Skip Ribbon Commands
Skip to main content
Ngày 03/10/2018-14:38:00 PM
Tình hình kinh tế - xã hội Quý III và 9 tháng năm 2018 tỉnh Thái Nguyên

Chín tháng đầu năm 2018 kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh giữ được đà tăng trưởng; các chỉ tiêu kinh tế cơ bản như: Giá trị sản xuất công nghiệp duy trì quy mô cao và đạt tốc độ tăng khá, tạo động lực cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa; xuất khẩu và thu ngân sách trên địa bàn đều đạt trên 70% kế hoạch; cung cầu hàng hóa được đảm bảo; sản xuất nông nghiệp nhìn chung phát triển tốt do dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm trên đàn gia súc gia cầm không phát sinh, giá bán sản phẩm chăn nuôi đang duy trì ở mức cao. An ninh trật tự, an toàn xã hội được đảm bảo; các chính sách xã hội được chú trọng và thực hiện đầy đủ, tạo điều kiện ổn định và cải thiện đời sống dân cư. Bên cạnh đó còn tồn tại những khó khăn, thách thức như: chỉ số giá tiêu dùng vẫn tiềm ẩn nguy cơ tăng cao; một số sản phẩm công nghiệp truyền thống của tỉnh tiêu thụ khó khăn; tình hình thiên tai… ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống của nhân dân.

Trên cơ sở kết quả thực hiện 8 tháng và ước tính số liệu tháng 9, Cục Thống kê báo cáo khái quát tình hình kinh tế xã hội ước tính 9 tháng đầu năm 2018 như sau:
1. Giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá so sánh 2010) trên địa bàn ước đạt 495.086 tỷ đồng, tăng khoảng 12% so với cùng kỳ, bằng 76,7% kế hoạch cả năm. Trong đó, công nghiệp địa phương đạt 18.402 tỷ đồng, tăng 12,9% so với cùng kỳ, bằng 77% kế hoạch cả năm; công nghiệp nhà nước trung ương đạt 12.479 tỷ đồng, tăng 1,2% so với cùng kỳ, bằng 70,8% kế hoạch cả năm; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 464.205 tỷ đồng, tăng 12,1% so cùng kỳ, bằng 76,8% kế hoạch năm.
2. Giá trị xuất khẩu trên địa bàn đạt 18,5 tỷ USD, tăng 8,1% so với 9 tháng 2017 và bằng 74% kế hoạch cả năm. Trong đó, giá trị xuất khẩu địa phương ước đạt 313,3 triệu USD, tăng 45% so cùng kỳ, bằng 83,7% kế hoạch cả năm; xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 18,17 tỷ USD, tăng 7,6% so cùng kỳ và bằng 73,7% kế hoạch cả năm.
3. Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn ước đạt 9.580 tỷ đồng, bằng 73% dự toán năm, tăng 5% so với cùng kỳ.
4. Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội, 9 tháng đầu năm ước đạt 36.645 tỷđồng, bằng 91,1% cùng kỳ năm trước.
5.Sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản:
Diện tích trồng rừng mới tập trung trên địa bàn đạt 5,95 nghìn ha, trong đó, địa phương trồng rừng mới tập trung theo chương trình mục tiêu phát triển lâm nghiệp bền vững là 3.164 ha, bằng 104,1% kế hoạch.
Diện tích chè trồng mới và trồng lạilà 779 ha, đạt kế hoạch đề ra.
6. Các chỉ tiêu xã hội: triển khai thực hiện theo đúng tiến độ đề ra.
Tình hình cụ thể về kết quả thực hiện các chỉ tiêu chủ yếu trên địa bàn tỉnh Quý III và 9 tháng đầu năm 2018:
A. KINH TẾ
I.Tài chính, ngân hàng
1.Thu ngân sách
Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn Tám tháng đầu năm 2018 đạt 8.885,4 tỷ đồng, tăng 5,2% so cùng kỳ và bằng 67,8% kế hoạch. Trong tổng thu, thu trong cân đối ngân sách nhà nước đạt 8.854 tỷ đồng, tăng 4,9% so với cùng kỳ và bằng 67,5% so với dự toán cả năm; thu quản lý qua ngân sách đạt 31,3 tỷ đồng. Nếu không tính thu từ cấp quyền sử dụng đất thì thu trong cân đối 8 tháng tăng 12,7% cùng kỳ và bằng 66,4% dự toán cả năm.
Trong thu cân đối, thu nội địa đạt 6.931 tỷ đồng, tăng 2,9% so cùng kỳ và bằng 70% dự toán cả năm; thu từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 1.923 tỷ đồng tăng 12,7% và bằng 60,1% dự toán cả năm 2018.
Trong thu nội địa, có 8/14 khoản thu tăng so với cùng kỳ, trong đó thu khác ngân sách đạt 137 tỷ đồng, gấp 2 lần so cùng kỳ và bằng 83,1% dự toán năm; thu từ thuế sử dụng đất phi nông nghiệp đạt 15,2 tỷ đồng, cao gấp 1,6 lần so cùng kỳ và bằng 126,3% dự toán năm; Đóng góp nhiều nhất vào thu nội địa 8 tháng đầu năm là thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 2.043,7 tỷ đồng (chiếm tỷ trọng 29,5% tổng thu nội địa), tăng 49,3% so cùng kỳ và bằng 64,4% dự toán năm. Còn lại 6/14 khoản thu đạt thấp hơn so với 8 tháng 2017 như: thu phí, lệ phí đạt 120 tỷ đồng, giảm 21,8%; thu tiền cấp quyền sử dụng đất đạt 1.009 tỷ đồng, giảm 31,9%; thu tiền cho thuê đất đạt 217,6 tỷ đồng, giảm 18,7%; thuế bảo vệ môi trường giảm 16,8% …
Tính lũy kế từ đầu năm đến ngày 20/9/2018 tổng thu ngân sách đạt 9.174 tỷ đồng, bằng 70% so dự toán. Trong đó thu nội địa đạt 7.073 tỷ đồng, bằng 71,4% dự toán, thu xuất nhập khẩu đạt 2.069 tỷ đồng, bằng 64,7% dự toán; thu quản lý qua ngân sách thực hiện 32 tỷ đồng. Tính riêng thu nội địa không tính thu từ tiền đất và xổ số đạt 8.604 tỷ đồng, bằng 69,8% dự toán.
Dự ước thu ngân sách nhà nước trên địa bàn 9 tháng 2018 ước đạt 9.580 tỷ đồng, bằng 73% dự toán năm, tăng 5% so với cùng kỳ.
2.Chi ngân sách
Tổng chi ngân sách địa phương trên địa bàn tỉnh Tám tháng đầu năm 2018 đạt 6.902,3 tỷ đồng, tăng 10,5% so với cùng kỳ và bằng 50% dự toán cả năm, trong đó chi cân đối ngân sách địa phương đạt 6.203,5 tỷ đồng tăng 10% so cùng kỳ và bằng 51,1% dự toán cả năm; chi chương trình mục tiêu quốc gia đạt 698,8 tỷ đồng, tăng 15,8% so cùng kỳ và bằng 41,2% dự toán cả năm.
Trong chi cân đối ngân sách địa phương, chi đầu tư phát triển đạt 1.778,9 tỷ đồng, tăng 34,3% so cùng kỳ, bằng 75,4% dự toán cả năm; chi thường xuyên đạt 4.424,6 tỷ đồng, tăng 2,5% so cùng kỳ, bằng 56,2% dự toán cả năm 2018.
Trong tổng chi thường xuyên có 7/11 khoản chi tăng so cùng kỳ như: chi sự nghiệp phát thanh truyền hình đạt 34,3 tỷ đồng, tăng 16,2% so cùng kỳ và bằng 40,7% dự toán năm; chi quốc phòng an ninh địa phương đạt 175 tỷ đồng, tăng 16,3% so cùng kỳ và bằng 85,5% dự toán năm; chi sự nghiệp giáo dục đào tạo và dạy nghề đạt 1.759,2 tỷ đồng (chiếm tỷ trọng 39,7% tổng chi thường xuyên), tăng 8,3% so cùng kỳ, bằng 52,6% dự toán cả năm, là khoản chi lớn nhất trong tổng chi thường xuyên. Còn lại 4/11 khoản chi thấp so cùng kỳ như chi sự nghiệp văn hóa thông tin, thể dục thể thao đạt 77 tỷ đồng, bằng 97,6% so cùng kỳ; chi đảm bảo xã hội đạt 228,7 tỷ đồng, giảm 9%; chi sự nghiệp bảo vệ môi trường đạt 135,2 tỷ đồng, giảm 11,9% và chi khác của ngân sách đạt mức chi thấp, đạt 45,4% cùng kỳ.
Trong 8 tháng đầu năm 2018, khoản chi đạt khá cao so với dự toán là: chi quốc phòng an ninh đạt 85,5% dự toán; chi cho sự nghiệp khoa học và công nghệ đạt 21 tỷ đồng, tăng 4,5% so cùng kỳ và đạt 75,7% dự toán năm. Có 3/11 khoản chi trong 8 tháng đầu năm 2018 đạt mức chi dưới 50% so dự toán năm 2018 như: Chi sự nghiệp phát thanh truyền hình bằng 40,7% dự toán; chi sự nghiệp bảo vệ môi trường bằng 36,3% dự toán; chi khác ngân sách đạt 38,2%.
3. Hoạt động Ngân hàng
- Tình hình thực hiện lãi suất: Mặt bằng lãi suất huy động và cho vay bằng đồng Việt Nam tương đối ổn định so với năm 2017. Từ giữa tháng 01/2018, một số ngân hàng đã điều chỉnh giảm lãi suất cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn đối với khách hàng thuộc lĩnh vực ưu tiên.
Lãi suất huy động VNĐ của các tổ chức tín dụng phổ biến ở mức 0,6-1%/năm đối với lãi suất huy động tiền gửi không kỳ hạn hoặc có kỳ hạn dưới 1 tháng, từ 4,3-5,5%/năm đối với kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng, từ 5,3-7,3%/năm đối với kỳ hạn từ 6 tháng trở lên.
Về lãi suất cho vay: Lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VNĐ là từ
6-9%/năm đối với cho vay ngắn hạn và 9-11%/năm đối với cho vay trung và dài hạn.
- Hoạt động huy động vốn: Nguồn vốn huy động của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng (không bao gồm ngân hàng Phát triển) đến 31/8/2018 đạt 51.780 tỷ đồng, tăng 10,44% so với 31/12/2017 và tăng 18,03% so với cùng kỳ năm 2017. Ước đến 30/9/2018 đạt 52.400 tỷ đồng, tăng 10,7% so với 31/12/2017.
- Dư nợ cho vay của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng (không bao gồm Ngân hàng Phát triển) đến 31/8/2018 đạt 49.247 tỷ đồng tăng 6,64% so với 31/12/2017 và tăng 14,23% so với cùng kỳ năm 2017. Ước đến 30/9/2018 đạt 49.800 tỷ đồng, tăng 6,32% so với 31/12/2017.
Nợ xấu đến 31/8/2018 là 473 tỷ đồng chiếm 0,96%/tổng dư nợ.
Tình hình tín dụng trên địa bàn tăng đều qua các tháng năm 2018 với mức tăng trưởng tín dụng đến 31/8/2018 là 6,64% thấp hơn tăng trưởng tín dụng toàn ngành (toàn ngành là 8,54%). Cơ cấu tín dụng tiếp tục tập trung vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên gắn với đảm bảo chất lượng tín dụng, góp phần hỗ trợ kinh tế trên địa bàn.
II. Giá cả
Diễn biến chỉ số giá tiêu dùng từ đầu năm liên tục có xu hướng tháng sau tăng hơn tháng trước, riêng chỉ có tháng 3/2018 chỉ số giá tiêu dùng giảm nhẹ (giảm 0,26% so với tháng trước), còn lại 8 tháng có chỉ số giá tiêu dùng tăng. Nguyên nhân chủ yếu là do Nhà nước điều chỉnh tăng giá điện vào 01/12/2017; giá nước vào tháng 01/2018 và điều chỉnh tăng học phí theo lộ trình... Bên cạnh đó có các yếu tố tác động đến mức giảm chỉ số giá chung là: giá viện phí giảm và giá nhóm thiết bị điện thoại giảm nên chỉ số giá nhóm thuốc và dịch vụ y tế; nhóm bưu chính viễn thông giảm.
