghêu từ năm trước chuyển sang.
Sản lượng nuôi trồng và khai thác trong tháng được 16.194 tấn, tổng sản lượng khai thác và nuôi trồng 10 tháng được 192.805 tấn, đạt 90,9% kế hoạch và tăng 7,6% so cùng kỳ, gồm: Sản lượng nuôi trồng được 8.037 tấn, 10 tháng đầu năm được 120.283 tấn, đạt 90,4% kế hoạch, tăng 9,6%. Sản lượng cá đạt cao nuôi lồng bè trên sông Tiền và các hộ nuôi tôm khu vực Gò Công đang vào mùa thu hoạch, đạt năng suất cao; Sản lượng khai thác biển được 7.522 tấn, tổng sản lượng khai thác 10 tháng được 68.765 tấn đạt 91,2% kế hoạch, tăng 4,5%, trúng mùa nhất là nghề cào đơn, cào đôi. Tuy nhiên do giá nhiên liệu và chi phí đầu vào tăng cao đã ảnh hưởng đến thu nhập của ngư dân; Sản lượng khai thác nội địa được 635 tấn, 10 tháng được 3.757 tấn đạt 98,9% kế hoạch, tăng 0,1%.(Xem biểu Thuỷ sản)
*Công tác Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản 2011:
Ngày 5 và 6/10 tổ Thường trực Ban chỉ đạo Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản 2011 Trung Ương đã nghiệm thu phiếu điều tra của tỉnh, căn cứ các tiêu chí kiểm tra đoàn đánh giá chất lượng đạt loại giỏi. Hiện Thường trực Ban chỉ đạo Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản 2011 tỉnh đang rà soát, cập nhật lại danh mục hành chính của tỉnh, mã địa bàn, một số chỉ tiêu tổng hợp so với kết quả Tổng điều tra năm 2006... tập trung nhập liệu toàn bộ phiếu điều tra theo yêu cầu của UBND tỉnh trước khi bàn giao phiếu điều tra cùng các tài liệu liên quan về Trung tâm Tin học Thống kê khu vực II theo yêu cầu của Ban Chỉ đạo Trung Ương.
2. Sản xuất công nghiệp:
Chỉ số sản xuất công nghiệp trong tháng giảm 2,1% so với tháng 9/2011 và tăng 17,4% so cùng kỳ năm trước. Tính chung 10 tháng chỉ số sản xuất công nghiệp toàn ngành tăng 15,7% so cùng kỳ, bao gồm: công nghiệp chế biến tăng 16,5%, sản xuất, phân phối điện, ga và nước tăng 9,8%, riêng công nghiệp khai thác mỏ giảm 28,1%. Chia theo các loại hình kinh tế như sau: Khu vực doanh nghiệp Nhà nước chỉ số phát triển công nghiệp tháng 10 tăng 0,3% so tháng trước và tăng 14,5% so cùng kỳ. Chỉ số phát triển công nghiệp 10 tháng tăng 8,1% so cùng kỳ; Khu vực ngoài quốc doanh chỉ số phát triển công nghiệp tháng 10 giảm 4,9% so tháng trước và tăng 19,5% so cùng kỳ. Chỉ số phát triển công nghiệp 10 tháng tăng 19,6% so cùng kỳ; Khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ số phát triển công nghiệp tháng 10 tăng 4% so tháng trước và tăng 17,7% so cùng kỳ. Chỉ số phát triển công nghiệp 10 tháng tăng 18,4% so cùng kỳ. (Xem biểu Chỉ số sản xuất công nghiệp)
3. Đầu tư xây dựng:
Tổng vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý trong tháng thực hiện 174,7 tỷ đồng. Tính chung 10 tháng thực hiện được 1.476 tỷ đồng, đạt 83,9% so kế hoạch, tăng 6,7% so cùng kỳ. Chia ra: Nguồn vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh thực hiện 940,9 tỷ đồng, tăng 5,9% Nguồn vốn ngân sách nhà nước cấp huyện thực hiện 457,5 tỷ đồng, tăng 8,8%; Nguồn vốn ngân sách nhà nước cấp xã thực hiện 77,6 tỷ đồng, tăng 4,1%.
