Cầu Nhật Tân. Ảnh: MPI (MPI) – Ngày 14/02/2017, tại Hà Nội, Tổ chức Xúc tiến Thương mại Nhật Bản (Jetro) tổ chức Lễ công bố “khảo sát về thực trạng hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam”.
Chương trình khảo sát các doanh nghiệp Nhật Bản đang hoạt động sản xuất, kinh doanh tại châu Á, châu Đại Dương được Jetro thực hiện từ tháng 10-11/2016. Tại Việt Nam, có 639 doanh nghiệp trả lời hợp lệ (tỷ lệ trả lời hợp lệ là 49,7%).
Theo đó, tại Việt Nam, tỷ lệ doanh nghiệp trả lời “có lãi” là 62,8% (tăng 4,0% điểm so với năm 2015), trong khi doanh nghiệp trả lời “lỗ” là 25,1% (tăng 1,1% điểm ). Nếu tính theo loại hình doanh nghiệp thì trong ngành công nghiệp chế tạo, tỷ lệ các doanh nghiệp gia công xuất khẩu (EPE) và doanh nghiệp không gia công xuất khẩu (Non EPE) trả lời “có lãi” lần lượt là khoảng 59% và 62%, nằm dưới mức trung bình so với tổng thể.
Về triển khai hoạt động sản xuất, kinh doanh trong tương lai, hơn 60% doanh nghiệp Nhật Bản đầu tư tại Việt Nam có kế hoạch mở rộng kinh doanh và tiếp tục coi Việt Nam là địa điểm đầu tư quan trọng. Khoảng 88% doanh nghiệp cho rằng lý do chính để mở rộng kinh doanh là “tăng doanh thu”. Trong ngành công nghiệp phi chế tạo, khoảng 63% số doanh nghiệp cho rằng lý do chính là “ khả năng tăng trưởng và tiềm năng cao”.
Đối với lợi thế về môi trường đầu tư, Việt Nam đứng thứ 4 trong số 15 quốc gia được cho là có “tình hình chính trị, xã hội ổn định”. Hơn một nửa số doanh nghiệp đánh giá cao về “quy mô thị trường, khả năng tăng trưởng” và “chi phí nhân công rẻ”.
Liên quan đến các hạng mục hàng đầu chung của toàn khu vực về “rủi ro trong môi trường đầu tư”, như năm 2015, thứ hạng của Việt Nam tại các hạng mục đang được giảm xuống, cùng với đó là môi trường đầu tư đang được cải thiện.
Về khả năng cung cấp nguyên liệu, linh kiện trong nước, tỷ lệ nội địa hóa của Việt Nam đạt 34,2%, tăng 2,1% điểm so với năm trước. Tỷ lệ này cao hơn Phi-líp-pin (31,6%) nhưng vẫn thấp hơn Trung Quốc (68%), Thái Lan (57%), In-đô-nê-xi-a (41%), Ma-lai-xi-a (37%). So sánh giữa khu vực miền Bắc và khu vực miền Nam thì ở tỷ lệ ở khu vực miền Nam (35,4%) cao hơn ở miền Bắc (34,3%).
Về tình hình xuất khẩu, so sánh với các quốc gia khác, tỷ lệ xuất khẩu 100% của Việt Nam chiếm tỷ trọng cao, khoảng 30%. Mặt khác, mặc dù tỷ trọng xuất khẩu sang Nhật Bản đã giảm từ 62,5% xuống còn 58,4% so với năm 2015, tỷ lệ này (khoảng 60%) vẫn là cao khi so sánh với các nước khác./.
Đức Trung
Bộ Kế hoạch và Đầu tư