(MPI) - Trong chương trình làm việc tại Kỳ họp 6 Quốc hội khóa XIV, chiều ngày 22/10/2018, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng đã trình bày Báo cáo đánh giá giữa kỳ thực hiện Nghị quyết số 24/2016/QH14 về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020; Báo cáo đánh giá giữa kỳ thực hiện Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020.
|
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng báo cáo tại Quốc hội. Ảnh: TTXVN-VNA |
Chính phủ quyết liệt chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương tổ chức quán triệt và thực hiện các chủ trương, chính sách về cơ cấu lại nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng
Theo Báo cáo, để triển khai Nghị quyết 24/2016/QH14, Chính phủ đã sớm ban hành Nghị quyết số 27, giao 16 nhiệm vụ và chính sách lớn cần thực thi cho các Bộ, ngành, địa phương, với 120 nhiệm vụ cụ thể nhằm đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng. Thủ tướng Chính phủ đã thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia về cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, do Thủ tướng Chính phủ làm Trưởng Ban chỉ đạo, Phó Thủ tướng Chính phủ làm Phó trưởng ban thường trực, có chức năng tham mưu, đôn đốc, phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và địa phương thực hiện việc cơ cấu lại nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng.
Kết quả là, các Bộ, ngành, địa phương nhìn chung đã thực hiện với trách nhiệm cao và thực chất các chính sách về cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng. Đã có sự chuyển biến cả về tư duy và theo đó là quyết tâm và hành động cụ thể, trong công tác xây dựng kế hoạch và chỉ đạo thực hiện kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế với việc tập trung vào chính sách, giải pháp cụ thể thúc đẩy các trọng tâm cơ cấu lại nền kinh tế; chú trọng phát triển kinh tế tư nhân; chú trọng cơ cấu lại các ngành kinh tế, đặc biệt là khu vực nông nghiệp, nông thôn; hành động quyết liệt đi liền với giám sát chặt chẽ cải cách thủ tục hành chính, cắt giảm điều kiện kinh doanh, kiểm tra chuyên ngành.
Đánh giá kết quả thực hiện 22 nhóm chỉ tiêu được đặt ra tại Nghị quyết 24 trong giai đoạn 2016 - 2018 cho thấy, so với các mục tiêu đặt ra tới năm 2020, có 9 chỉ tiêu đã hoàn thành; 8 chỉ tiêu có khả năng hoàn thành và 5 chỉ tiêu cần các giải pháp thúc đẩy để hoàn thành. Như vậy, tới thời điểm hiện nay, có 77% số mục tiêu đã hoàn thành hoặc dự kiến hoàn thành.
Nhìn chung, quá trình triển khai cơ cấu lại nền kinh tế đã bám sát quan điểm nêu tại Nghị quyết số 05 và Nghị quyết 24 của Đảng và Quốc hội, vừa tập trung xử lý kịp thời các vấn đề tồn đọng trong giai đoạn cơ cấu lại nền kinh tế trước đây, đồng thời chuyển dần từ mô hình tăng trưởng chủ yếu dựa vào đầu tư và xuất khẩu sang dựa đồng thời vào cả đầu tư, xuất khẩu và thị trường trong nước. Tuy nhiên, việc tổ chức triển khai và theo dõi giám sát về thực hiện các nhiệm vụ cơ cấu lại nền kinh tế trong giai đoạn tới cần tiếp tục được chú trọng và đổi mới, để tiếp tục tạo ra sự lan tỏa mạnh mẽ về cải cách thể chế và cơ cấu lại nền kinh tế trên cả nước, qua đó các Bộ, ngành, địa phương đã chủ động và quyết liệt hơn nữa trong việc đề xuất và thực hiện các chính sách cơ cấu lại nền kinh tế, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân trong hoạt động đầu tư, kinh doanh.
Về đổi mới mô hình tăng trưởng và nâng cao chất lượng tăng trưởng, mô hình tăng trưởng đã bước đầu chuyển biến theo hướng tích cực, góp phần thực hiện thành công mục tiêu kép là vừa giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, vừa thúc đẩy tăng trưởng GDP, tạo thêm dư địa để thực hiện tốt hơn các nhiệm vụ bảo đảm an sinh xã hội, tạo việc làm, nâng cao thu nhập và đời sống của Nhân dân, giải quyết những vấn đề bức xúc, củng cố quốc phòng, ổn định trật tự, an toàn xã hội.