Diễn biến chỉ số giá theo Quý của năm 2018 so với Quý trước đều tăng, trong đó, Quý I/2018 chỉ số giá tiêu dùng tăng thấp nhất với mức tăng 0,91%; Quý II/2018 tăng 1,03% và tăng cao nhất là Quý III/2018 với mức tăng 1,87% so với quý II/2018 (do trong quý 3 giá thực phẩm tăng cao nhất ở tháng 8/2018).
Bình quân 9 tháng đầu năm 2018, chỉ số giá tiêu dùng tăng 2,95% so với bình quân cùng kỳ, trong đó, nhóm hàng hóa tăng 3,49% và nhóm dịch vụ tăng 1,85%.
Tính riêng tháng 9/2018, do chỉ số giá nhóm lương thực và thực phẩm vẫn tăng so với tháng trước và nhóm xăng, dầu, gas được điều chỉnh tăng nên chỉ số giá tiêu dùng tiếp tục tăng 0,44% so với tháng trước.
Có 6/11 nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng có chỉ số giá tăng so với tháng trước. Trong đó, nhóm giáo dục tăng 2,4% (trong đó, chỉ số giá dịch vụ giáo dục tăng 2,8% là do giá học phí trung học phổ thông tăng 4,1%; học phí đại học tăng 9%; đồ dùng học tập tăng 0,71%); nhóm giao thông tăng 0,75% (do giá phương tiện đi lại tăng 0,06%; giá nhiên liệu tăng 1,76%; giá dịch vụ xe buýt tăng 2,16%); nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,74% (nhóm lương thực tăng 0,38%; nhóm thịt gia cầm tươi sống tăng 1,03%, thịt lợn giảm 1%; thủy sản tươi sống tăng 0,11%); các nhóm còn lại tăng trong khoảng từ 0,1% đến 0,3% như: nhóm may mặc, mũ nón tăng 0,24%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,3%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,13%. Có 3/11 nhóm hàng hóa có chỉ số giảm như: nhóm nhà ở, điện nước và chất đốt giảm 0,16% (do vật liệu bảo dưỡng nhà ở giảm 0,7% và sử dụng điện giảm nên giá bình quân giảm 2,5%); nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,19%; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,21% (do giá tua du lịch trong nước giảm 2,1%) . Còn lại có 2/11 nhóm hàng hóa có chỉ số giá tương đương tháng trước là nhóm đồ uống và thuốc lá; nhóm thuốc và dịch vụ y tế.
So với tháng 12/2017, chỉ số giá tiêu dùng tăng 4,5%. Có 9/11 nhóm hàng hóa và dịch vụ trong rổ hàng hóa tiêu dùng có chỉ số giá tăng (hàng hóa tăng 5,91%; dịch vụ tăng 1,64%). Trong nhóm hàng hóa, tăng nhiều nhất là nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống với mức tăng 9,69% (do giá thịt gia súc tươi sống tăng 39,95%, thịt chế biến tăng 19,39%; trứng tăng 8,13%; giá lương thực tăng 3%); nhóm giao thông tăng 6,39% (do giá nhiên liệu tăng 11,72%; giá bảo dưỡng phương tiện đi lại tăng 9,16%; dịch vụ khác cho phương tiện cá nhân tăng 6,9%); nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt tăng 3,37% (do giá nhà ở tăng 2,33%; nước sinh hoạt và dịch vụ nước tăng 4,73%; điện và dịch vụ điện tăng 7,83%); nhóm hàng hóa và dich vụ khác tăng 3,69% (giá hiếu hỉ tăng 6,62%; lệ phí công chứng, bảo hiểm tăng 4,3%; dịch vụ khác tăng 4,3%); nhóm giáo dục tăng 2,94%; Có 4/11 nhóm hàng hóa tăng nhẹ trong khoảng từ 0,05% đến 1,3% và 2/11 nhóm có chỉ số giá giảm như: nhóm thuốc và dịch vụ y tế giảm 3,07% và nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,87% (Trong đó, giá dịch vụ y tế giảm 4,34% là do giá khám chữa bệnh nội trú, ngoại trú giảm; giá máy điện thoại di động giảm 5,07%).
So với tháng cùng kỳ năm trước (tháng 9/2017), chỉ số giá tiêu dùng tháng 9/2018 tăng 4,85%; trong đó tăng nhiều nhất là nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống với mức tăng 9,02% (nhóm lương thực tăng 6,01%; nhóm thịt gia súc tươi sống tăng 29,16%; thịt chế biến tăng 14,85%); nhóm giao thông tăng 8,46% (do giá nhiên liệu tăng 17,41%; giá bảo dưỡng phương tiện đi lại tăng 9,16%; giá dịch vụ khác phục vụ cá nhân tăng 6,9%); nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 4,83% (giá gas và các loại chất đốt tăng 8,43%; điện và dịch vụ điện tăng 4,93%; nước sinh hoạt và dịch vụ nước tăng 7,12%); nhóm giáo dục tăng 2,96%, trong đó giá dịch vụ giáo dục tăng 2,8% (do giá học phí THPT tăng 4,1%; học phí đại học tăng 8,99%); còn lại 4/11 nhóm hàng hóa và dịch vụ tăng nhẹ trong khoảng từ 0,14% đến 1,67% và 2/11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá giảm so với cùng kỳ là: thuốc và dịch vụ y tế giảm 3,07%,và nhóm bưu chính viễn thông giảm 1,06% (do giá nhóm điện thoại di động giảm 6,14%).
Tính riêng Quý III/2018, bình quân chỉ số giá tăng 4,64% so với bình quân Quý III/2017 và tăng hầu hết ở các nhóm hàng hóa, dịch vụ; trong đó tăng nhiều nhất là nhóm giao thông, tăng 9,49% (do nhóm nhiên liệu tăng 20,63%; giá bảo dưỡng phương tiện đi lại tăng 9,16%); tiếp đến là nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống, tăng 7,81% (nhóm lương thực tăng 5,71%; giá thịt gia súc tươi sống tăng 25,89%).
Chỉ số giá vàng tháng 9/2018 giảm 0,58% so với tháng trước và giảm 5,6% so với cùng kỳ năm trước. Tính riêng quý III, chỉ số giá vàng giảm 1,62% so với cùng kỳ. Bình quân 9 tháng 2018 chỉ số giá vàng tăng 3,47% so với cùng kỳ và chủ yếu tăng cao ở các tháng trong Quý I/2018.
Chỉ số giá Đô la Mỹ tháng 9/2018 tăng 0,12% so tháng trước và tăng 2,46% so với cùng kỳ. Bình quân quý III năm 2018 tăng 2,01% so bình quân quý III/2017. Bình quân 9 tháng 2018 Chỉ số giá Đô la Mỹ tăng 0,79% so với bình quân cùng kỳ.
III. Đầu tư và xây dựng
1. Tình hình đầu tư
Tháng 7/2018 tỉnh Thái Nguyên đã tổ chức Hội nghị xúc tiến đầu tư năm 2018 với chủ đề “Thái Nguyên - tiềm năng phát triển và cơ hội đầu tư”. Kết quả tại Hội nghị đã có 50 dự án đã được trao Quyết định phê duyệt chủ trương đầu tư, giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, biên bản ghi nhớ đầu tư với tổng vốn đăng ký đầu tư gần 47 nghìn tỷ đồng. Sau hội nghị Xúc tiến đầu tư, tỉnh đã thành lập Ban chỉ đạo thực hiện triển khai các dự án đầu tư vào tỉnh nhằm huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị trong việc giải quyết, tháo gỡ khó khăn vướng mắc cho doanh nghiệp, nhà đầu tư như: Đã tổ chức làm việc và tiếp xúc với 11 nhà đầu tư; tiếp nhận thông tin của 03 Nhà đầu tư; thống nhất ký Biên bản ghi nhớ đầu tư 03 Nhà đầu tư sau Hội nghị; xây dựng Kế hoạch triển khai chi tiết của từng dự án đã ký kết; lập kế hoạch mời các nhà đầu tư đến làm việc hướng dẫn hoàn thiện các dự án đầu tư...
Tính chung Chín tháng năm 2018, tình hình thực hiện vốn đầu tư trên địa bàn của khu vực vốn trong nước tăng. Thực hiện giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công năm 2018 dự kiến đảm bảo hoàn thành kế hoạch vốn đến hết năm 2018, nhiều dự án đã giải ngân 100% kế hoạch vốn; bên cạnh đó một số dự án có tỷ lệ giải ngân thấp như vốn xổ số kiến thiết, vốn Trái phiếu Chính phủ. Tuy nhiên hiện nay các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài có quy mô lớn trên địa bàn đã cơ bản hoàn thiện và đi vào sản xuất nên vốn đầu tư tính chung trên địa bàn quý III và 9 tháng giảm hơn so với cùng kỳ.
Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trên địa bàn ước tính 9 tháng đầu năm 2018 đạt 36,6 nghìn tỷ đồng, giảm 8,9% so với cùng kỳ, trong đó giảm toàn bộ là ở khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, ước đạt 19,5 nghìn tỷ đồng (chiếm 53,3% tổng mức đầu tư trên địa bàn), giảm 20,3% cùng kỳ; vốn đầu tư của khu vực kinh tế trong nước ước đạt 17 nghìn tỷ đồng, tăng 8,2% so với cùng kỳ (vốn đầu tư do nhà nước quản lý 2,9 nghìn tỷ đồng, tăng 25,1%; vốn đầu tư của dân cư và tư nhân 14,2 nghìn tỷ đồng, tăng 6% cùng kỳ.
- Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài: Tính từ đầu năm đến đầu tháng 9/2018 trên địa bàn tỉnh có 9 dự án được cấp giấy chứng nhận đầu tư mới với tổng vốn đầu tư đăng ký là 33,12 triệu USD; trong đó, có 8 dự án trong khu công nghiệp và 1 dự án ở ngoài khu công nghiệp. So với cùng kỳ số dự án FDI cấp phép mới giảm 1 và vốn đăng ký tăng 26,3 triệu USD. Lũy kế đến đầu tháng 9/2018, trên địa bàn tỉnh hiện có 134dự án FDI còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký đạt 7.295,5 triệu USD(tương đương khoảng166nghìn tỷ đồng), trong đó vốn giải ngân đạt khoảng 91%.

2.Xây dựng
Giá trị sản xuất xây dựng quý III năm 2018 trên địa bàn ước đạt 5,5 nghìn tỷ đồng, tăng 15,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó, đơn vị xây dựng có vốn trong nước thực hiện 5,45 nghìn tỷ đồng, tăng 20,8% cùng kỳ.
Tính chung 9 tháng đầu năm 2018, tổng giá trị sản xuất xây dựng ước đạt 14,5 nghìn tỷ đồng, tăng 10,8% so với cùng kỳ. Trong đó, tăng cao nhất là doanh nghiệp ngoài quốc doanh đạt 7,2 nghìn tỷ đồng, tăng 16,5%, xây dựng khối cá thể và hộ dân cư đạt 6,8 nghìn tỷ đồng tăng 12,8% cùng kỳ.
3. Tình hìnhcấp giấy chứng nhận đầu tư và đăng ký doanh nghiệp
Tính từ đầu năm đến đầu tháng 9/2018 toàn tỉnh cấp mới đăng ký kinh doanh cho 518 doanh nghiệp (tương đương với cùng kỳ), với số vốn đăng ký là 3,1 nghìn tỷ đồng; tạo điều kiện làm việc cho 5,3 nghìn người lao động. Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp đạt 6,1 tỷ đồng (bình quân cùng kỳ là 7 tỷ đồng/1 doanh nghiệp). Ngoài ra còn có 315 doanh nghiệp tạm ngừng đã hoạt động trở lại. Trong tổng số doanh nghiệp đăng ký mới, nếu chia theo lĩnh vực hoạt động, có 179 doanh nghiệp đăng ký hoạt động ngành Thương mại bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô tô, xe máy (chiếm 45,6% tổng số doanh nghiệp thành lập mới); 89 doanh nghiệp xây dựng (chiếm 17,2%); 83 doanh nghiệp công nghiệp chế biến, chế tạo (chiếm 16%); còn lại các doanh nghiệp thuộc các ngành khác như vận tải, khai khoáng, thu gom rác thải, nông, lâm và thủy sản...
Nếu chia theo các huyện, tập trung nhiều nhất là ở TP Thái Nguyên có 276 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới (chiếm 53,5%); Thị xã Phổ Yên có 93 doanh nghiệp mới thành lập (chiếm 17,9%); TP Sông Công có 42 doanh nghiệp (chiếm 8%), còn lại nằm rải rác ở các huyện khác.