4. Vận tải, bưu chính viễn thông:
a. Vận tải:
Doanh thu vận tải trong tháng thực hiện 98,4 tỷ đồng, tăng 4,8% so tháng trước, tăng 23,5% so cùng kỳ. Tính chung 10 tháng đạt 878,3 tỷ đồng, tăng 20% so cùng kỳ, trong đó vận tải hàng hóa đạt 517,3 tỷ tăng 21,3%, vận tải hành khách 327,2 tỷ đồng, tăng 12%. Tính chung 10 tháng đầu năm khối lượng hàng hóa vận chuyển được 8.542 ngàn tấn, tăng 8,9% so cùng kỳ, trong đó vận chuyển bằng đường sông thực hiện 5.850 ngàn tấn, tăng 14,7%; khối lượng hàng hóa luân chuyển được 777.143 ngàn tấn.km, tăng 13,2%, trong đó luân chuyển bằng đường sông thực hiện 567.512 ngàn tấn.km, tăng 13,5%.; khối lượng hành khách vận chuyển được 24.658 ngàn người, tăng 3,6%, trong đó vận chuyển bằng đường bộ thực hiện 19.364 ngàn người, tăng 3%; khối lượng hành khách luân chuyển thực hiện 863.707 ngàn người.km, tăng 2%, trong đó luân chuyển bằng đường bộ đạt 848.041 ngàn người.km, chiếm 98,2% tổng số.
*Công tác quản lý phương tiện giao thông: Số phương tiện đăng ký mới trong tháng là 5.987 mô tô xe máy và 72 ô tô. Tổng số phương tiện đang quản lý trên địa bàn tỉnh là 679.606 chiếc, chia ra mô tô xe máy 663.644 chiếc, 15.820 xe ô tô, 106 xe ba bánh và 36 xe khác.
2. Bưu chính viễn thông:
Doanh thu trong tháng đạt 85 tỷ đồng, giảm 17,7% so tháng trước, tăng 19,3% so cùng kỳ, gồm ngành bưu chính doanh thu đạt 5 tỷ đồng, giảm 22,5%, viễn thông đạt 80 tỷ đồng, tăng 23,5%. Tính đến tháng 10 doanh thu dịch vụ bưu chính, viễn thông đạt 838,7 tỷ đồng, tăng 34,1% so cùng kỳ, gồm ngành bưu chính doanh thu đạt 56,7 tỷ đồng, giảm 4,6%, viễn thông đạt 782 tỷ đồng, tăng 38,1%.
Thuê bao điện thoại phát triển trong tháng là 1.780 thuê bao, giảm 30,8% so tháng trước. Tổng số thuê bao có trên mạng đến cuối tháng 10 là 375.091 thuê bao, mật độ điện thoại bình quân đạt 22,3 thuê bao/100 dân. Dự kiến thuê bao điện thoại phát triển 10 tháng là 25.547 thuê bao, giảm 30% so cùng kỳ. Thuê bao Internet băng rộng (ADSL) phát triển trong tháng là 930 thuê bao, tăng 2,5% so tháng trước. Tổng thuê bao internet băng rộng (ADSL) có trên mạng cuối tháng 10 là 50.397 thuê bao, mật độ internet bình quân 3 thuê bao/100 dân. Thuê bao Internet ước 10 tháng phát triển 9.454 thuê bao, tăng 33% so cùng kỳ.