Chất lượng tăng trưởng kinh tế đã được cải thiện rõ rệt. Năng suất lao động có sự cải thiện đáng kể theo hướng tăng đều qua các năm, đồng thời Việt Nam là quốc gia có tốc độ tăng năng suất lao động cao trong khu vực ASEAN. Bình quân 3 năm 2016-2018 năng suất lao động tăng 5,62%/năm, cao hơn so với mức tăng bình quân 4,3%/năm của giai đoạn 2011-2015, và đạt mục tiêu đề ra (tăng trên 5,5%).
Về kết quả cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, Nghị quyết 24 và văn bản liên quan xác định 9 mục tiêu cần hoàn thành đến năm 2020 về cơ cấu lại DNNN. Đánh giá sơ bộ cho thấy, có 1 mục tiêu đã hoàn thành, 2 mục tiêu có khả năng hoàn thành và 6 mục tiêu cần các giải pháp thúc đẩy để hoàn thành. Cổ phần hóa và thoái vốn tại các doanh nghiệp nhà nước đạt kết quả khá, thực hiện thoái vốn nhà nước thành công tại một số DNNN quy mô lớn. Một số DNNN yếu kém trở lại hoạt động. Số nhóm ngành, lĩnh vựcNhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ giảm mạnh.
Kết quả cơ cấu lại đầu tư công, Nghị quyết 24 và văn bản liên quan xác định 7 mục tiêu cần hoàn thành đến năm 2020. Đánh giá sơ bộ, có 1 mục tiêu đã hoàn thành, 2 mục tiêu có khả năng hoàn thành và 4 mục tiêu cần có giải pháp thúc đẩy để hoàn thành. Các mục tiêu hoàn thành và có khả năng hoàn thành liên quan đến nâng cao kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động đầu tư công, cắt giảm tình trạng đầu tư dàn trải và nợ đọng xây dựng cơ bản. Các dự án quan trọng quốc gia được đẩy nhanh tiến độ. Giải ngân vốn đầu tư công từng bước được cải thiện nhờ những nỗ lực tháo gỡ khó khăn của Chính phủ. Tuy nhiên, còn có một số mục tiêu khó hoàn thành, đặc biệt là mục tiêu nâng cao chất lượng thể chế quản lý đầu tư công của Việt Nam để đáp ứng thông lệ quốc tế tốt. Tình trạng lãng phí, chất lượng công trình thấp chưa được giải quyết triệt để.
Kết quả cơ cấu lại các tổ chức tín dụng (TCTD), Nghị quyết 24 và văn bản liên quan xác định 6 mục tiêu chính về cơ cấu lại các TCTD đến năm 2020. Đánh giá sơ bộ, có 1 mục tiêu đã hoàn thành, 3 mục tiêu có khả năng hoàn thành và có 2 mục tiêu cần giải pháp thúc đẩy để hoàn thành. Việc xử lý nợ xấu tại các TCTD đã được thực hiện thực chất hơn, lãi suất cho vay trung bình giảm, dòng vốn tín dụng chuyển dịch nhiều hơn vào các ngành sản xuất để hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế.
Giải pháp đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2019-2020
Theo kết quả đánh giá định lượng các tác động tới nền kinh tế, việc đạt được các mục tiêu đã đề ra về chuyển dịch nguồn lực và cơ cấu lại nền kinh tế sẽ dẫn tới cải thiện mạnh mẽ tốc độ tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế trong các năm 2019-2020 và giai đoạn sau đó. Do vậy, trong giai đoạn 2019 - 2020, cần tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện quyết liệt và thực chất các chính sách và nhiệm vụ cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, phải coi đây là một trọng tâm ưu tiên hàng đầu trong công tác điều hành của Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương và việc hoàn thành các mục tiêu đã đề ra về cơ cấu lại nền kinh tế sẽ là động lực quan trọng hàng đầu để duy trì tốc độ tăng trưởng cao, bền vững trong giai đoạn 2019-2025.
Trên cơ sở quan điểm cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020 đã nêu tại Nghị quyết 24 và tình hình thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2018, các mục tiêu chính của cơ cấu lại nền kinh tế trong giai đoạn 2018-2020 bao gồm: Ổn định kinh tế vĩ mô và các cân đối vĩ mô vững chắc hơn; Tăng nhanh hơn năng suất lao động, với đổi mới sáng tạo đóng vai trò quan trọng trong tạo động lực tăng trưởng; Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng của khu vực kinh tế tư nhân và nâng tỷ trọng trong GDP của khu vực kinh tế trong nước, giảm sự phụ thuộc về kinh tế vào bên ngoài; Thị trường giữ vai trò quan trọng hơn trong huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực phát triển, đặc biệt là nguồn lực đất đai, vốn và lao động.