Tuy nhiên trong 9 tháng đầu năm cũng đã có 238 doanh nghiệp xin tạm ngừng hoạt động và 394 doanh nghiệp đóng mã số thuế.
IV. Sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản và thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới
1. Trồng trọt
Tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm vụ Mùa đạt 54 nghìn ha, bằng 103,1% so kế hoạch nhưng giảm 1,2% so với diện tích gieo trồng vụ Mùa 2017 và giảm hầu hết ở các loại cây, riêng chỉ có cây rau các loại tăng 3,6% so với vụ Mùa năm 2017.
- Cây lúa:Tổng diện tích lúa Mùa năm 2018 đạt 40,55 nghìn ha, bằng 102,7% kế hoạch nhưng giảm 0,6% so với diện tích lúa Mùa năm 2017. Tất cả 9/9 địa phương đều đạt và vượt kế hoạch gieo cấy lúa. So với cùng kỳ có 3/9 huyện, thành, thị có diện tích tăng như: huyện Võ Nhai tăng 3,2%; huyện Phú Bình tăng 0,2%; huyện Đại Từ tăng 1%; còn lại 6/9 huyện có diện tích gieo cấy lúa giảm so với vụ Mùa năm 2017 do một số diện tích chuyển mục đích sử dụng đất.
Trong tổng diện tích lúa vụ Mùa 2018, diện tích giống lúa lai và lúa thuần là 11,6 nghìn ha, chiếm khoảng 28% diện tích lúa vụ Mùa. Để khuyến khích chuyển đổi giống lúa năng suất cao, hàng năm địa phương có chính sách hỗ trợ giống lúa lai và hỗ trợ vùng sản xuất lúa thuần tập trung, tuy nhiên qua các năm diện tích tăng không nhiều.
Hiện nay một số địa phương đã thu hoạch trà lúa mùa sớm. Nhìn chung vụ mùa năm nay cây lúa sinh trưởng và phát triển tốt, khả năng năng suất sẽ tương đương hoặc cao hơn so với cùng kỳ năm trước.
Tình hình sâu bệnh: Tính đến ngày 20/9/2018 diện tích nhiễm sâu, bệnh khoảng là 2,6 nghìn ha (giảm hơn so với diện tích sâu bệnh thời điểm cùng kỳ). Trong đó, chủ yếu là bệnh khô vằn 1,7 nghìn ha, rầy nâu khoảng 900 ha. Ngoài ra còn có diện tích nhiễm do bọ xít muỗi, chuột xuất hiện với tỷ lệ hại thấp. Ngành chức năng và các địa phương chủ động theo dõi diễn biến của các đối tượng gây hại để chủ động các biện pháp phòng trừ kịp thời, đảm bảo năng suất cây trồng.
- Cây hàng năm khác:Tổng diện tích gieo trồng một số cây hàng năm vụ Mùa đạt 13,4 nghìn ha, giảm 3,2% (-431 ha) so với vụ Mùa năm 2017. Trong đó, cây ngô đạt 4,83 nghìn ha, bằng 101,6% kế hoạch và giảm 2% (-96 ha) so với vụ Mùa 2017; các cây hàng năm khác diện tích trồng nhỏ lẻ, hiệu quả thấp nên đều giảm so với cùng kỳ (cây khoai lang trồng được 639 ha, giảm 14,3% so cùng kỳ; cây đỗ tương 221 ha, giảm 15% so cùng kỳ; cây lạc 560 ha, giảm 8,3% so cùng kỳ; đậu các loại 196 ha, giảm 16,6%...); riêng chỉ có cây rau các loại gieo trồng được 3.309 ha, bằng 110,3% so kế hoạch và tăng 3,6% so cùng kỳ.
- Cây lâu năm:
Cây ăn quả: Hiện nay diện tích cây nhãn và vải trên địa bàn là khoảng 4 nghìn ha, chiếm 25% tổng diện tích cây ăn quả, tuy nhiên hiệu quả kinh tế thấp nên đã dần được trồng thay thế sang các cây ăn quả khác hoặc trồng mới cây chè có giá trị kinh tế cao hơn. Diện tích cây ăn quả trồng mới 9 tháng 2018 đạt 905 ha, tăng 0,6% cùng kỳ với các giống cây như bưởi 232 ha, chuối 190 ha, thanh long 71 ha và cam 45 ha...
Cây chè: Tổng diện tích chè hiện có tính đến tháng 9/2018 là 23 nghìn ha, tăng 7,7% so cùng kỳ và chiếm khoảng 60% diện tích cây lâu năm. Sản lượng chè búp tươi 9 tháng 2018 ước đạt 192,2 nghìn tấn, tăng 10,4% cùng kỳ (trong đó do yếu tố năng suất tăng khoảng 3% và do diện tích tăng 7,4%).
Dự ước diện tích trồng mới và trồng lại 9 tháng đầu năm 2018 đạt 779 ha, tăng 34,5% so cùng kỳ và bằng 100,3% kế hoạch cả năm. Trong đó, diện tích trồng mới đạt 371 ha, tăng 68,4% so cùng kỳ và diện tích trồng lại đạt 408 ha, bằng 63,6% kế hoạch cả năm.
Công tác tập huấn, chuyển giao khoa học kỹ thuật: Trong 9 tháng tổ chức 64 lớp tập huấn với 3,5 nghìn người tham gia về kỹ thuật sản xuất chè an toàn chất lượng và các mô hình chứng nhận sản xuất chè an toàn.
Tình hình sâu bệnh trên cây chè: Diện tích bị nhiễm bệnh khoảng 675,5 ha, trong đó rầy xanh khoảng 373 ha; bọ cánh tơ khoảng 167 ha, bọ xít muỗi 121 ha… Các địa phương chủ động theo dõi diễn biến các đối tượng gây hại để chỉ đạo các biện pháp phòng trừ đạt hiệu quả, đảm bảo năng suất cây chè.
2. Chăn nuôi
Chín tháng đầu năm 2018, trên địa bàn không xảy ra dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm trên đàn gia súc, gia cầm. Công tác thanh tra, kiểm tra, quản lý thuốc, vệ sinh thú y, kiểm dịch vận chuyển, kiểm soát giết mổ, được duy trì thực hiện. Ngành chức năng đã chỉ đạo các địa phương triển khai thực hiện nghiêm túc các biện pháp phòng, chống bệnh đối với dịch tả lợn Châu Phi đã và đang xuất hiện tại Trung Quốc.
Nhìn chung, tình hình chăn nuôi trong Chín tháng đầu năm 2018 thuận lợi, từ tháng 4/2018 giá bán bình quân thịt hơi và giá bán con giống tăng nên đời sống hộ chăn nuôi được cải thiện nhiều so với năm 2017. Hiện nay giá bán sản phẩm chăn nuôi đang duy trì đứng giá ở mức cao. Giá bán bình quân thịt lợn hơi tháng 9/2018 là 51 nghìn đồng, tăng 20 nghìn đồng/kg (+70,7%) so với tháng 9/2017; gà ta thịt hơi là 90 nghìn đồng, tăng 7,8% và gà công nghiệp lông trắng là 50 nghìn đồng, tăng 19 nghìn đồng/kg (+62%). Đặc biệt là giá lợn giống tăng cao, gấp 2,4 lần với mức giá từ 1,2 triệu đồng đến 1,3 triệu đồng/1 con giống.
Tính chung quý 3/2018 chỉ số giá bán sản phẩm chăn nuôi chung của người sản xuất tăng 25,46% so với quý 2/2018, tăng 62,3% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, chỉ số giá bán thịt lợn hơi tăng 27,9% so quý trước (quý 2/2018); giá gà lông trắng tăng 10,17%.
Công tác phòng trừ dịch bệnh, tiêm phòng cho đàn gia súc, gia cầm được các địa phương triển khai theo kế hoạch. Số lượng tiêm phòng vắc xin 2 đợt trong 9 tháng đầu năm 2018, kết quả như sau: Vắc xin Tụ huyết trùng trâu, bò khoảng 95.260 liều/105.000 liều; Vắc xin Lở mồm long móng trâu, bò, lợn 178.375/180.000 liều; Vắc xin Dịch tả lợn 398.510 liều/450.000 liều; Vắc xin Tụ Dấu lợn 289.620 liều/330.000 liều; Vắc xin Dại chó là 156.950 liều/164.000 liều; Vắc xin Lepto là 8 nghìn liều đạt 100% kế hoạch; Vắc xin Tai xanh là 14.750 liều/17.000 liều.
Dự tính đến thời điểm 30/9/2018: Đàn trâu khoảng 58,6 nghìn con, giảm 2,64% so cùng kỳ; đàn bò khoảng 46,7 nghìn con, tăng 3,5% so cùng kỳ; đàn lợn khoảng 675,5 nghìn con, tăng 7,5%; đàn gia cầm khoảng 12,1 triệu con, tăng 6,6% so cùng kỳ, trong đó đàn gà 10,5 triệu con tăng 7,4% so cùng kỳ.
Theo kết quả điều tra chăn nuôi, tại thời điểm 1/7 hàng năm, toàn tỉnh có 773 trang trại chăn nuôi, tăng 30 trang trại (+4%) so với năm 2017 và chủ yếu tăng ở trang trại nuôi gà. Trong tổng số, trang trại nuôi lợn là 320, giảm 77 trang trại; trang trại gà là 453, tăng 107 trang trại. Số lao động thường xuyên của trang trại là 2,3 nghìn người. Giá trị sản phẩm và dịch vụ bán ra của trang trại là 1.590 tỷ đồng/năm. Bình quân 1 trang trại đạt 2 tỷ đồng, giảm so với mức 2,8 tỷ đồng/1 trang trại của năm 2017 do giá trị sản phẩm bán ra của trang trại nuôi gà nhỏ hơn trong khi cơ cấu trang trại tăng về số lượng trang trại nuôi gà và giảm trang trại nuôi lợn.
3. Lâm nghiệp
Công tác trồng mới và chăm sóc rừng Trồng mới rừng: Trồng rừng tập trung năm 2018 toàn tỉnh đạt 5.946 ha, chủ yếu là rừng sản xuất với 5.373 ha (chiếm 90,3%); rừng đặc dụng là 97,5 ha và rừng phòng hộ 475,5 ha. Trong đó, trồng rừng mới theo Chương trình mục tiêu phát triển lâm nghiệp bền vững năm 2018 đạt 3.164,08 ha, bằng 104,1% so kế hoạch. Số lượng cây trồng rừng phân tán đạt 1,16 triệu cây, giảm 0,62 triệu cây (-35%) so cùng kỳ.
Chín tháng 2018, diện tích rừng được chăm sóc 1,28 nghìn ha, giảm 3,2% cùng kỳ và bằng 96,7% kế hoạch; khoanh nuôi tái sinh 3,07 nghìn ha, gấp 2,7 lần cùng kỳ và bằng 100% kế hoạch ; diện tích rừng giao khoán bảo vệ là 16,8 nghìn ha, giảm 11,5% cùng kỳ và bằng 70,5% kế hoạch...
Công tác tuyên truyền quản lý và bảo vệ rừng: Tính chung từ đầu năm đến tháng 9/2018, ngành chức năng phối hợp tổ chức 104 lớp tuyên truyền về pháp luật quản lý, bảo vệ và phát triển rừng với 4,4 nghìn lượt người tham gia. Bên cạnh đó, thực hiện chuyên mục quản lý bảo vệ rừng trên sóng truyền hình; tiếp nhận 02 cá thể gấu ngựa của hộ gia đình để bàn giao về trang trại bảo tồn gấu Quốc gia.
Công tác khai thác lâm sản: Sản lượng khai thác 9 tháng 2018 ước đạt 111 nghìn m3gỗ, tăng 5,7% so cùng kỳ; 196,9 nghìn ste củi, tăng 6,1% so với cùng kỳ.
Kết quả ngăn chặn và xử lý các hành vi vi phạm Luật bảo vệ và phát triển rừng: Lũy kế 9 tháng đầu năm 2018 xảy ra 1 vụ cháy rừng với diện tích 0,2 ha do xử lý thực bì gây cháy lan (so với cùng kỳ giảm 3 vụ cháy rừng và giảm 9,2 ha); đã xử lý 196 vụ vi phạm Luật Bảo vệ và phát triển rừng (giảm 27,1% so cùng kỳ), tịch thu 310 m3gỗ quy tròn các loại (giảm 31,5%), trong đó gỗ quý hiếm quy tròn 49m3và 31 phương tiện các loại... Thu nộp ngân sách nhà nước 1,901 tỷ đồng, giảm 1% so với cùng kỳ (1,922 tỷ đồng).
