Theo Quyết định này, phấn đấu đến năm 2020 tỷ trọng nông nghiệp trong GDP của Vùng đạt 7-7,5%; công nghiệp, xây dựng từ 45 - 47%; dịch vụ từ 46 - 48%; kim ngạch xuất khẩu tăng 16- 18%/năm trong cả kỳ quy hoạch. Tiến dần đến cân bằng cán cân xuất - nhập khẩu và đạt mức xuất siêu trung bình 3 - 4 tỷ USD/năm và tốc độ đổi mới công nghệ bình quân đạt khoảng 20%/năm.
Quyết định cũng đưa ra mục tiêu về văn hóa – xã hội. Theo đó, dân số của vùng đến năm 2015 vào khoảng 20,8 triệu người; đến năm 2020 khoảng hơn 21,7 triệu người (Tốc độ tăng dân số trung bình của vùng khoảng 0,93%/ năm trong cả thời kỳ 2011-2020). Giải quyết việc làm hàng năm cho 300-350 nghìn lao động. Phấn đấu tăng chỉ tiêu về tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề của vùng đạt mức 80% và nâng tỷ trọng lao động có trình độ kỹ thuật chuyên môn (có bằng) đạt trên 40% vào năm 2020. Giảm tỷ lệ hộ nghèo bình quân mỗi năm khoảng 2% và nâng mức thu nhập bình quân đầu người của hộ nghèo tăng lên 3,5 lần.
Phấn đấu đến năm 2015, 100% tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương của Vùng có đủ các thiết chế văn hóa; đến năm 2020 có 95 - 100% số quận, huyện, thị xã có nhà văn hóa và thư viện; 85 - 90% số xã, thị trấn có nhà văn hóa; 65 - 70% số làng có nhà văn hóa. Đến năm 2015 có 100% di tích quốc gia đặc biệt, 80% di tích quốc gia và đến năm 2020 có 88% di tích quốc gia trên địa bàn được tu bổ, tôn tạo.
Về định hướng phát triển các ngành và lĩnh vực. Cụ thể ngành thương mại và dịch vụ ưu tiên phát triển các ngành dịch vụ chất lượng cao trong các lĩnh vực vận tải, tư vấn, thiết kế, phát minh - sáng chế, tài chính - ngân hàng, viễn thông, giáo dục - đào tạo, y tế chữa bệnh chất lượng cao, thương mại, du lịch và khoa học công nghệ. Phấn đấu tốc độ tăng trưởng ngành dịch vụ thời kỳ 2011 - 2020 vào khoảng 10%/năm. Phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của vùng. Đầu tư xây dựng một số khu du lịch trọng điểm quốc gia có tầm vóc quốc tế. Phấn đấu đến năm 2015 thu hút khoảng 17-18 triệu lượt khách trong nước và 3,2 - 3,5 triệu lượt khách du lịch quốc tế, đến năm 2020 thu hút khoảng 24 - 25 triệu lượt khách trong nước và khoảng 4,5 - 5,0 triệu lượt khách du lịch quốc tế.
Về phát triển công nghiệp cần tập trung phát triển các ngành công nghiệp có khả năng phát huy lợi thế cạnh tranh, lợi thế so sánh, có giá trị nội địa hóa cao, có khả năng tham gia sâu được vào chuỗi giá trị toàn cầu như: điện tử, công nghệ thông tin, viễn thông, cơ khí chế tạo máy; sửa chữa, đóng tàu thủy và phương tiện hàng hải; thép chất lượng cao và vật liệu xây dựng mới; hóa - dược phẩm, công nghiệp chế biến thực phẩm và ngành dệt may, da - giày. Ưu tiên phát triển theo chiều sâu công nghiệp điện tử và công nghệ thông tin, cơ khí chế tạo máy và sửa chữa - đóng tàu thủy và phương tiện hàng hải, sản xuất thép chất lượng cao, thép chuyên dụng. Mở rộng qui mô công nghiệp dược, công nghiệp chế biến nông lâm thủy sản, thực phẩm gắn với các vùng nguyên liệu. Ưu tiên các dự án đầu tư có quy mô lớn, ít thâm dụng lao động, sản xuất sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, công nghệ sạch, tạo giá trị gia tăng cao và thân thiện với môi trường.
Để thực hiện được mục tiêu này cần tập trung huy động, thu hút nhà đầu tư để phát triển các khu, cụm công nghiệp hiện có; phát triển các khu, cụm công nghiệp cơ khí đóng và sửa chữa tàu biển; các phương tiện hàng hải đáp ứng nhu cầu trong nước ở Hải Phòng, Quảng Ninh và Nam Định.
Về phát triển nông nghiệp - nông thôn Tập trung phát triển ngành với các sản phẩm sạch, thân thiện với môi trường, có năng suất cao, có giá trị lớn và có khả năng xuất khẩu; đồng thời ổn định quỹ đất phục vụ cho mục tiêu an ninh lương thực quốc gia; Đầu tư, bảo vệ và phát triển rừng, đặc biệt là rừng phòng hộ. Trồng cây phân tán, bảo vệ môi trường ở các đô thị lớn, rừng ngập mặn ven biển nhằm kết hợp phát triển du lịch, nghỉ dưỡng; Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Chương trình xây dựng nông thôn mới, chú trọng phát triển làng nghề truyền thống và phát triển du lịch sinh thái với các sản phẩm nông nghiệp, các sản phẩm thủ công mỹ nghệ hướng xuất khẩu đặc trưng của địa phương.
Về phát triển kết cấu hạ tầng cần phát triển đồng bộ hệ thống kết cấu hạtầng kinh tế và hạ tầng xã hội làm động lực để phát triển kinh tế - xã hội của vùng. Kết hợp chặt chẽ đầu tư kết cấu hạ tầng thủy lợi với giao thông, phát triển mạng lưới đô thị và điểm dân cư nông thôn.
Phát triển kinh tế - xã hội vùng phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội cả nước, phù hợp với quy hoạch phát triển các ngành và lĩnh vực của cả nước theo hướng mở, có khả năng hội nhập quốc tế sâu, rộng, gắn kết chặt chẽ với các vùng trong cả nước.
Quyết định quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội vùng Đồng bằng sông Hồng đến năm 2020 nhằm tận dụng tốt các lợi thế của Vùng để nâng cao tăng trưởng và khả năng cạnh tranh, gắn với phát triển bền vững. Ưu tiên phát triển có trọng tâm đối với một số ngành mũi nhọn có khả năng tạo động lực và dẫn dắt các ngành khác phát triển, tạo được thương hiệu đặc trưng cho sản phẩm của Vùng. Đây là vùng đi đầu của cả nước trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng xanh hóa, phát thải thấp và phù hợp với điều kiện biến đổi khí hậu và nước biển dâng./.