5. Thương mại, giá cả, du lịch:
a. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng xã hội:
Tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng xã hội trong tháng thực hiện được 2.414 tỷ đồng, tăng 0,8% so tháng trước. Từ đầu năm đến nay thực hiện được 22.730 tỷ đồng, tăng 19% so cùng kỳ, bao gồm kinh tế nhà nước thực hiện 825 tỷ đồng, tăng 44,2%, kinh tế tập thể thực hiện 138 tỷ đồng, tăng 23,6%, kinh tế cá thể thực hiện 12.080 tỷ đồng, tăng 16,9%, kinh tế tư nhân thực hiện 9.687 tỷ đồng, tăng 20%. Phân theo ngành kinh tế: thương nghiệp thực hiện 20.175 tỷ đồng, tăng 19,1%; lưu trú và ăn uống thực hiện 2.007 tỷ đồng, tăng 23,9%; du lịch lữ hành thực hiện 28 tỷ đồng, tăng 64,3%; dịch vụ thực hiện 520 tỷ đồng, tăng 0,3%.(Xem biểu Tổng mức bán lẻ HH và doanh thu dịch vụ)
b. Xuất - Nhập khẩu:
Xuất khẩu: Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa thực hiện được 63,9 triệu USD, giảm 2,9% so tháng trước, tăng 44,3% so cùng kỳ. Từ đầu năm đến nay xuất được 655,1 triệu USD, đạt 112,9% kế hoạch và tăng 58,8% so cùng kỳ, bao gổm:kinh tế nhà nước thực 133,3 triệu USD, tăng 24,1%, kinh tế tư nhân thực hiện 394,1 triệu USD, tăng 41%, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài thực hiện 126,1 triệu USD, bằng gấp 5,3 lần và kinh tế tập thể thực hiện 1,6 triệu USD, giảm 4,7%.
Kim ngạch xuất khẩu ngành công nghiệp chế biến 10 tháng đạt 578,5 triệu USD tăng 64,1% so cùng kỳ, trong đó sản xuất thực phẩm và đồ uống đạt 347,8 triệu USD tăng 54,8%, ngành may mặc đạt 103,6 triệu USD tăng 24,6%, sản xuất các sản phẩm từ cao su plastic đạt 11 triệu USD tăng 38,3%. Trị giá xuất khẩu của tỉnh tập trung vào các huyện như Tân Phước đạt 113,6 triệu USD tăng 230,9%, Cái Bè đạt 12,8 triệu USD tăng 61%, Châu Thành đạt 390,3 triệu USD tăng 47,4%, Thành phố Mỹ tho đạt 138 triệu USD tăng 31,3%.
Một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu: Hàng thủy sản: kim ngạch đạt 31,9 triệu USD, tăng 4,7% so tháng trước, tăng 45,9% so cùng kỳ. Tổng kim ngạch 10 tháng đạt 269,6 triệu USD, tăng 36,3% so cùng kỳ với sản lượng xuất khẩu 94.241 tấn, tăng 11,7%, trong đó mặt hàng fillet cá tra đạt 77.680 tấn tăng 11,5%; Hàng rau quả: trong tháng xuất 952 tấn tăng 39,3% so tháng trước, bằng gấp 5,3 lần so cùng kỳ, đạt kim ngạch 0,9 triệu USD bằng gấp 3,9 lần so cùng kỳ. Tổng số 10 tháng xuất được 7.475 tấn, tăng 52,3%, đạt kim ngạch 8,7 triệu USD, tăng 64,6% so cùng kỳ. Ngoài mặt hàng nước quả đóng hộp, các mặt hàng khác như nước dứa cô đặc, sầu riêng, xoài ... chỉ qua sơ chế do đó giá trị xuất khẩu không cao. Giá xuất bình quân mặt hàng rau quả đóng hộp so cùng kỳ tăng 67%, trong đó mặt hàng nước dứa cô đặc tăng 13%...; Lương thực: do