4. Thủy sản
Tính đến hết tháng 9/2018, dự ước sản xuất giống thủy sản trên địa bàn đạt 450 triệu con cá bột, 40 triệu con cá giống các loại. Sản lượng thủy sản thương phẩm 9 tháng năm 2018 đạt khoảng 8,4 nghìn tấn, tăng 11,5% so cùng kỳ; trong đó, sản lượng nuôi trồng thủy sản ước đạt 8,2 nghìn tấn, chiếm 98,3% tổng sản lượng thủy sản, tăng 11,5% so cùng kỳ và bằng 70,2% kế hoạch năm 2018.
5. Tiến độ thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới
Kết quả thực hiện tiêu chí huyện nông thôn mới: có 2 đơn vị cấp huyện là thành phố Thái Nguyên và thành phố Sông Công đạt nông thôn mới, đạt sớm, trước thời gian so với mục tiêu phấn đấu.
Hiện nay toàn tỉnh có 139 xã thực hiện xây dựng nông thôn mới trên địa bàn (không bao gồm 4 đơn vị đã lên phường, thị trấn). Trong đó 64 xã đạt 19/19 tiêu chí chuẩn Nông thôn mới. Còn lại 75 xã, kết quả như sau: có 10 xã đạt từ 15 - 18 tiêu chí; có 62 xã đạt từ 10 - 14 tiêu chí; có 3 xã đạt từ 8 - 9 tiêu chí. Bình quân đạt 15,3 tiêu chí đạt trên 01 xã. Trong số các tiêu chí nông thôn mới chưa đạt, tiêu chí về môi trường và an toàn thực phẩm còn đạt thấp nhất, tiếp đến là tiêu chí về giao thông, tiêu chí về cơ sở vật chất văn hóa... nên cần phải quan tâm, đầu tư thực hiện.
Tổng số vốn huy động nguồn lực thực hiện cho nông thôn tính từ đầu năm đến cuối tháng 8/2018 là 8.100 tỷ đồng; trong đó vốn ngân sách Trung ương 163 tỷ đồng; vốn ngân sách địa phương 547 tỷ đồng; vốn lồng ghép 261 tỷ đồng; vốn của ngân hàng cho người dân vay phát triển sản xuất 6.510 tỷ đồng; vốn doanh nghiệp 318 tỷ đồng; cộng đồng dân cư đóng góp 301 tỷ đồng.
IV. Sản xuất công nghiệp
Chỉ số tiêu thụ sản phẩm công nghiệp tháng tháng 8/2018 vừa qua tăng 12,24% so với cùng kỳ; tính chung 9 tháng 2018 chỉ số tiêu thụ sản phẩm công nghiệp ước tính tăng 10,22%; trong đó, chỉ số tiêu thụ nhóm sản xuất trang phục 9 tháng tăng 20,3% so với mức tiêu thụ cùng kỳ; nhóm sản phẩm điện tử chỉ số tiêu thụ tăng 10,7%; giấy và sản phẩm từ giấy tăng 29%; chế biến gỗ và sản phẩm từ gỗ tăng 41,5% ... Riêng nhóm sản xuất kim loại và xi măng chỉ số tiêu thụ giảm so cùng kỳ do thời tiết mưa nhiều và do năng lực cạnh tranh thấp. Lượng tồn kho của các đơn vị sản xuất công nghiệp tính đến đầu tháng 9/2018 như sau: xi măng tồn kho 48,7 nghìn tấn, tăng 75,2% so với cùng kỳ; sắt thép tồn 187 nghìn tấn, tăng 33,6%; sản phẩm may tồn 5,7 triệu sản phẩm, tăng 9,6%, điện thoại thông minh và máy tính bảng tồn 2,1 triệu sản phẩm...
Số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 1/9/2018 tăng 0,51% so cùng thời điểm tháng trước, tăng 2,14% so với thời điểm cùng kỳ. Tính chung 9 tháng đầu năm 2018, lao động doanh nghiệp công nghiệp tăng 4,6% so với cùng kỳ, trong đó lao động doanh nghiệp nhà nước giảm 1,43%; lao động doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng 13% (do có sự chuyển đổi loại hình từ doanh nghiệp có vốn nước ngoài về doanh nghiệp ngoài nhà nước) và lao động doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 3,82%.
Với tình hình sản xuất, tiêu thụ như trên, dự ước chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp trên địa bàn tháng 9/2018 tăng 5,2% so với tháng trước, tăng 12,8% với cùng kỳ. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến chế tạo tăng 5,1% so với tháng trước và tăng 13% so với cùng kỳ; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước tăng 16,3% so với tháng trước và tăng 5% so với cùng kỳ; ngành công nghiệp khai khoáng tăng 4,6% so với tháng trước và tăng 7,6% so với cùng kỳ.
Về sản phẩm công nghiệp chủ yếu sản xuất tháng 9/2018: Nhóm sản phẩm ước tính sản lượng tăng trên 10% so với cùng kỳ là: than khai thác đạt 94,6 nghìn tấn, tăng 12,2%; đồng tinh quặng (Cu<20%) đạt 4,5 nghìn tấn, tăng 12,2%; sản phẩm may đạt 5,6 triệu sản phẩm, tăng 11,8%; sắt thép các loại đạt 135,2 nghìn tấn, tăng 10,7%. Nhóm sản phẩm ước tính tăng dưới 10% hoặc giảm so cùng kỳ là: vonfram và sản phẩm của vonfram 1,3 nghìn tấn, tăng 9,5%; điện sản xuất đạt 94 triệu Kwh, tăng 6,8%; gach xây dựng bằng gốm, sứ đạt 5,4 triệu viên, tăng 7,1%; máy tính bảng đạt 1,7 triệu cái, tăng 3%; điện thương phẩm đạt 430 triệu Kwh, tăng 2,6%; thiết bị và dụng cụ khác trong y khoa đạt 71,8 triệu cái, giảm 3,1%; nước máy thương phẩm đạt 3 triệu m3, giảm 3,8%; xi măng đạt 133,4 nghìn tấn, giảm 6,8%; điện thoại thông minh sản xuất 7,7 triệu sản phẩm, giảm 7,7% cùng kỳ, trong đó giảm ở nhóm điện thoại có giá dưới 6 triệu đồng/cái; còn nhóm điện thoại có giá từ 6 triệu đồng trở lên đạt 1,7 triệu cái, tăng 45,6% cùng kỳ.
Ước tính chỉ số sản xuất công nghiệp quý III/2018 tăng 12% so với cùng kỳ; trong đó, tăng cao nhất là ngành công nghiệp chế biến, chế tạo với mức tăng 12,3%, ngành sản xuất và phân phối điện tăng 8%, ngành khai khoáng tăng 3%, riêng ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 3,6% (do đơn vị chiếm tỷ trọng lớn đang tạm dừng hoạt động để bảo dưỡng và sửa chữa).
Sản phẩm chủ yếu quý III/2018: nhóm sản phẩm công nghiệp tăng trên 10% so với cùng kỳ như: mạch điện tử tích hợp ước đạt 25,4 triệu sản phẩm, tăng 44,1%; camera truyền hình 10,6 triệu sản phẩm, tăng 31,4%; sản phẩm may 18,9 triệu sản phẩm, tăng 23%... Nhóm sản phẩm ước tính tăng dưới 10% hoặc giảm so cùng kỳ là: điện thương phẩm 1.290 triệu Kwh, tăng 8,7%; điện sản xuất đạt 240 triệu Kwh, tăng 7,3%; than khai thác 261 nghìn tấn, tăng 8,5%; đồng tinh quặng (Cu>20%) đạt 13,3 nghìn tấn, tăng 8,4%; gạch xây dựng bằng gốm, sứ đạt 17,2 triệu viên, tăng 3,9%; máy tính bảng 5 triệu sản phẩm, giảm 2%; vonfram và sản phẩm của vonfram 4,1 nghìn tấn, giảm 3,8%; xi măng 409 nghìn tấn, giảm 6,6%; sắt thép các loại 312 nghìn tấn, giảm 22,7%; thiết bị và dụng cụ khác trong y khoa 286 triệu sản phẩm, giảm 10%; điện thoại thông minh 22,3 triệu sản phẩm, giảm 12,6% do cơ cấu chủng loại thay đổi (trong đó, điện thoại có giá dưới 3 triệu giảm 17,8%; điện thoại có giá từ 3 đến 6 triệu giảm 33,7% và điện thoại có giá từ 6 triệu trở lên tăng 66%)...
Tính chung 9 tháng đầu năm 2018, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp ước tính tăng 12,2% so với cùng kỳ; trong đó đóng góp lớn nhất là do ngành công nghiệp chế biến chế tạo với mức tăng 12,4% (tăng cao ở các nhóm ngành sản xuất đồ uống tăng 23,3%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 21,2%; chế biến gỗ tăng 20,8%; sản xuất trang phục tăng 17,1% và sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 13,4%); bên cạnh đó các ngành công nghiệp về điện, nước, khai khoáng mức tăng thấp hơn với mức tăng từ 2,2 đến 7,8% so với cùng kỳ như: ngành khai khoáng tăng 4,3%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước tăng 7,8%; ngành cung cấp nước, quản lý, xử lý rác thải, nước thải tăng 2,2%.
Nếu tính theo giá so sánh năm 2010, giáGiá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn 9 tháng đầu năm 2018ước đạt 495 nghìn tỷ đồng, bằng 76,7% kế hoạch. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 30,9 nghìn tỷ đồng, tăng 7,9% so cùng kỳ và bằng 74,4% kế hoạch (bao gồm: công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp địa phương là 18,4 nghìn tỷ đồng, bằng 77% kế hoạch và tăng 12,9% cùng kỳ; công nghiệp nhà nước Trung ương 12,5 nghìn tỷ đồng, bằng 70,8% kế hoạch, tăng 1,2% cùng kỳ) và công nghiệp khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 464,2 nghìn tỷ đồng, bằng 76,8% kế hoạch, tăng 12,1% cùng kỳ.
Nếu tính theo giá hiện hành, Giá trị sản xuất công nghiệp 9 tháng 2018 đạt khoảng 550,4 nghìn tỷ đồng, trong đó ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm tỷ trọng cao nhất với mức 99,2% so với tổng số; ngành công nghiệp khai khoáng chiếm tỷ trọng 0,32% và ngành công nghiệp sản xuất, phân phối điện, nước chiếm khoảng 0,48%. Trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn, công nghiệp có vốn trong nước chỉ chiếm tỷ trọng 10% tổng số, còn lại 90% là giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài nên đã tác động rất lớn đến nhịp độ sản xuất công nghiệp toàn tỉnh.
Về sản phẩm công nghiệp sản xuất 9 tháng đầu năm 2018, nhóm sản phẩm tăng trên 10% so cùng kỳ và đạt trên 80% kế hoạch là: than khai thác 1,1 triệu tấn, tăng 21% cùng kỳ và bằng 89% kế hoạch cả năm; sản phẩm may 51,5 triệu sản phẩm, tăng 17,1% và bằng 84,5% kế hoạch; giấy và bìa 26,4 nghìn tấn, tăng 44,6%; sản xuất dăm gỗ 29,5 nghìn tấn, tăng 52% cùng kỳ; thiết bị và dụng cụ khác trong y khoa đạt 1.035 triệu sản phẩm, tăng 39,7%; đồng tinh quặng (Cu>20%) đạt 35 nghìn tấn, tăng 13,7%; đá khai thác đạt 2,7 triệu m3, tăng 13,3%... Nhóm sản phẩm có sản lượng tăng dưới 10% như: điện sản xuất đạt 1.063 triệu Kwh, tăng 7,8%; phân phối điện (điện thương phẩm) đạt 3.524 triệu Kwh, tăng 7,6% và bằng 70,5% kế hoạch; sắt thép các loại đạt 1,1 triệu tấn, tăng 0,2% cùng kỳ và bằng 75,3% kế hoạch; nước máy thương phẩm đạt 25,5 triệu m3, tăng 0,2% và bằng 74% kế hoạch... Nhóm sản phẩm có sản lượng giảm so với cùng kỳ và đạt thấp so với kế hoạch cả năm là: xi măng 1,4 triệu tấn, giảm 0,1% và bằng 63,8% kế hoạch; gạch xây dựng bằng gốm, sứ đạt 50,4 triệu viên, giảm 4,9%; vonfram và sản phẩm của vonfram đạt 13,1 nghìn tấn, giảm 8,8% và bằng 65,6% kế hoạch; quặng sắt và tinh quặng sắt chưa nung đạt 1,3 triệu tấn, giảm 9,4% so cùng kỳ...