Căn cứ vào tiến độ thực hiện và khả năng hoàn thành các mục tiêu đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế đến năm 2020, Chính phủ tiến hành đôn đốc, chỉ đạo và đẩy mạnh việc thực hiện các nhiệm vụ và giải pháp cơ cấu lại nền kinh tế đã được xác định tại Nghị quyết 05, Nghị quyết 24 và Nghị quyết 27 của Chính phủ. Trong đó, các nhiệm vụ trọng tâm về cơ cấu lại nền kinh tế trong năm 2019 - 2020 bao gồm: Tiếp tục chỉ đạo hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, tạo thuận lợi cho quá trình cơ cấu lại nền kinh tế. Nghiên cứu ban hành các chính sách dưỡng sức dân, dưỡng sức doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân. Nghiên cứu sớm ban hành chính sách cắt giảm hợp lý và mạnh mẽ các loại thuế, phí đối với doanh nghiệp. Xây dựng thị trường cạnh tranh hiệu quả dựa trên hai trụ cột: Phân bổ nguồn lực hiệu quả hơn trên cơ sở tạo điều kiện, hỗ trợ phát triển khu vực tư nhân trong nước; Cải cách thể chế về quyền tài sản, trước mắt tập trung các khâu: giải quyết phá sản, đăng ký sở hữu và sử dụng tài sản, xử lý tài sản thế chấp ngân hàng.
Hoàn thiện thể chế quản lý đầu tư công, bảo đảm hiệu quả và phù hợp với thông lệ quốc tế, ưu tiên đổi mới cách thức thẩm định, đánh giá và lựa chọn dự án đầu tư. Tập trung đầu tư công có trọng tâm, trọng điểm, gắn chặt với các ưu tiên về cơ cấu lại nền kinh tế, ưu tiên tối đa đầu tư phát triển hạ tầng và tăng cường vị thế các vùng động lực tăng trưởng. Đẩy mạnh cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước (DNNN), tăng cường chiều sâu và tốc độ cổ phần hóa, nâng cao thực chất trình độ quản trị, tăng cường tính công khai, minh bạch trong quản lý DNNN.
Đồng thời, tiền đề của các nhóm giải pháp nêu trên là Chính phủ cần có những biện pháp củng cố nền tảng kinh tế vĩ mô ổn định và thuận lợi cho cơ cấu lại nền kinh tế. Các giải pháp bao gồm: tập trung quản lý nợ công theo hướng bảo đảm an toàn, bền vững; điều hành chủ động, linh hoạt và phối hợp tốt chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa và các chính sách khác, nhất là chính sách điều chỉnh các loại giá, phí do nhà nước quản lý.
Đánh giá giữa kỳ thực hiện Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020
Trên cơ sở mục tiêu, nhiệm vụ của Nghị quyết số 26/2016/QH14, Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương tập trung đánh giá về tình hình triển khai phân bổ, giao và thực hiện kế hoạch đầu tư công trung hạn theo các nguồn vốn; tình hình triển khai nhiệm vụ cơ cấu lại đầu tư công; đánh giá kết quả 03 năm thực hiện, dự kiến 02 năm còn lại của kế hoạch đầu tư công trung hạn và một số kiến nghị.
Theo Báo cáo, sau 3 năm thực hiện, tỷ trọng đầu tư công trên GDP dịch chuyển tích cực, phù hợp với các mục tiêu về cơ cấu lại đầu tư công đã đề ra, tính đến năm 2017, tỷ trọng vốn đầu tư của nhà nước giảm xuống còn 34,8% so với tổng đầu tư toàn xã hội, tương đương 11,6% GDP. Cơ cấu vốn đầu tư công dịch chuyển theo hướng phù hợp hơn với các định hướng đầu tư trong giai đoạn 2016-2020, trong đó, cơ cấu đầu tư các ngành giáo dục và đào tạo, khoa học, công nghệ, y tế, nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản và các lĩnh vực hạ tầng đã được quan tâm hơn, chiếm tỷ trọng ngày càng cao. Hiệu quả đầu tư toàn nền kinh tế bước đầu tăng lên, việc sử dụng vốn đầu tư xã hội nói chung, và vốn đầu tư công nói riêng được cải thiện. Hệ số ICOR giảm từ 6,36 của giai đoạn 2011-2014 xuống còn 6,11 trong giai đoạn 2015-2017, tỷ lệ các dự án hoàn thành đưa vào sử dụng tăng.