ảnh hưởng lũ lụt, trong tháng lượng gạo xuất có xu hướng giảm lại, xuất được 17.263 tấn giảm 30,7% so tháng trước, tăng 38% so cùng kỳ; đạt kim ngạch 9,1 triệu USD, tăng 74,2% so cùng kỳ. Tổng số 10 tháng xuất được 281.764 tấn, đạt 144,5% kế hoạch tăng 80,7% so cùng kỳ, đạt kim ngạch 131,7 triệu USD, tăng 80,3%. Giá nguyên liệu biến động mạnh, nguyên liệu loại 1 làm ra gạo 5% tấm hiện khoảng 9.400 - 9.500 đồng/kg tăng 300 đồng/kg, nguyên liệu làm ra gạo 25% tấm là 9.250 - 9.350 đồng/kg tăng 300 đồng/kg do Chính phủ Thái Lan bắt đầu thực hiện chính sách mua gạo với giá cao từ người nông dân và tình hình lũ lụt diễn ra nghiêm trọng tại nhiều nước Đông Nam Á làm cho nhiều nước e ngại về nguồn cung cấp gạo sắp tới là yếu tố có thể đẩy giá gạo tăng mạnh; Hàng dệt may xuất được 10,7 triệu USD, tăng 34,8% so cùng kỳ, 10 tháng đầu năm thực hiện được 103,6 triệu USD, tăng 25,6% so cùng kỳ. Thị trường gia công hàng may mặc tương đối thuận lợi, các doanh nghiệp may mặc trong tỉnh đảm bảo đủ nguồn hàng gia công trong năm 2011. Một số doanh nghiệp lớn như công ty May Tiền Tiến trị giá xuất khẩu đạt 45,3 triệu USD tăng 38,9%, công ty TNHH Nam of London đạt 14,2 triệu USD tăng 2,4%, công ty cổ phần May Sông Tiền đạt 18,8 triệu USD tăng 6,4% so cùng kỳ... Tuy nhiên trong những tháng cuối năm tình hình xuất khẩu hàng may mặc sang thị trường Hoa kỳ và Châu Âu xu huớng giảm ảnh bởi ảnh hưởng khủng hoảng nợ ở EU, Hoa Kỳ. Mặc khác, các nước nhập khẩu chính là Hoa kỳ và EU đang gặp khó khăn về tài chính, người dân phải cắt giảm chi tiêu. Để thu hút đơn hàng các nước như Ấn Độ, Indonesia đã chấp nhận giảm giá, nên các doanh nghiệp của Việt Nam sẽ phải cạnh tranh nhiều hơn. (Xem biểu Xuất khẩu hàng hóa)
Nhập khẩu: Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa thực hiện 9,8 triệu USD giảm 14% so tháng trước và giảm 16,7% so cùng kỳ. Tổng số 10 tháng thực hiện 248,3 triệu USD, đạt 137,9% kế hoạch và bằng gấp 2,2 lần so cùng kỳ. Tập trung vào kinh tế nhà nước thực hiện 33,2 triệu USD tăng 19,8%, kinh tế tư nhân thực hiện 114,3 triệu USD, tăng 55,9%, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài thực hiện 100,8 triệu USD, bằng gấp 10,5 lần. Trị giá nhập khẩu tập trung chủ yếu ngành công nghiệp chế biến đạt 240 triệu USD tăng 133,7%, trong đó mặt hàng thức ăn gia súc và nguyên phụ liệu chế biến đạt 72,8 triệu USD, vải phụ liệu hàng may mặc đạt 59,3 triệu... (Xem biểu Nhập khẩu hàng hóa)
c. Giá cả:
Chỉ số giá tiêu dùng trong tháng tăng 0,15% (thành thị tăng 0,16%, nông thôn tăng 0,14%) so tháng trước, tăng thấp nhất từ đầu năm đến nay; so tháng 12 năm trước tăng 17,67%, bình quân chỉ số giá tiêu dùng 10 tháng năm 2011 tăng 19,42% so với bình quân 10 tháng năm 2010. Chỉ số tăng cao nhất ở ngành hàng thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,56%, kế tiếp là ngành hàng may mặc, mũ, nón, giày dép tăng 0,44%, hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,20% (trong đó nhóm hàng lương thực tăng 2,87%, nhóm hàng thực phẩm giảm 0,79%), ngành hàng nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,19%; các ngành hàng còn lại tăng từ 0,01 đến 0,02%. Ngành hàng hàng hóa và dịch vụ khác giảm 0,39% và ngành hàng giao thông giảm 0,23%. (Xem biểu Chỉ số giá tiêu dùng)
Hàng lương thực tăng 2,87%, do đang vào thời điểm cuối vụ hè thu không còn nhiều lúa gạo, tình hình lũ lụt đe dọa; do tác động từ tình hình tăng giá gạo xuất khẩu trên thế giới nên giá thu mua lúa gạo tăng theo: giá gạo tẻ thường IR50404 có giá từ 12.000 - 12.500 đ/kg (tăng 440 đ/kg), gạo tẻ thường IR64 từ 13.000 -13.500 đ/kg (tăng 358 đ/kg) và nhóm gạo tẻ ngon có giá từ 14.500 -16.000 đ/kg...; May mặc, mũ nón, giầy dép tăng 0,44%, chủ yếu là các mặt hàng phục vụ mùa mưa có giá tăng nhẹ: nón lá tăng 1,11%, áo đi mưa tăng 3,56%, dép nhựa nam tăng 2,18%, dép nhựa nữ tăng 2,25%...; Thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,56%, từ ngày 01/10/2011 các doanh nghiệp áp dụng trả lương cho công nhân lao động theo chính sách tiền lương mới, tác động đến giá bán một số mặt hàng đồ dùng gia đình tăng nhẹ: bàn ăn tăng 2,39%, nệm mút Kymdan đan tăng 2,98%, nệm Everon tăng 3,33%, ghế tựa mặt vuông tăng 2,32%,...; Nhóm hàng thực phẩm giảm 0,79%, các nhóm thực phẩm tươi sống đều có chỉ số giá giảm so tháng trước: nhóm thịt heo giảm 4,55%, nhóm thịt gia cầm giảm 5,52% so tháng trước... do dịch bệnh heo tai xanh đang diễn ra 13 xã trong tỉnh (Chợ Gạo 11 xã, Gò Công Tây 02 xã) người dân hạn chế dùng thịt heo. Mặt khác vào mùa lũ lượng cá đồng tự nhiên được đánh bắt về các chợ khá nhiều, người tiêu dùng chuyển sang dùng loại thực phẩm nầy. Riêng một số mặt hàng hải sản tươi sống tăng nhẹ do thời gian qua nhiều cơn bảo xảy ra liên tiếp, ảnh hưởng đến sản lượng đánh bắt thủy sản...; Nhóm hàng chất đốt giảm 2,14% do biến động giá gas thế giới giảm (ngày 01/10/2011 giá gas giảm 10.000đ/12kg), hiện nay giá gas đến tay người tiêu dùng phổ biến ở mức 334.000 – 345.000 đ/bình 12kg; ngày 10/10/2011 giá dầu lửa trong nước giảm 300 đồng/lít, tác động đến chỉ số giá của nhóm mặt hàng nầy trong tháng giảm 2,14% so tháng trước; Ngành hàng giao thông giảm 0,23%, ngày 10/10/2011 giá dầu Dezen được điều chỉnh giảm 400 đ/lít; vé xe ô tô khách giảm 0,04% là do tháng trước (dịp lễ Quốc khánh 2/9) điều chỉnh tăng thêm phụ thu 40% (chỉ áp dụng tăng một ngày 4/9/2011) của tuyến Bến xe Tiền Giang đi Bến xe Miền Tây Tp. HCM.
