Ảnh minh họa. Nguồn: MPI (MPI) – Theo Báo cáo “Điểm Lại” của Ngân hàng Thế giới, kinh tế Việt Nam đã có chuyển biến tích cực, dần lấy lại đà tăng trưởng trong nửa đầu năm 2017 và tăng trưởng GDP của Việt Nam ước đạt 5,7%, chỉ số giá tiêu dùng ở mức thấp và lạm phát cơ bản duy trì dưới 2%.
Theo Báo cáo của Ngân hàng Thế giới, trong 6 tháng đầu năm 2017, ngành dịch vụ tiếp tục tăng trưởng mạnh, chiếm hơn 40% GDP nhờ vào những kết quả khả quan trong thương mại bán lẻ do tốc độ tăng tiêu dùng trong nước được duy trì và sự sôi động của ngành du lịch. Tuy sản lượng khai thác dầu thô đang sụt giảm nhưng sản xuất công nghiệp nói chung vẫn được cải thiện. Ngành nông nghiệp đang từng bước được phục hồi.
Quan điểm chính sách tiền tệ vẫn phải cân đối giữa hai mục tiêu ổn định vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng, với lãi suất thực khá thấp và tăng trưởng tín dụng ở mức cao, ước khoảng 20% (so với cùng kỳ). Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế với hàm lượng và tăng trưởng tín dụng cao kéo dài có thể làm dấy lên quan ngại về chất lượng tài sản, nhất là trong điều kiện nợ xấu trước đây vẫn chưa được xử lý triệt để.
Chuyên gia kinh tế trưởng, Quyền Giám đốc Quốc gia của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam Sebastian Eckardt nhận định, “Đà tăng trưởng vẫn được duy trì là yếu tố thuận lợi để Việt Nam xử lý những trở ngại có tính chất cơ cấu cho tăng trưởng trong trung hạn, đồng thời tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô và tạo lập lại những khoảng đệm chính sách”.
Cân đối tài khoản vãng lai của Việt Nam sau khi đạt thặng dư lớn trong năm 2016 đã giảm dần trong những tháng đầu năm 2017 do tăng trưởng nhập khẩu nhanh hơn xuất khẩu. Tỷ giá hối đoái danh nghĩa vẫn tương đối ổn định, nhưng tỷ giá thực (REER) tiếp tục tăng. REER tăng nhờ khu vực doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) có thặng dư kinh tế đối ngoại lớn, nhưng điều đó lại có thể là mối quan ngại cho các doanh nghiệp tư nhân trong nước của Việt Nam vẫn đang phải tiếp tục đối mặt với những thách thức lớn về năng lực cạnh tranh.
Theo Ngân hàng Thế giới, triển vọng kinh tế trung hạn của Việt Nam vẫn được đánh giá là tích cực. GDP dự báo sẽ tăng nhẹ ở mức 6,3% trong năm 2017, nhờ sức cầu trong nước, sản suất nông nghiệp được phục hồi và ngành chế tạo chế biến định hướng xuất khẩu tiếp tục cải thiện do sức cầu bên ngoài trên đà khôi phục. Áp lực lạm phát ở mức vừa phải, trong đó lạm phát cơ bản ổn định nhờ giá lương thực, thực phẩm vẫn ở mức thấp và các điều chỉnh giá các dịch vụ do nhà nước quản lý được phối hợp hợp lý hơn. Tài khoản vãng lai dự kiến vẫn thặng dư nhưng ở mức thấp hơn khi tăng trưởng nhập khẩu gia tăng nhanh chóng. Trong trung hạn, tốc độ tăng trưởng dự kiến được cải thiện lên mức 6,4% trong các năm 2018-2019.
Ngân hàng Thế giới cho rằng, những bất định gia tăng trên toàn cầu đòi hỏi Việt Nam cần tiếp tục cẩn trọng hơn nữa trong điều hành kinh tế vĩ mô. Trên cơ sở đà tăng trưởng được duy trì, ưu tiên hàng đầu vẫn là củng cố ổn định kinh tế vĩ mô và tái lập lại các lớp đệm chính sách. Giảm bội chi ngân sách là hết sức cần thiết để kiềm chế những rủi ro ngày càng tăng về bền vững ngân sách và tạo dư địa tài khóa nhằm đối phó với các cú sốc trong tương lai. Cần tiếp tục cải thiện công tác đánh giá rủi ro và thanh tra giám sát về an toàn vốn nhằm giảm thiểu các rủi ro phát sinh trong bối cảnh mở rộng tín dụng. Thách thức về lâu dài của Việt Nam vẫn là duy trì bền vững tốc độ tăng trưởng cao và giảm nghèo bền vững. Những rào cản đối với tăng năng suất và khả năng cạnh tranh của kinh tế Việt Nam dự kiến sẽ được loại bỏ theo tiến trình của cải cách cơ cấu bao gồm tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, củng cố và hoàn thiện thị trường các yếu tố sản xuất bao gồm vốn và đất đai.
Báo cáo của Ngân hàng Thế giới đưa ra khuyến nghị cần củng cố tài khóa từng bước theo hướng chất lượng và có cân đối hợp lý giữa cải thiện nguồn thu ngân sách và nâng cao hiệu quả chi tiêu công. Về thu ngân sách, tăng cường quản lý thu nhằm cải thiện nguồn thu, đồng thời giảm gánh nặng cho người nộp thuế phải được thực hiện song hành với những sửa đổi về chính sách thuế nhằm đẩy mạnh huy động các nguồn thu trong nước. Các lựa chọn chính sách cụ thể có thể bao gồm: cải cách thuế giá trị gia tăng, điều chỉnh thuế tiêu thụ đặc biệt đối với một số mặt hàng, rà soát và hợp lý hóa các hình thức ưu đãi thuế (chi tiêu thuế) nhằm mở rộng cơ sở tính thu từ thuế thu nhập doanh nghiệp và áp dụng thuế tài sản. Về chi ngân sách, các khoản chi đầu tư có hiệu quả về hạ tầng và nguồn nhân lực cần được bảo vệ, đồng thời cần chú trọng việc nâng cao hiệu quả ở cả chi thường xuyên và chi đầu tư./.
Minh Hậu
Bộ Kế hoạch và Đầu tư