Giải ngân vốn đầu tư công đã từng bước được cải thiện nhờ những nỗ lực tháo gỡ khó khăn của Chính phủ, tốc độ giải ngân vốn đầu tư công có sự cải thiện rõ rệt qua các tháng, quý. Khắc phục cơ bản tình trạng quyết định chủ trương và quyết định đầu tư tùy tiện, không căn cứ khả năng cân đối vốn. Tổng số dự án của Kế hoạch đầu tư công trung hạn là 9.620 dự án (không bao gồm các dự án thuộc các Chương trình mục tiêu quốc gia), chỉ bằng khoảng 50% so với giai đoạn trước về số dự án. Trong đó, số dự án hoàn thành trong giai đoạn đạt 65,4%; số dự án chuyển tiếp sang giai đoạn sau khoảng 4,3%; số vốn bố trí bình quân cho một dự án đạt khoảng 35,5 tỷ đồng/1 dự án, tăng 35,8% so với giai đoạn trước.
Khắc phục tình trạng các dự án đầu tư vượt quá kế hoạch vốn được giao, gây nợ đọng xây dựng cơ bản, quản lý chặt chẽ việc ứng trước dự toán kế hoạch đầu tư công. Bố trí vốn trong kế hoạch trung hạn thanh toán dứt điểm nợ đọng xây dựng cơ bản vốn NSTW tính đến ngày 31/12/2014; thu hồi phần lớn số vốn ứng trước. Thông tin theo dõi, giám sát các dự án đầu tư công từng bước được hệ thống hóa và số hóa, thông qua việc đưa vào vận hành hệ thống quản lý đầu tư công, một số thông tin được công khai hóa, góp phần tăng cường vai trò giám sát của xã hội đối với đầu tư công.
Đồng thời, khắc phục tình trạng kế hoạch đầu tư công bị cắt khúc thông qua việc đổi mới công tác lập, phê duyệt, giao kế hoạch đầu tư công, chuyển từ lập kế hoạch hằng năm sang kết hợp giữa kế hoạch trung hạn và hằng năm. Những nhiệm vụ, mục tiêu quan trọng và các dự án quan trọng quốc gia theo các Nghị quyết của Quốc hội đều được cân đối và bố trí vốn đầy đủ. Công tác hoàn thiện thể chế về đầu tư công có nhiều chuyển biến tích cực, nhất là dự án Luật Đầu tư công (sửa đổi); sửa đổi, bổ sung nhiều nghị định hướng dẫn quan trọng có liên quan đến đầu tư công.
Tuy nhiên, khả năng cân đối ngân sách nhà nước để bố trí vốn thực hiện hằng năm còn gặp nhiều khó khăn, tỷ trọng chi đầu tư còn thấp (khoảng 25%), số vốn cân đối cho các chương trình mục tiêu chỉ đạt khoảng 53% nhu cầu. Việc hoàn thiện thủ tục và lựa chọn dự án phù hợp để đưa vào kế hoạch đầu tư trung hạn còn nhiều bất cập, nguyên nhân là do lần đầu tiên thực hiện các quy định của Luật Đầu tư công, các bộ, ngành, địa phương lúng túng trong triển khai thủ tục và chưa có giải pháp cụ thể để lựa chọn các dự án tối ưu.
Việc phân bổ vốn chi tiết cho từng dự án còn nhiều hạn chế, do nguồn vốn cân đối hạn hẹp, chưa đáp ứng nhu cầu, một số bộ, ngành, địa phương sau khi thanh toán nợ đọng, hoàn ứng và bố trí vốn cho các dự án chuyển tiếp, gần như không còn đủ vốn để bố trí vốn cho các dự án khởi công mới. Bên cạnh đó, một số bộ, ngành, địa phương vẫn còn tư duy phân bổ dàn trải, phân tán, dự kiến quá nhiều dự án đưa vào danh mục.
Việc giao chi tiết kế hoạch đầu tư công cho các bộ, ngành và địa phương đôi khi còn bị chậm và thực hiện nhiều lần trong năm 2015, 2016, tuy nhiên đã có cải thiện đáng kể từ kế hoạch năm 2017. Việc điều chỉnh kế hoạch đầu tư công trung hạn và hằng năm còn vướng nhiều thủ tục hành chính, chưa chủ động, kịp thời.