Sau thời gian dài giá vàng trong nước chịu tác động tăng của giá vàng thế giới nên liên tục tăng và đứng ở mức cao, đến nay giá vàng thế giới quay đầu giảm mạnh, tác động giá vàng trong nước giảm sâu (giảm 4,21 % so tháng trước), hiện nay giá vàng được bán ra ở mức bình quân 4.530.000đ/chỉ. Trong tháng giá USD tăng 0,08% so tháng trước, hiện nay giá bình quân 20.847đ/USD.
d. Du lịch:
Tình hình thời tiết có phần ảnh hưởng đến ngành du lịch, nhưng lượng khách đến tỉnh vẫn tăng, số khách tham quan du lịch trong tháng đạt 78,1 ngàn lượt khách, tăng 3% so tháng trước, tăng 20,3% so cùng kỳ. Tính chung 10 tháng số khách tham quan du lịch đạt 795 ngàn lượt khách, tăng 25,4% so cùng kỳ, trong đó khách du lịch quốc tế là 418,4 ngàn lượt khách, đạt 82,6% kế hoạch và tăng 42,5%. Tổng doanh thu khách sạn, nhà hàng và du lịch được 207,5 tỷ đồng, tăng 13,7% so cùng kỳ, tổng số doanh thu du lịch từ đầu năm đến nay thực hiện được 2.044,9 tỷ đồng, tăng 19,9%, trong đó doanh thu du lịch lữ hành chiếm 1,9%. Mùa lũ năm nay về tương đối dài và mực nước cao, nắm bắt được thị hiếu của khách và tạo nét mới của ngành, các doanh nghiệp đã thực hiện một số tour theo sở thích khách du lịch. Không ít những du khách mê theo con nước, tìm đến những vùng quê dân dã. Đây là một mô hình kinh doanh du lịch mới, hứa hẹn thu hút khách vào mùa nước nổi.
B. Các vấn đề xã hội:
1. Chính sách xã hội:
Chính sách đối với người có công: trong tháng đã tiếp nhận và giải quyết được 53 hồ sơ chính sách về người hoạt động kháng chiến và con đẻ của họ bị nhiểm chất độc da cam/dioxin; 50 hồ sơ chính sách theo Quyết định số 290/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ,… Từ đầu năm đến nay nhà tình nghĩa đã xây dựng 253 căn, tổng kinh phí 6.292 triệu đồng và sửa chữa 135 căn với kinh phí là 966 triệu đồng; nhà đại đoàn kết đã xây dựng được 175 căn nhà với kinh phí 2.975 triệu, bằng 87,9% so cùng kỳ; Bảo trợ xã hội: cấp miễn phí 45 chiếc xe lăn cho người khuyết tật có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, thuộc hộ nghèo cho các huyện, thành phố và thị xã; phối hợp với Sở Tài chính chi trả trợ cấp xã hội hàng tháng theo Nghị định số 67/2007/NĐ-CP, Nghị định 13/2010/NĐ-CP và Nghị định số 06/2011/NĐ-CP của Chính phủ; Bảo vệ và chăm sóc trẻ em: Quỹ Bảo trợ trẻ em tỉnh cấp 172 suất học bổng cho 172 em học sinh có hoàn cảnh đặc biệt, mỗi suất học bổng trị giá từ 500 ngàn đồng đến một triệu đồng với tổng kinh phí 106 triệu đồng do Công ty TNHH Thương mại Tân Hoàng Gia Tp. HCM và Tổ Paul’s Kids tài trợ. Quỹ Bảo trợ trẻ em đã vận động được 426 triệu đồng, trong đó tiền mặt là 183 triệu đồng. Tính chung 10 đã vận động được 3.977 triệu đồng, đạt 99% kế hoạch năm 2011, trong đó tiền mặt 498 triệu đồng; Quỹ đền ơn đáp nghĩa: đã vận động đóng góp quỹ đền ơn đáp nghĩa đến nay được 10.049 triệu đồng, đạt 167,5% kế hoạch.
