Kinh nghiệm thế giới cho thấy để nền kinh tế có thể cất cánh, các nước cần ít nhất đội ngũ doanh nghiệp tương đương trên 2% dân số. Theo thông lệ này, Việt Nam cần ít nhất 2 triệu doanh nghiệp hiệu quả, trong khi chúng ta mới chỉ có khoảng 400 nghìn doanh nghiệp đang hoạt động …
Công cuộc đổi mới nền kinh tế Việt Nam từ sau Đại hội Đảng lần VI năm 1986 đã tạo ra những chuyển động ấn tượng bước đầu trong tiến trình xây dựng đất nước sau chiến tranh. Tuy nhiên, tình hình KTXH vẫn còn nhiều khó khăn, trong đó nổi lên vấn đề “sức khỏe” doanh nghiệp.
Có thể nêu ra một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng này.
Trước hết, năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam còn chậm cải thiện và có vị trí xếp hạng khiêm tốn so với nhiều nước trong khu vực. Báo cáo của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) về năng lực cạnh tranh toàn cầu năm 2014 – 2015 cho thấy Việt Nam dù đã tiến 2 bậc nhưng vẫn chỉ xếp thứ 68 trong 148 nền kinh tế. Báo cáo môi trường kinh doanh của Ngân hàng Thế giới năm 2014 cũng xếp Việt Nam ở vị trí 78 trên 189 nước.
Ảnh hưởng từ khủng hoảng tài chính thế giới xuất phát từ Mỹ năm 2008 cộng với bất ổn kinh tế vĩ mô trong nước kéo dài đã khiến thị trường xáo trộn, chi phí giá nguyên liệu tăng cao, doanh nghiệp đối mặt với nhiều rủi ro thách thức…
Sự cạnh tranh ngày càng quyết liệt kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO (tháng 01/2007) đến nay. Bên cạnh đó, lực lượng đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam ngày càng tăng về quy mô, về số lượng.
Một thời gian dài, doanh nghiệp Việt Nam phải chịu lãi suất ngân hàng rất cao. Lãi suất ngân hàng cao làm hao mòn vốn tự có của doanh nghiệp, trong khi tình hình sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn, doanh nghiệp kinh doanh lỗ hoặc lợi nhuận thấp kéo dài.
Đại bộ phận doanh nghiệp Việt Nam rất khó khăn về nguồn vốn và đa phần sử dụng vốn từ kênh ngân hàng. Các doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt doanh nghiệp nhỏ và vừa càng khó khăn trong việc tiếp cận vốn.
Cuối cùng, trình độ quản trị của doanh nghiệp Việt Nam chưa theo kịp với những chuẩn mực quốc tế.
Trong bối cảnh như vậy, năm 2015 đánh dấu một giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng của Việt Nam, với việc hình thành Cộng đồng Kinh tế ASEAN cùng hàng loạt hiệp định như TPP, các FTA với EU, Hàn Quốc, Liên minh Thuế quan…
Các doanh nghiệp đang đứng trước những thuận lợi chưa từng có để mở rộng thị trường. Tuy nhiên, áp lực cạnh tranh cũng tăng lên rất mạnh. Những ngành như ô tô, sữa, mía đường, chăn nuôi, thép… sẽ phải chịu sức ép lớn nhất.
Áp lực hội nhập buộc Việt Nam phải tích cực cải thiện môi trường kinh doanh, đầu tư, khuyến khích mọi thành phần kinh tế. Việc hội nhập sâu rộng đòi hỏi doanh nghiệp phải nắm rõ luật chơi, hiểu sâu hơn về đối tác và văn hóa của họ…
Thực hiện cuộc cách mạng khởi nghiệp kinh doanh tại Việt Nam, xây dựng và phát triển 2 triệu doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả từ nay đến 2025
So sánh dân số và số doanh nghiệp tại các quốc gia tiên tiến
Tính thời điểm hiện nay, Việt Nam đã có trên 800.000 doanh nghiệp được thành lập, nhưng chỉ có khoảng 400.000 doanh nghiệp hoạt động. Tỷ lệ này quá thấp so với dân số trên 90 triệu và cũng quá thấp so với các nước, vùng lãnh thổ như Mỹ, Đài Loan, Thái Lan, Israel, Nhật.
Thời gian qua, Việt Nam đã tập trung nỗ lực để có thể hội nhập kinh tế quốc tế và cải thiện môi trường kinh doanh, đặc biệt là với Nghị quyết 19/NQ-CP của Chính phủ, Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp năm 2014 …
Tuy nhiên, điều quan trọng nhất là một lực lượng doanh nghiệp đủ mạnh. Nếu tính trung bình theo thông lệ các nước thì Việt Nam cần có ít nhất 2 triệu doanh nghiệp với năng lực cạnh tranh tốt, kinh doanh hiệu quả. Đây sẽ là lực lượng chủ công xây dựng và phát triển kinh tế bền vững.
Rõ ràng là để nhanh chóng đạt được mục tiêu này thì vai trò của nhà nước là rất quan trọng.
Nhà nước cần làm gì?
Có rất nhiều biện pháp đã và đang thực hiện, tuy nhiên trong khuôn khổ tại đây, chúng tôi đề xuất tập trung hai nhóm giải pháp chủ yếu:
Thứ nhất, Ngân hàng Nhà nước cần điều chỉnh cơ cấu tín dụng - không phải bằng biện pháp hành chính mà sử dụng các công cụ điều hành chính sách tiền tệ.
Điều chỉnh cơ cấu tín dụng của các tổ chức tín dụng theo hướng tập trung ưu tiên cho sản xuất kinh doanh, nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao… giảm bớt tín dụng cho khu vực doanh nghiệp nhà nước.
Muốn điều chỉnh cơ cấu tín dụng, ngân hàng phải thay đổi căn bản cách thức cho vay. Tiến hành cho vay chủ yếu theo quản lý dòng tiền, hình thức thế chấp chỉ xem là phụ.
Các khu vực cần khuyến khích như công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ, xuất khẩu… cần ưu tiên lãi suất đặc biệt.
Thứ hai, xây dựng và hình thành một hệ thống chính sách kinh tế hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Tập trung các bộ, cơ quan, địa phương với nỗ lực cao nhất để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, đồng bộ, hiện đại theo hướng tuân thủ đầy đủ quy luật của thị trường.
Hình thành và đưa vào hoạt động các quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Hỗ trợ về mặt hoàn thiện thể chế thông thoáng cho các quỹ đầu tư mạo hiểm, quỹ “mở” thành lập hoạt động tại Việt Nam càng nhiều càng tốt.
Đẩy mạnh cải cách hành chính, hình thành hoàn chỉnh hệ thống pháp luật bảo vệ doanh nghiệp Việt Nam yên tâm làm ăn chân chính.
Đây cũng chính là những giải pháp đã và đang được triển khai, nhưng cần thực hiện quyết liệt hơn, nhất quán hơn và hiệu quả hơn.
Với quyết tâm cải cách mạnh mẽ của Chính phủ, 2 triệu doanh nghiệp Việt Nam sẽ nỗ lực lao động sáng tạo, nâng cao năng lực cạnh tranh, góp phần xây dựng thành công một Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”./.
CEO Đặng Đức Thành
Chinhphu.vn