Theo Báo cáo, căn cứ Nghị quyết số 26/2016/QH14 của Quốc hội về Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020, trên cơ sở báo cáo về dự kiến Kế hoạch tài chính-ngân sách nhà nước 3 năm 2019-2021, đánh giá khả năng thực hiện kế hoạch đầu tư công trung hạn của 02 năm 2019, 2020 theo nguồn vốn.
Trong đó, về nguồn vốn ngân sách trung ương (NSTW), do tốc độ tăng năm sau so với năm trước thấp, nên đã dẫn tới hạn mức vốn phải thực hiện còn lại trong 2 năm 2019, 2020 của Kế hoạch đầu tư trung hạn còn lại khá nhiều, tạo sức ép lớn đối với công tác cân đối và phân bổ vốn trong kế hoạch hằng năm. Để thực hiện nhiệm vụ đã đề ra tại Nghị quyết số 26/2016/QH14 của Quốc hội trong 02 năm còn lại, bình quân mỗi năm cần phải được bố trí ngân sách trung ương khoảng 237 nghìn tỷ đồng. Tuy nhiên, đầu tư là một quá trình liên tục, sẽ có một bộ phận hạn mức vốn thuộc kế hoạch đầu tư trung hạn sẽ được chuyển sang giai đoạn 2021-2025 để tiếp tục bố trí kế hoạch hằng năm và thực hiện. Đây là một thực tiễn khách quan, khi các dự án được khởi công vào giai đoạn cuối của chu kỳ trung hạn nhưng có thời gian thực hiện từ 5 đến 8 năm, phù hợp với số liệu đánh giá là có khoảng 412 dự án của Kế hoạch đầu tư công trung hạn sẽ chuyển tiếp thực hiện và hoàn thành trong giai đoạn 2021-2025.
Về nguồn vốn trong cân đối ngân sách địa phương (NSĐP), thực tế trong những năm qua, nhiều địa phương có số thu ngân sách khá tốt, dẫn tới giao dự toán chi đầu tư hằng năm nguồn ngân sách địa phương đạt cao, một số địa phương đã gần đạt hoặc vượt hạn mức trung hạn đã giao trong kế hoạch đầu tư trung hạn nguồn vốn cân đối ngân sách địa phương. Do nguồn vốn trong cân đối Ngân sách địa phương được tính trên khả năng thu của Ngân sách địa phương, việc quy định cứng nhắc theo hạn mức của Kế hoạch đầu tư công trung hạn đối với nguồn vốn này là khó khả thi, làm xáo trộn cân đối ngân sách của các địa phương. Để khắc phục vấn đề này, Chính phủ kiến nghị Quốc hội xem xét, cho phép tiếp tục triển khai giao kế hoạch hằng năm nguồn vốn trong cân đối NSĐP trên cơ sở khả năng thu của ngân sách địa phương theo thực tế hằng năm, triển khai tổng kết vào cuối kỳ Kế hoạch 5 năm giai đoạn 2016-2020.
Nhằm thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu đã đề ra, đảm bảo tính khả thi, hiệu quả và không phá vỡ Kế hoạch đầu tư công trung hạn, Chính phủ trình Quốc hội xem xét, quyết định các nguyên tắc, tiêu chí sử dụng dự phòng chung kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020 như Chính phủ đã đề xuất tại báo cáo này; giao Chính phủ thông báo số vốn dự phòng phân bổ và chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương hoàn thiện thủ tục các dự án và báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội về phương án sử dụng dự phòng chung kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020 để cho ý kiến về danh mục dự án trước khi Chính phủ giao bổ sung kế hoạch đầu tư công trung hạn cho các bộ, ngành địa phương theo quy định của Nghị quyết số 26/2016/QH14.
Đồng thời, xem xét, cho phép bổ sung danh mục dự án sử dụng vốn nước ngoài vào Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020 để kịp thời triển khai thực hiện theo đúng Hiệp định đã được ký kết. Giao Chính phủ tổng hợp chung trong phương án sử dụng dự phòng Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020 báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, giao Chính phủ điều hành giao kế hoạch hằng năm cân đối giữa vốn nước ngoài và vốn trái phiếu Chính phủ, đảm bảo tổng số giải ngân các nguồn vốn không vượt quá 2 triệu tỷ đã được Quốc hội thông qua, đảm bảo kiểm soát chỉ tiêu nợ công và bội chi ngân sách nhà nước đã được Quốc hội giao…/.
Thúy Quyên
Bộ Kế hoạch và Đầu tư