Riêng nhóm sản phẩm điện tử điện thoại thông minh và máy tính bảng cộng dồn 9 tháng đầu năm 2018 ước đạt 84,5 triệu sản phẩm, giảm 5,1% về số lượng sản phẩm so với cùng kỳ và bằng 61,2% kế hoạch cả năm (điện thoại thông minh đạt 69,6 triệu sản phẩm, giảm 5,3%; máy tính bảng đạt 14,9 triệu sản phẩm, giảm 4,6%); tuy nhiên do cơ cấu, chủng loại thay đổi theo hướng giảm sản xuất dòng sản phẩm giá trị nhỏ, tăng số lượng sản xuất dòng sản phẩm có giá trị/1 sản phẩm cao, trong đó nhóm điện thoại có giá từ 6 triệu trở lên ước đạt 18,5 triệu sản phẩm (chiếm gần 30% tổng số), tăng 46,5% so với cùng kỳ và là yếu tố tác động làm tăng chỉ số sản xuất công nghiệp trên địa bàn.
Với kết quả sản xuất của Quý III và ước tính 9 tháng 2018 thì nhiệm vụ để đạt được mục tiêu kế hoạch cả năm thì giá trị sản xuất công nghiệp trong Quý IV/2018 cần đạt 150,6 nghìn tỷ đồng, trong đó công nghiệp Trung ương cần phải đạt giá trị sản xuất là 5,1 nghìn tỷ đồng, tăng 23% so với cùng kỳ; công nghiệp địa phương cần phải đạt 5,5 nghìn tỷ đồng, tăng 8,8% so cùng kỳ và Công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ cần đạt tương đương cùng kỳ thì mục tiêu kế hoạch sản xuất công nghiệp cả năm 2018 trên địa bàn sẽ hoàn thành. Để đạt được mục tiêu trên thì nhiệm vụ của khu vực công nghiệp Nhà nước Trung ương là rất nặng nề, nếu không có sự cải thiện về tiêu thụ sản phẩm các ngành chủ lực và truyền thống của tỉnh như sắt thép và xi măng thì rất khó hoàn thành kế hoạch.
V. Thương mại, giá cả, dịch vụ
1. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng xã hội trên địa bàn tỉnh tháng 9 năm 2018 ước đạt 2,7 nghìn tỷ đồng, tăng 2,1% so với tháng trước, tăng 11,4% so với cùng kỳ. Tính riêng quý III/2018 tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng xã hội trên địa bàn đạt 7,9 nghìn tỷ đồng, tăng 11,6% cùng kỳ. Trong đó, khu vực kinh tế nhà nước đạt 415 tỷ đồng, tăng 11,3%; khu vực kinh tế ngoài nhà nước đạt 7,4 nghìn tỷ đồng, tăng 11,6%; khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 41,6 tỷ đồng, tăng 8,5%.
Tính chung 9 tháng 2018, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng xã hội ước đạt 23,5 nghìn tỷ đồng, tăng 11,6% so với cùng kỳ. Trong đó, khu vực nhà nước ước đạt 1,25 nghìn tỷ đồng, tăng 12,2%; khu vực kinh tế ngoài nhà nước ước đạt 22,14 nghìn tỷ đồng, tăng 11,6% và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 110 tỷ đồng, tăng 8,4% so với cùng kỳ.
Trong tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng, kinh tế cá thể đạt 13.791 tỷ đồng (chiếm 58,7% thị phần bán lẻ), tăng 12% so với cùng kỳ, còn lại là khối doanh nghiệp vốn trong nước đạt 8.346 tỷ đồng (chiếm 35,5%), tăng 10,9%; còn lại 1 phần nhỏ là doanh thu dịch vụ lưu trú của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài FDI.
Nếu phân theo ngành kinh tế, nhóm ngành thương nghiệp bán lẻ ước đạt 18.978 tỷ đồng (chiếm tỷ trọng 80,8%), tăng 12,5% so với cùng kỳ; nhóm dịch vụ lưu trú, ăn uống doanh thu ước đạt 2.004 tỷ đồng, tăng 7,9% so với cùng kỳ; nhóm du lịch lữ hành chỉ chiếm rất nhỏ (đạt 58,6 tỷ đồng, tăng 9,2% so với cùng kỳ) và nhóm dịch vụ tiêu dùng khác ước đạt 2.457 tỷ đồng, tăng 7,8% so với cùng kỳ.
Trong cơ cấu doanh thu bán lẻ, tất cả các mặt hàng thiết yếu phục vụ nhu cầu tiêu dùng 9 tháng đầu năm 2018 đều tăng. Nhóm mặt hàng đạt doanh thu bán lẻ lớn nhất là nhóm lương thực, thực phẩm đạt 6.178 tỷ đồng (chiếm 32,6% doanh thu bán lẻ), tăng 14% so với cùng kỳ; tiếp đến nhóm hàng xăng, dầu các loại ước đạt 2.249 tỷ đồng (chiếm tỷ trọng 11,8%), tăng 9,9%; nhóm đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình đạt 2.145 tỷ đồng (chiếm tỷ trọng 11,3%), tăng 11,3% cùng kỳ; nhóm ô tô các loại đạt 1.984 tỷ đồng, tăng 14,8%; nhóm hàng may mặc đạt 1.461 tỷ đồng, tăng 13,6% so với cùng kỳ năm trước...

2. Xuất, nhập khẩu
a. Xuất khẩu
Tổng trị giá hàng hóa xuất khẩu tháng 9/2018 ước đạt 2,14 tỷ USD, tăng 1% so tháng trước, tăng 0,5% so với cùng kỳ; trong đó, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 2,09 tỷ đồng, giảm 0,6% so với cùng kỳ; khu vực kinh tế trong nước 50 triệu USD, tăng 84% so với cùng kỳ (do có sự chuyển từ loại hình doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sang doanh nghiệp tư nhân vốn trong nước).
Mặt hàng xuất khẩu dự tính tháng 9/2018 tăng trên 10% so cùng kỳ là kim loại màu và tinh quặng kim loại màu đạt 21,9 triệu USD, tăng 20,9%; sản phẩm may đạt 34,4 triệu USD, tăng 25,5% ; chè các loại 0,35 nghìn tấn với trị giá 0,5 triệu USD, tăng 60% về lượng và tăng 38,2% về giá trị; giấy và sản phẩm từ giấy 0,3 triệu USD, tăng 12,2%… Nhóm hàng xuất khẩu tăng thấp hoặc giảm so với cùng kỳ như: sản phẩm từ sắt thép đạt 4,3 triệu USD, tăng 5,4%; nhóm sản phẩm điện thoại các loại và kinh kiện ước đạt 2,07 tỷ USD, giảm 0,3% so với cùng kỳ.
Xuất khẩu hàng hóa trên địa bàn của khu vực trong nước tăng dần qua các quý; trong khi đó khối doanh nghiệp FDI xuất khẩu có xu hướng giảm dần (từ 6,2 tỷ USD của xuất khẩu ở Quý I giảm còn 5,9 tỷ USD ở Quý III/2018). Tuy nhiên tính chung 9 tháng 2018 xuất khẩu trên địa bàn tăng so cùng kỳ ở tất cả các khu vực. Tổng giá trị xuất khẩu trên địa bàn 9 tháng đạt khoảng 18,5 tỷ USD, tăng 8,1% so với giá trị xuất khẩu cùng kỳ và bằng 74% kế hoạch cả năm. Trong đó, xuất khẩu do địa phương quản lý đạt 313 triệu USD, tăng 44,9% so với cùng kỳ và bằng 83,7% kế hoạch; khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài xuất khẩu 18,17 tỷ USD, tăng 7,6% so với cùng kỳ.
Nhóm mặt hàng xuất khẩu 9 tháng 2018 chiếm tỷ trọng lớn là Nhóm sản phẩm điện thoại các loại, máy vi tính và kinh kiện điện tử ước đạt 17,9 tỷ USD (chiếm 97% tổng giá trị xuất khẩu trên địa bàn), tăng 7,4% so với cùng kỳ và bằng 73,3% kế hoạch (trong đó điện thoại thông minh và máy tính bảng xuất khẩu 75,5 triệu sản phẩm với giá trị 14,34 tỷ USD, giảm 11% về lượng nhưng tăng 1,3% về giá trị so cùng kỳ và bằng 67,3% kế hoạch; linh kiện và sản phẩm điện tử các loại khác ước đạt 3,6 tỷ USD, tăng 41,4% cùng kỳ và bằng 113,5% kế hoạch cả năm).
Ngoài ra một số mặt hàng đạt tốc độ xuất khẩu tăng cao, đóng góp vào tốc độ tăng của xuất khẩu địa phương là sản phẩm may 226,2 triệu USD, tăng 24% cùng kỳ; kim loại màu và tinh quặng kim loại màu 201 triệu USD, tăng 30,3% và bằng 111,6% kế hoạch cả năm; sản phẩm từ sắt thép đạt 40 triệu USD, tăng 2,3% và bằng 76,7% kế hoạch…nhóm mặt hàng xuất khẩu giảm so cùng kỳ là: chè các loại 1,3 nghìn tấn với trị giá xuất khẩu 2,2 triệu USD, giảm 33% về lượng và giảm 41,4% về giá trị xuất khẩu và mới bằng 27% kế hoạch cả năm; phụ tùng vận tải đạt 2,3 triệu USD, giảm 18%...
Giá trị xuất khẩu trên địa bàn trong 9 tháng năm 2018 toàn bộ là xuất khẩu theo hình thức trực tiếp. Thị trường xuất khẩu lớn nhất là Chấu Á chiếm tỷ trọng 41% tổng số và thị trường xuất khẩu lớn thứ hai là Châu Âu chiếm tỷ trọng 38,1% tổng giá trị xuất khẩu. Trên thị trường Châu Á, hàng hóa xuất khẩu tập trung chủ yếu ở khu vực Tây Á và khu vực Đông Á: thị trường Hàn Quốc là 2,3 tỷ USD (bằng 12,6% tổng giá trị xuất khẩu), Các tiểu vương quốc Ả - rập Thống Nhất đạt 1,7 tỷ USD , Thái Lan đạt 581 triệu USD. Trên thị trường Châu Âu, hàng hóa xuất khẩu tập trung chủ yếu ở khu vực Tây Âu và Đông Âu như: Slô-va-ki-a khoảng 1,9 tỷ USD; Đức đạt 1 tỷ USD. Ngoài ra, Châu Mỹ chiếm 15,1% tổng giá trị xuất khẩu, trong đó nước Mỹ chiếm chủ yếu với 1,7 tỷ USD.
b. Nhập khẩu
Tổng giá trị nhập khẩu trên địa bàn tháng 9/2018 ước đạt 1,3 tỷ USD, tăng 9,9% so với tháng trước, tăng 11,8% so với cùng kỳ. Trong đó linh kiện điện tử đạt 1,1 tỷ USD, tăng 4,4% so với cùng kỳ; vải các loại và phụ kiện may mặc đạt 10,9 triệu USD, giảm 2,5%; chất dẻo (plastic) nguyên liệu đạt 9,7 triệu USD, gấp 313 lần...
Ước tính tổng giá trị nhập khẩu quý III/2018 đạt 3,4 tỷ USD, giảm 12,1% so với cùng kỳ. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 49,7 triệu USD, tăng 31,5% so với cùng kỳ; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 3,3 tỷ USD, giảm 12,5% so với cùng kỳ.
Tính chung 9 tháng 2018, giá trị nhập khẩu trên địa bàn ước đạt 10,4 tỷ USD, tăng 3,2% so với cùng kỳ; trong đó, khu vực kinh tế trong nước nhập khẩu 189,1 triệu USD (chiếm 1,8% tổng giá trị nhập khẩu trên địa bàn), tăng 17,9% so với cùng kỳ; khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 10,2 tỷ USD, tăng 2,9% so với cùng kỳ và chiếm tỷ trọng 98,2% tổng giá trị nhập khẩu.
Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu tăng cao so với cùng kỳ là: phế liệu sắt thép đạt 30,1 triệu USD, tăng gấp 60,8 lần; sắt thép các loại đạt 13,6 triệu USD, tăng 2,3 lần; chất dẻo (plastic) nguyên liệu đạt 70 triệu USD, tăng 91,6%; sản phẩm từ sắt thép đạt 87,9 triệu USD, tăng 91,3%; giấy các loại đạt 4,1 triệu USD, tăng 65,4%; vải các loại và phụ kiện may mặc đạt 107,1 triệu USD, tăng 15,1%... Riêng nhóm nguyên liệu và linh kiện điện tử 9 tháng nhập khẩu khoảng 10 tỷ USD, tăng 1,9% cùng kỳ; nguyên liệu chế biến thức ăn gia súc 26,1 triệu USD, giảm 54,2%; máy móc thiết bị và dụng cụ phụ tùng 39,3 triệu USD, giảm 57,1% cùng kỳ (do nhập khẩu phục vụ đầu tư giảm).
Nguồn nguyên, vật liệu nhập khẩu trong 9 tháng 2018 toàn bộ được nhập khẩu theo hình thức trực tiếp và chủ yếu nhập khẩu từ thị trường Châu Á với giá trị 9,96 tỷ USD (chiếm tỷ trọng 95,8% tổng số); trong đó tập trung chủ yếu ở các nước như: Hàn Quốc là 4,3 tỷ USD, Trung Quốc với 3,8 tỷ USD và Nhật Bản 634 triệu USD...
3.Vận tải
- Vận chuyển hành khách: Số lượt hành khách vận chuyển tháng 9/2018 ước đạt 1,7 triệu lượt khách với lượng hành khách luân chuyển là 89,1 triệu hành khách.km; so với tháng trước tăng 13% về số hành khách vận chuyển và hành khách luân chuyển; tăng 12,7% so với cùng kỳ về số lượng hành khách vận chuyển, tăng 10,7% về số hành khách luân chuyển. Tính chung 9 tháng đầu năm 2018 số lượt hành khách vận chuyển ước đạt 14,5 triệu lượt hành khách với 801,1 triệu lượt hành khách.km, tăng 7,5% so với cùng kỳ về số hành khách vận chuyển và tăng 6,9% về số lượng hành khách luân chuyển.
Nếu chia theo Quý thì trong 9 tháng đầu năm 2018, Quý II là quý có số lượng vận chuyển hành khách cao nhất so với quý I và quý III năm 2018, do do đây là khoảng thời gian có ngày nghỉ lễ nhiều và là mùa du lịch trong năm.
- Vận chuyển hàng hóa: Khối lượng hàng hóa vận chuyển tháng 9/2018 ước đạt 3,4 triệu tấn với 145 triệu tấn.Km, tăng 8% so với tháng trước về khối lượng vận chuyển và khối lượng luân chuyển; so với cùng kỳ tăng 6,1% về khối lượng hàng hóa vận chuyển và tăng 7,6% về khối lượng hàng hóa luân chuyển. Tính chung 9 tháng đầu năm 2018, khối lượng hàng hóa vận chuyển ước đạt 28,8 triệu tấn với 1.198 triệu tấn.km, tăng 7% về khối lượng vận chuyển và tăng 6,3% khối lượng luân chuyển so với cùng kỳ.
Trong đó quý III/2018 số lượng hàng hóa ước đạt 9,7 triệu tấn hàng hóa với 409,1 triệu tấn.km; so với cùng kỳ tăng 6% về khối lượng hàng hóa vận chuyển và tăng 6,3% về số lượng hàng hóa luân chuyển. Quý III/2018 là quý có khối lượng vận chuyển hàng hóa nhiều nhất so với quý I và quý II năm 2018.
Tổng doanh thu vận tải trên địa bàn tháng 9/2018 ước đạt 352,2 tỷ đồng, tăng 8,9% so tháng trước và tăng 9,3% so với cùng kỳ. Trong đó, doanh thu vận tải hành khách ước đạt 61,4 tỷ đồng, tăng 13% so với tháng trước và tăng 11% so với cùng kỳ; doanh thu vận tải hàng hóa là 272,5 tỷ đồng, tăng 8% so tháng trước và tăng 8,8% cùng kỳ; dịch vụ hỗ trợ vận tải đạt 18,3 tỷ đồng, tăng 10,3% so cùng kỳ và tăng 8,5% so tháng trước. Tính chung 9 tháng đầu năm 2018, tổng doanh thu vận tải trên địa bàn ước đạt 3.015 tỷ đồng, tăng 9% cùng kỳ, trong đó, doanh thu vận tải hành hóa chiếm tỷ trọng cao nhất và đạt 2.271 tỷ đồng, tăng 9%; doanh thu vận tải hành khách 551 tỷ đồng, tăng 9,1%; doanh thu từ dịch vụ hỗ trợ vận tải đạt 193 tỷ đồng, tăng 7,9%.
Tính riêng Quý III/2018 doanh thu vận tải ước đạt 1.019 tỷ đồng, tăng 8,76% so với cùng kỳ và đạt tương đương so với Quý II/2018. Doanh thu vận tải trong các Quý đều đạt mức tăng trên 7% so với cùng kỳ ở cả vận tải hàng hóa và hành khách.
B.MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI
1. Đời sống dân cư; công tác giảm nghèo, bảo trợ xã hội và thực hiện chính sách người có công
- Đời sống dân cư: Do giá tiêu dùng các mặt hàng thiết yếu cơ bản biến động không nhiều; sản xuất công nghiệp tăng cao, sản xuất nông nghiệp vụ Đông Xuân được mùa; giá bán sản phẩm chăn nuôi từ tháng 4/2018 đến nay tăng cao so với năm 2017, trong khi dịch bệnh trong chăn nuôi không xảy ra nên thu nhập người lao động trong khu vực lâm thủy sản tăng. Không xảy ra tình trạng thiếu đói do thiên tai hoặc tháng giáp hạt. Trong khu vực làm công, ăn lương, số lao động làm việc trong ngành công nghiệp ngày càng được thu hút nhiều. Thu nhập bình quân của người lao động trong các doang nghiệp đạt khoảng 9 triệu đồng/tháng/1 lao động (trong đó thu nhập người lao động thuộc doanh nghiệp có vốn trong nước là 6,9 triệu đồng/tháng, tăng 13,3% so cùng kỳ; khu vực doanh nghiệp FDI thu nhập của người lao động đạt 10,3 triệu đồng/tháng/lao động, giảm 1,8 triệu đồng /người /tháng so với cùng kỳ). Trong khu vực dịch vụ, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu các dịch vụ 9 tháng tăng trên 11% so cùng kỳ... Cơ sở hạ tầng được quan tâm đầu tư phát triển, đặc biệt là các xã thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới, góp phần nâng cao mức sống, ổn định đời sống dân cư.
- Công tác giảm nghèo, Bảo trợ xã hội và thực hiện chính sách đối với người có công: Các ngành, các địa phương, các tổ chức đoàn thể trên địa bàn đã tổ chức triển khai nhiều hoạt động cho các đối tượng chính sách xã hội và người có công trong các dịp Lễ, Tết... Thực hiện trợ cấp thường xuyên gần 37 nghìn đối tượng bảo trợ xã hội tại cộng đồng. Phối hợp và triển khai Chương trình tài trợ phẫu thuật cho hộ nghèo, khó khăn. Thực hiện cấp phát 30 nghìn tờ rơi tuyên truyền Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016- 2020 cho các huyện, thành, thị.
Thực hiện, giải quyết chế độ chính sách đối với người có công và gia đình người có công theo đúng quy định như: khai thác hồ sơ; giải quyết đơn thư; giải quyết chế độ cho thân nhân người có công từ trần hưởng trợ cấp tuất hàng tháng; kiểm tra hồ sơ; Giải quyết trợ cấp một lần; thực hiện xét tặng, truy tặng đối với hồ sơ đề nghị danh hiệu vinh dự nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng; khai thác, sưu tầm tư liệu thu thập thông tin về Đại đội 915, Đội thanh niên xung phong Đội 91 Bắc Thái; tổ chức đưa đón người có công với cách mạng đi điều dưỡng... Nhân dịp kỷ niệm 71 năm ngày thương binh liệt sĩ ngành chức năng đã phối hợp với các địa phương, cơ quan, đơn vị đã xây mới, đưa vào bàn giao được 11 nhà tình nghĩa và sửa chữa 19 nhà cho gia đình người có công.
2. Lao động, việc làm
Các ngành chức năng phối hợp tổ chức tuyển dụng lao động thuộc hộ nghèo và hộ cận nghèo thuộc 02 huyện vào làm việc tại các công ty sản suất điện tử viễn thông trên địa bàn, trong đó huyện Phú Lương có 233 người, huyện Đại Từ có 270 người nghèo và người cận nghèo trúng tuyển.
Tổ chức Ngày hội việc làm năm 2018 với 35 đơn vị, doanh nghiệp và các trường nghề trong và ngoài tỉnh tham gia, với nhu cầu tuyển dụng lao động của các doanh nghiệp là hơn 30 ngàn người. Trong ngày hội đã diễn ra các hoạt động tư vấn giới thiệu việc làm, tư vấn học nghề, tuyên truyền chính sách pháp luật về lao động, việc làm, dạy nghề, bảo hiểm thất nghiệp… thu hút được sự tham gia của hơn 2 nghìn lượt người lao động; đã có 1,2 nghìn lao động lao động đăng ký và được các doanh nghiệp tuyển dụng và các trường tuyển sinh đào tạo. Trong đó: Các doanh nghiệp tuyển dụng làm việc trong nước 774 lao động; Các trường tuyển sinh đào tạo nghề 208 học sinh; số lao động đăng ký xuất khẩu lao động 261 1ao động.
Thực hiện công tác quản lý các tổ chức, đơn vị có liên quan đến lao động nước ngoài và xuất khẩu lao động; cấp giấy phép lao động cho 92 người nước ngoài đang làm việc tại các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh, trong đó cấp lại là 51 trường hợp.Tiến hành kiểm tra các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh về thực hiện Bộ luật Lao động, Luật An toàn vệ sinh lao động, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2018; Tham gia tuyên truyền phổ biến pháp luật cho người lao động tại các đơn vị sự nghiệp đang cổ phần hóa trên địa bàn tỉnh; Thực hiện Kế hoạch tuyên truyền phổ biến pháp luật lao động năm 2018.
3. Công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em
Các ngành chức năng tổ chức thành công Lễ phát động Tháng hành động vì trẻ em với chủ đề “Vì cuộc sống an toàn, lành mạnh cho trẻ em trong thế giới công nghệ số”. Trao học bổng, xe đạp của Quỹ Bảo trợ trẻ em tỉnh, và các nhà tài trợ cho 150 trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Phối hợp tổ chức khám sàng lọc trẻ em bị khuyết tật hệ vận động trong toàn tỉnh; triển khai chương trình phẫu thuật dị tật vùng hàm mặt cho trẻ em và người lớn trong toàn tỉnh tại Bệnh viện Việt Nam - Cu Ba; hỗ trợ kinh phí xây mới nhà cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.
Tổ chức 18 lớp tập huấn nâng cao năng lực cho cán bộ làm công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em cấp xã và cộng tác viên trong toàn tỉnh. Tổ chức đưa 04 trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt về nuôi dưỡng tại Làng trẻ em SOS Hà Nội; tổ chức và tổng kết các lớp dạy bơi an toàn cho trẻ em tại các địa phương; trao tặng 10 suất học bổng cho trẻ em nghèo, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt trích từ nguồn Quỹ Bảo trợ trẻ em tỉnh tham gia chương trình “Thắp sáng niềm tin, Tiếp sức em tới trường - Vì em hiếu học lần thứ 6”. Hỗ trợ cho 16 trẻ em bị bệnh tim bẩm sinh từ nguồn ngân sách và từ nguồn vận động với tổng số tiền hỗ trợ là 625,3 triệu đồng. Các ngành chức năng, đoàn thể của tỉnh thăm, tặng quà các trường mầm non, cơ sở chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt trên địa bàn tỉnh nhân dịp Quốc tế thiếu nhi 01/6. Đặc biệt, nhân dịp Tết Trung thu 2018, các địa phương đã thành lập các đoàn công tác đến động viên, thăm hỏi sức khỏe, tình hình học tập, tặng quà các cháu thiếu nhi nhân dịp đón tết Trung thu vui vẻ, ý nghĩa.
4. Giáo dục, đào tạo
- Giáo dục phổ thông: Ngày 05/9/2018, toàn bộ các trường mầm non và phổ thông trên địa bàn tỉnh đã tổ chức khai giảng theo đúng quy định. Lễ khai giảng năm học mới 2018-2019 được tổ chức trang trọng, nghiêm túc; kết hợp hài hòa, ngắn gọn giữa phần lễ và hội, tạo không khí vui tươi, phấn khởi cho học sinh và giáo viên bước vào năm học mới.