2. Chăm sóc sức khỏe:
Tình hình dịch bệnh trong tháng tương đối ổn định so với tháng trước và cùng kỳ năm trước, ngoại trừ dịch bệnh Tay chân miệng số cas mắc rất cao và phân bố ở tất cả huyện, thị, thành, trong đó số cas mắc cao tại Chợ Gạo, Cai Lậy, Châu Thành và Gò Công Tây, đã xảy ra 2 trường hợp tử vong tại huyện Gò Công Tây và Mỹ Tho, tính đến 15/10 có 2.515 cas, bằng gấp 7,1 lần so cùng kỳ năm 2010, trong đó có 5 cas tử vong. Các cơ sở phòng bệnh và chữa bệnh thực hiện khá tốt các qui chế chuyên môn, tuyên truyền vận động nhân dân ý thức cao về bảo vệ và chăm sóc sức khỏe.
So với cùng kỳ năm 2010 tình hình mắc bệnh có chiều hướng giảm, đặc biệt không xảy ra bệnh cúm A/H1N1. Trong tháng đã tiến hành kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm 1.031 cơ sở, trong đó có 93,7% cơ sở đạt tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, đã xảy ra 2 vụ ngộ độc thực phẩm với 49 người mắc (trong đó có 01 vụ tại trường tiểu học Trung An, 47 người ngộ độc do nhiễm vi sinh), tính chung từ đầu năm đến nay xảy ra 11 vụ ngộ độc thực phẩm với 174 người bị ngộ độc. Từ đầu năm đến nay: đã khám bệnh cho 4.784.137 lượt người, giảm 10,3% so cùng kỳ, với số lượt người điều trị nội trú là 148.549 lượt người; bệnh Sốt xuất huyết đã xảy ra 2.388 cas, có 01 cas tử vong; HIV: có 224 cas nhiễm HIV mới tăng 0,4% và số cas tử vong do AIDS là 55 cas, tăng 14,6% so với cùng kỳ; Kế hoạch hóa gia đình thực hiện được 195 cas đình sản trong đó có 2 cas nam, đạt 65% kế hoạch và bằng 92,9% so cùng kỳ.
3. Giáo dục - Đào tạo:
Trường Đại Học Tiền Giang công bố kết quả trúng tuyển nguyện vọng 3: đại học 69 thí sinh, cao đẳng 77 thí sinh và Trung cấp mầm non 43 thí sinh. Kết quả số thí sinh trúng tuyển cả 3 đợt: đại học 503 thí sinh, cao đẳng 1.615 và trung cấp chuyên nghiệp 261 thí sinh.
4. Tình hình trật tự an toàn giao thông:
Theo báo cáo của Ngành công an đến hết tháng 9/2011:
Giao thông đường bộ: trong tháng tai nạn xảy ra 19 vụ, làm chết 24 người, làm bị thương 15 người; so tháng trước số vụ và số người bị thương tương đương, số người chết tăng 5 người. Từ đầu năm đến nay xảy ra 217 vụ, làm chết 231 người và làm bị thương 130 người; so cùng kỳ tăng 50 vụ, số người chết tăng 54 người, số người bị thương tăng 40 người. Vi phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ xảy ra 13.333 vụ, giảm 500 vụ so tháng trước và tăng 2.771 vụ so cùng kỳ; phạt tiền 11.877 vụ với số tiền phạt 4.608 triệu đồng. Từ đầu năm đến nay xảy ra 116.625 vụ so cùng kỳ tăng 27.811 vụ, phạt tiền 103.869 vụ với số tiền phạt 37.280 triệu đồng.
Giao thông đường thủy: trong tháng xảy ra 01 vụ, so tháng trước tăng 01 vụ và tăng 01 vụ so cùng kỳ. Từ đầu năm đến nay 5 vụ, so cùng kỳ giảm 4 vụ. Vi phạm trật tự an toàn giao thông đường thủy xảy ra 1.909 vụ, giảm 440 vụ so tháng trước và giảm 621 vụ so cùng kỳ, phạt tiền 1.397 vụ với số tiền phạt 741 triệu đồng; tổng số vụ vi phạm từ đầu năm đến nay 17.418 vụ, so cùng kỳ giảm 3.371 vụ, phạt tiền 13.147 vụ với số tiền phạt 6.461 triệu đồng./.