Mạng lưới trường lớp của các cấp, bậc học tiếp tục được sắp xếp, đáp ứng nhu cầu học tập của con em các dân tộc trên địa bàn tỉnh. Năm học 2018-2019, thực hiện theo Nghị quyết Trung ương trên địa bàn tỉnh đã sát nhập một trường học thuộc các cấp học mầm non, tiểu học và trung học cơ sở như: Huyện Phổ Yên sát nhập 8 trường thành 04 trường (giảm 2 trường mầm non và 02 trường tiểu học); Huyện Phú lương giảm 1 trường tiểu học; huyện Đồng Hỷ giảm 01 trường (sát nhập trường tiểu học với trường trung học cơ sở thành trường liên cấp); thành phố Sông Công thành lập mới 01 trường (Trường Tiểu học và Trung học cơ sở Tân Quang).
Sau khi sắp xếp lại, năm học 2018-2019 trên địa bàn toàn tỉnh có 677 trường (bao gồm cả 01 trường nội trú thuộc Trung ương quản lý; công lập 660 trường, ngoài công lập 17 trường), giảm 3 trường so với đầu năm học 2017-2018 và giảm 04 trường so với cuối năm học 2017-2018; trong đó, mầm non có 229 trường (công lập 217, ngoài công lập 12); Tiểu học có 225 trường (công lập 223, ngoài công lập 2); trung học cơ sở có 190 trường (công lập 189, ngoài công lập 1); trung học phổ thông có 33 trường (32 trường thuộc địa phương quản lý, trong đó có 2 trường ngoài công lập; 01 trường nội trú thuộc Trung ương quản lý).
Tổng hợp sơ bộ số liệu lớp, học sinh đầu năm học 2018-2019 theo kế hoạch do địa phương quản lý: Nhìn chung đều tăng hơn so với năm học trước ở các cấp học. Hệ mầm non: có 3.088 lớp với 90.714 học sinh. Cấp tiểu học có 3.781 lớp với 111,8 nghìn học sinh, trong đó tuyển mới vào lớp 1 là 27,9 nghìn học sinh, tăng 26,8% so với cùng kỳ. Trung học cơ sở có 1.925 lớp với 68,6 nghìn học sinh, trong đó tuyển mới vào lớp 6 là 19,8 nghìn học sinh, tăng 19,2% so năm học trước. Trung học phổ thông có 856 lớp với 35,3 nghìn học sinh, trong đó tuyển mới vào lớp 10 là gần 12,5 nghìn học sinh, tăng 2,4% so cùng kỳ.
Tỷ lệ học sinh là người dân tộc thiểu số tính đến cuối năm học 2017-2018 chiếm 34,4% tổng số và có sự giảm dần ở cấp học cao hơn. Trong đó hệ mầm non có 36,7% học sinh dân tộc thiểu số; hệ trung học cơ sở có 30,6% và học sinh dân tộc thiểu số hệ trung học phổ thông chiếm 28,7%.
Công tác chuẩn bị cơ sở vật chất, trang thiết bị năm học mới: Các địa phương, các trường đã tu sửa và chuẩn bị điều kiện về cơ sở vật chất, phòng học để đáp ứng yêu cầu thực hiện chương trình sách giáo khoa, giáo dục phổ thông mới từ năm học 2018-2019 theo đúng chỉ đạo của ngành. Tuy nhiên, để đảm bảo chuẩn hóa lớp học về số học sinh bình quân 1 lớp thì dự kiến số phòng học còn thiếu là khoảng 786 phòng. Bao gồm: Mầm non 367 phòng; Tiểu học 243 phòng; trung học cơ sở 136 phòng và trung học phổ thông là 40 phòng. Ngành chức năng đang thực hiện, triển khai dự án xây mới các trường trung học phổ thông và mở rộng hệ thống các trường phổ thông nội trú.
Tỷ lệ kiên cố hóa trường lớp đạt 65,48%; trong đó, mầm non đạt 52,1%; tiểu học 59,6%; trung học cơ sở 82,2% và trung học phổ thông đạt tỷ lệ kiên cố hóa là 99,63%.
Kết quả xây dựng trườngđạtchuẩn quốc gia: Thực hiện đề án xây dựng hệ thống trường đạt chuẩn Quốc gia giai đoạn 2016-2020, tính đến thời điểm 15/9/2018, toàn tỉnh có 549/676 trường đạt chuẩn quốc gia đạt tỷ lệ 81,21% (về trước 2 năm so với chỉ tiêu Nghị quyết của Đảng bộ tỉnh giao); Trong đó: Mầm non có 181/229 trường đạt tỷ lệ 79,04%; Tiểu học: 216/225 trường đạt tỷ lệ 96%; THCS có 135/190 trường đạt tỷ lệ 71,05%; THPT có 17/32 trường đạt tỷ lệ 53,13%.
- Công tác tuyển sinh cao đẳng, đại học năm học 2018-2019: Kế hoạch tuyển sinh 12.612 chỉ tiêu. Tính đến đầu tháng 9/2018 đã tuyển sinh mới được 7.415 chỉ tiêu bằng 58,8% kế hoạch. Trong đó chỉ có khối ngành y dược vượt chỉ tiêu tuyển sinh (tuyển được gần 1.000 chỉ tiêu, bằng 126,4% kế hoạch); còn lại các khối ngành khác đều chưa đạt kế hoạch. Khoa ngoại ngữ - ĐH Thái Nguyên đạt 690 chỉ tiêu, bằng 98,5% kế hoạch; Đại học Kỹ thuật Công nghiệp tuyển được 1.550 chỉ tiêu, bằng 76,6% kế hoạch; khoa Quốc tế - Đại học Thái Nguyên đạt 117 chỉ tiêu/200 chỉ tiêu kế hoạch; Đại học sư phạm đạt 469 chỉ tiêu, bằng 52,1% kế hoạch; Đại học Kinh tế và quản trị kinh doanh đạt 1.110 chỉ tiêu, bằng 74% kế hoach; Đại học CNTT và truyền thông đạt 54,5%; còn lại các trường đạt dưới 50% chỉ tiêu kế hoạch, trong đó Đại học ngoài công lập tuyển sinh mới chỉ đạt 46 chỉ tiêu/800 chỉ tiêu kế hoạch, bằng 5,75% kế hoạch.
5. Y tế
- Công tác phòng chống dịch và các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm được duy trì triển khai. Ngành chức năng đã chỉ đạo thường xuyên việc kiểm tra công tác phòng, chống dịch năm 2018 tại các địa phương; đảm bảo công tác tiêm chủng và hệ thống bảo quản Vắc xin tại các tuyến đúng quy định.
Từ đầu năm đến nay, trên địa bàn tỉnh không có dịch bệnh lớn xảy ra, tỷ lệ mắc một số bệnh truyền nhiễm giảm hơn so với cùng kỳ năm trước. Tính đến 15/9/2018 có 316 ca mắc bệnh Quai bị, giảm 153 ca so cùng kỳ (469 ca); có 19 ca Sốt phát ban dạng sởi/rubella; Chân tay miệng là 124 ca, tăng 65 ca so cùng kỳ (59 ca); Sốt xuất huyết là 26 ca (giảm nhiều so với mức 300 ca của cùng kỳ); Ho gà 03 ca; bệnh thủy đậu 613 ca, giảm 376 ca; phát hiện sốt rét và số lượt điều trị là 236 ca; bệnh do liên cầu lợn ở người là 03 ca, trong đó có 2 ca tử vong và tử vong do bệnh dại là 1 ca (cùng kỳ là 02 ca); có trên 7,5 nghìn người phải tiêm vắc xin/huyết thanh phòng và điều trị dự phòng bệnh dại do nghi bị chó dại cắn, tăng 12,8% so cùng kỳ.
Công tác an toàn vệ sinh thực phẩm: Ngành chức năng đã phối hợp với cơ quan thông tin, truyền thông trên địa bàn thực hiện các hoạt động truyền thông về An toàn thực phẩm bằng nhiều hình thức. Tính từ đầu năm đến 21/9/2018 trên địa bàn xảy ra 01 có vụ ngộ độc thực phẩm tập thể vào cuối tháng 5 với 15 người mắc, nhập viện 10 người, không có tử vong(Cùng kỳ năm 2017 có 02 vụ, 32 người mắc).
Công tác khám chữa bệnh: Trong 9 tháng đầu năm, các hoạt động khám chữa bệnh, thực hiện quy chế chuyên môn tại các bệnh viện, trạm y tế được duy trì tốt, trong đó chú trọng khám chữa bệnh đối tượng chính sách. Số giường kế hoạch tại các bệnh viện do địa phương quản lý là 4240 giường, tăng 715 giường so với năm 2017. Tổng số lượt bệnh nhân đến khám, chữa bệnh tại các bệnh viện tuyến tỉnh, huyện trong 9 tháng ước đạt 930 nghìn lượt, giảm so với mức967,4 nghìn lượtcủa9 tháng năm 2017. Tổng số bệnh nhân điều trị nội trú ước đạt 150 nghìn lượt người, giảm 5,8 nghìn lượt người so với cùng kỳ.
- Công tác Dân số: Dự ước 9 tháng đầu năm 2018, tổng số trẻ em sinh ra là 11.759 trẻ(giảm 1.203 trẻ so với cùng kỳ năm 2017). Tỷ số giới tính khi sinh(trẻ trai/100 trẻ gái)là 110,2 (giảm 5,3 điểm phần trăm so cùng kỳ năm 2017). Số trẻ sinh ra là con thứ 3 trở lên: 1.038 trẻ (tăng 78 trẻ so với cùng kỳ năm 2017), chiếm 8,8% của tổng số trẻ sinh. Có 5/9 đơn vị có số trẻ sinh ra là con thứ 3 trở lên tăng so với cùng kỳ năm 2017. Số cán bộ, đảng viên sinh con thứ 3 trở lên là 66 trường hợp (tăng 23 trường hợp so với cùng kỳ năm 2017).
- Tình hình nhiễm HIV/AIDS trên địa bàn: Lũy kế đến 31/8/2018 số người nhiễm lũy tích là 9.843 người. Trong đó chuyển giai đoạn AIDS lũy tích là 6.726 người; Số tử vong do HIV/AIDS lũy tích là 3.450 người. Riêng trong tháng 8/2018 có 46 người mới được phát hiện; chuyển giai đoạn AIDS là 3 người; Số tử vong do HIV/AIDS là 3 người.
6.Văn hóa, thể thao
Chín tháng đầu năm 2018 trên địa bàn tỉnh, các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao chào mừng các sự kiện chính trị, ngày lễ kỷ niệm được tổ chức kịp thời, hiệu quả và rộng khắp. Thực hiện tốt công tác tuyên truyền, biểu diễn nghệ thuật, chiếu phim phục vụ nhân dân, đặc biệt là đồng bào vùng sâu, vùng xa, các đối tượng chính sách; công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa đạt được nhiều kết quả. Tổ chức thành công Đại hội thể dục thể thao tỉnh Thái Nguyên lần thứ VIII/2018; tuyên truyền quảng bá giá trị di sản văn hóa phi vật thể trên các phương tiện truyền thông.
Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm: kiểm tra 46 lượt cơ sở hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, thể thao và du lịch (08 lễ hội, 09 buổi biểu diễn nghệ thuật, 25 tổ chức, cá nhân thực hiện quảng cáo, 13 bể bơi, 01 doanh nghiệp kinh doanh lữ hành); xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực du lịch, văn hóa thu nộp ngân sách nhà nước khoảng trên 30 triệu. Công tác kiểm tra đã góp phần chấn chỉnh các hành vi sai phạm, góp phần tích cực đưa các cơ sở kinh doanh hoạt động theo đúng quy định.
Hoạt động bảo tàng: Tổ chức 03 triển lãm với chủ đề "Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phòng dân tộc Việt Nam, nhà văn hóa kiệt xuất”; "Đại tướng Võ Nguyên Giáp với ATK Thái Nguyên",“Trưng bày và giới thiệu về tỉnh Thái Nguyên” phục vụ chương trình gặp mặt, chúc tết người Thái Nguyên ở nước ngoài về quê hương. Hoàn thiện chỉnh lý bổ sung trưng bày Nhà truyền thống Tỉnh ủy Thái Nguyên; đề cương nội dung và phương án trưng bày Nhà truyền thống Thanh niên xung phong (Đại đội 915 Bắc Thái). Phối hợp với Viện khảo cổ học tổ chức nghiên cứu chỉnh lý sau khai quật di chỉ mái đá Ngườm (xã Thần Sa, huyện Võ Nhai); tổ chức lễ hội "Hương sắc Trà xuân - Vùng chè đặc sản Tân Cương”. Sưu tầm 570 hiện vật, ảnh phục vụ công tác trưng bày, triển lãm; đón tiếp 12.955 lượt khách tham quan (468 lượt khách nước ngoài); tổ chức giám định 1.300 đơn vị tài liệu, hiện vật.
Hoạt động biểu diễn nghệ thuật, phát hành phim và chiếu bóng: Tổ chức 85 buổi biểu diễn phục vụ nhiệm vụ chính trị, đối tượng chính sách; tham gia Hội diễn ca múa nhạc chuyên nghiệp toàn quốc đạt (01 HCV, 03 HCB). Thực hiện 888 buổi chiếu phim (790 buổi phục vụ nhiệm vụ chính trị, 98 buổi phục vụ các xã vùng khó khăn, đối tượng chính sách), phục vụ 59.780 lượt người xem.
Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở: Tham gia Liên hoan hát Then, đàn Tính các dân tộc Tày – Nùng – Thái toàn quốc lần thứ VI/2018 (đạt 02 giải A, 01 giải B, 02 giải C), được Trung ương tặng Bằng khen, đạt 03 HCV, 02 HCB, giải đạo diễn xuất sắc tại Hội thi sân khấu kịch ngắn, kịch vui không chuyên toàn quốc năm 2018 về công tác bảo vệ môi trường trong lĩnh vực văn hóa, thể thao và du lịch. Hoàn thành công tác xây dựng 10 mô hình, mẫu hình văn hoá văn nghệ; tổ chức 10 buổi văn hoá trà. Thực hiện 95 buổi tuyên truyền và biểu diễn nghệ thuật mừng Đảng, mừng Xuân, phục vụ lễ hội, sự kiện chính trị. Tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ chuyên môn các Nhà văn hóa, Trung tâm Văn hoá Thể thao cơ sở; duy trì hoạt động của các câu lạc bộ văn hoá, thể thao.
Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, xây dựng Nông thôn mới: thực hiện phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa cấp tỉnh, đánh giá kết quả chỉ đạo thực hiện phong trào năm 2017; các huyện, thành phố, thị xã thực hiện các chỉ tiêu phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa theo Nghị quyết Hội đồng nhân dân tỉnh; triển khai công tác đăng ký các danh hiệu văn hóa năm 2018; thực hiện công tác gia đình; các hoạt động, sơ kết 05 năm thực hiện Đề án tổ chức ngày Quốc tế hạnh phúc 20/3; tổ chức các hoạt động tuyên truyền Ngày gia đình Việt Nam (28/6). Đánh giá thực hiện Đề án “Tuyên truyền, giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình Việt Nam giai đoạn 2010 - 2020”; kết quả triển khai thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới năm 2017 và kế hoạch năm 2018. Phối hợp thực hiện 18 số chuyên mục truyền hình về phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, “Nếp sống văn hóa và gia đình”; phát hành 3.320 cuốn sách “Chuyện quê hương” tuyên truyền phong trào.
Lĩnh vực thể thao: tiếp tục duy trì và nâng cao chất lượng đào tạo 181 học sinh năng khiếu hệ nội trú, 40 học sinh bán trú. Tham gia thi đấu 20 giải (17 giải toàn quốc, 03 giải quốc tế), đạt 218 huy chương các loại (66 HCV, 57 HCB, 95 HCĐ), giành 08 cờ thưởng đồng đội và toàn đoàn; 23 lượt vận động viên cấp I quốc gia, 03 vận động viên kiện tướng và 02 cúp.
Các đội tuyển, thể thao thành tích cao Duy trì công tác quản lý, huấn luyện, kiểm tra việc tập luyện của các đội tuyển. Tham gia 14/32 giải theo kế hoạch, 05 giải ngoài kế hoạch, đạt 102 huy chương các loại (19 HCV, 32 HCB, 51 HCĐ) trong đó có 01 HCB, 02 HCĐ tại giải đua thuyền Cúp canoeing nữ vô địch thế giới tại Hungary; giành 01 cờ Nhất, 01 cờ Nhì toàn đoàn; cung cấp cho đội tuyển quốc gia 16 VĐV. Chuẩn bị lực lượng tham giai Đại hội thể dục thể thao toàn quốc theo kế hoạch.
7. Tình hình an toàn giao thông
Theo báo cáo của Ban An toàn giao thông tỉnh Thái Nguyên, trong tháng 9/2018 trên địa bàn xảy ra 12 vụ tai nạn giao thông đường bộ, làm 5 người chết và 7 người bị thương. Tai nạn liên quan đến ô tô 05 vụ (41,67%); liên quan đến mô tô 7 vụ (58,33%). Thiệt hại tài sản ước tính khoảng 113,6 triệu đồng. So với cùng kỳ năm trước số vụ tai nạn giảm 5 vụ (-29,41%); số người chết giảm 1 người (-16,67%) và số người bị thương giảm 3 người (-30%). Tình hình an toàn giao thông đường sắt, đường thủy ổn định, không xảy ra tai nạn giao thông.
Trong 3 ngày nghỉ lễ quốc khánh 2/9 năm nay (từ 2/9 đến 4/9) trên địa bàn xảy ra 01 vụ tai nạn giao thông. So cùng kỳ (2017), tăng 01 vụ tại nạn (tại huyện Phú Lương), tăng 01 người chết và 02 người bị thương.
Trong 9 tháng 2018, Quý I/2018 có 23 vụ tai nạn giao thông, là quý có số vụ tai nạn, số người chết và số người bị thương thấp nhất so với các quý trong năm 2018 và giảm so với cùng kỳ. Quý II/2018 có số vụ tai nạn xảy ra nhiều nhất, chiếm 46,3% tổng số vụ, so cùng kỳ cũng tăng cao (tăng 45,7% số vụ, tăng 50% số người chết và tăng 62,5% số người bị thương).
Tính chung 9 tháng đầu năm 2018, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 110 vụ tai nạn giao thông, làm chết 43 người và 89 người bị thương. So với cùng kỳ năm 2017 số vụ tai nạn giảm 2 vụ (-1,79%), số người bị chết giảm 5 người (-10,42%) và số người bị thương tăng 6 người (+7,23%). Trong đó, địa bàn xảy ra nhiều vụ tai nạn nhất là thành phố Thái Nguyên với 55 vụ (chiếm 50% tổng số), làm 10 người chết (chiếm 23,2%) và 47 người bị thương (chiếm 52,8%). Tháng 9/2018 đã kiểm tra lập biên bản xử lý vi phạm 6.696 trường hợp; tước 348 giấy phép lái xe; tạm giữ 46 xe ô tô, 1.331 xe mô tô; 163 phương tiện khác. Số tiền xử phạt 3,4 tỷ đồng.
8. Thiệt hại do thiên tai
Từ đầu năm đến 07/9/2018 trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên đã xảy ra 12 đợt mưa lớn, kèm giông, gió lốc, sấm sét và lũ cuốn gây thiệt hại nhiều về người và tài sản, cụ thể như sau: có 3 người chết (TP Sông Công, huyện Đại từ, huyện Định Hóa) và 4 người bị thương; 02 nhà bị đổ sập 542 nhà bị tốc mái, 14 nhà bị ảnh hưởng do sạt lở, 05 nhà bị di rời và 54 hộ gia đình bị ảnh hưởng; 420,1 ha lúa bị ảnh hưởng, 1.800 m2giàn leo trồng cây rau mầu ở huyện Đại từ bị gãy đổ; 15 con gia súc và 126 con gia cầm bị chết và cuốn trôi; 19,6 ha mặt nước nuôi trồng thủy sản bị mất trắng; sạt lở 544m đường giao thông, khối lượng đất đá 1,5 nghìn m3, 03 cầu dân sinh bị hư hỏng, cuốn trôi; 06 điểm trường và 02 nhà văn hóa bị ảnh hưởng. Ngoài ra thiên tai còn gây ra một số thiệt hại về thủy lợi, thông tin liên lạc và các công trình khác… Tổng thiệt hại về tài sản ước tính khoảng 8,65 tỷ đồng.
Ngành chức năng đã phối hợp với địa phương khắc phục, xử lý sự cố, đánh giá thiệt hại, huy động lực lượng tại chỗ để tích cực triển khai, trợ giúp các hộ dân khắc phục thiệt hại, đảm bảo ổn định cuộc sống.
9. Phòng chống cháy nổ
Các ngành chức năng của Tỉnh đã tiến hành kiểm tra phòng cháy, chữa cháy tại các cơ quan đơn vị trên địa bàn toàn tỉnh; qua kiểm tra đã nhắc nhở những thiếu sót trong phòng cháy chữa cháy và lập biên bản xử lý các trường hợp vi phạm nhằm hạn chế các vụ cháy, nổ xảy ra.
Theo số liệu sơ bộ, tính chung 9 tháng năm 2018 (tính từ ngày 16/12/2017 đến 15/9/2018), trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên xảy ra 110 vụ cháy, tăng 32 vụ so với cùng kỳ năm 2017 và 1 vụ nổ khí ga, không có thiệt hại về người. Ước tính tổng giá trị thiệt hại khoảng 10 tỷ đồng, gấp gần 2 lần và tăng 4,7 tỷ so với 9 tháng 2017.
10. Vi phạm môi trường
Trong tháng 9 năm 2018 trên địa bàn tỉnh ngành chức năng đã kiểm tra và xử lý 9 vụ vi phạm môi trường. Trong đó, có 1 vụ xảy ra tại thành phố Thái Nguyên; huyện Phú Lương 2 vụ; huyện Đại Từ 1 vụ; TP Sông Công 4 vụ; huyện Đồng Hỷ 1 vụ. Tổng số tiền xử phạt khoảng 70 triệu đồng.
Tính chung trong 9 tháng đầu năm 2018, các ngành chức năng đã tiến hành kiểm tra và xử lý 45 vụ vi phạm môi trường, nguyên nhân của các vụ xử lý trên là do các cơ sở sản xuất kinh doanh không thực hiện quan trắc giám sát môi trường theo đề án bảo vệ môi trường được Sở Tài Nguyên Môi trường xác nhận. Tổng số tiền thu và nộp vào ngân sách nhà nước là 280,7 triệu đồng.
C. MỘT SỐ KẾT QUẢ NỔI BẬT VÀ KHÓ KHĂN, HẠN CHẾ; ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP THỰC HIỆN NHIỆM VỤ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA TỈNH TRONG 3 THÁNG CUỐI NĂM 2018
1. Một số kết quả nổi bật
Tình hình kinh tế - xã hội Chín tháng đầu năm 2018 trên địa bàn tỉnh tiếp tục đạt được kết quả tích cực; mặt bằng lãi suất ổn định, chỉ số giá tiêu dùng tăng hợp lý; các ngành kinh tế vẫn duy trì được đà tăng trưởng và phát triển, nhất là ngành công nghiệp, tạo động lực cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa; xuất khẩu tăng so với cùng kỳ và duy trì xuất siêu; cung cầu hàng hóa được đảm bảo; các chương trình dự án lớn đã đi vào sản xuất và phát huy hiệu quả, một số dự án phát triển đô thị đang được triển khai đầu tư… góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và thu ngân sách. An sinh và phúc lợi xã hội được bảo đảm; các chính sách xã hội được quan tâm, thực hiện đầy đủ, tạo điều kiện ổn định và cải thiện đời sống dân cư; trật tự an toàn giao thông được kiểm soát…
2.Khó khăn, hạn chế
Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi, kinh tế trên địa bàn còn tiềm ẩn nhiều khó khăn, thách thức. Ngoài yếu tố tăng trưởng từ các dự án thuộc khu vực FDI và các dự án lớn trên địa bàn, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh mức tăng trưởng còn thấp, mức độ liên kết giữa các doanh nghiệp trong nước với khu vực đầu tư nước ngoài còn hạn chế.
Nhu cầu đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội là rất lớn, đặc biệt cho lĩnh vực giáo dục đào tạo, phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai, song chưa bảo đảm được nguồn vốn thực hiện, cùng với đó là yêu cầu chặt chẽ về trình tự thủ tục đầu tư theo Luật Đầu tư công, nên nhiều dự án cấp bách chưa được cân đối vốn để thực hiện.
Chỉ số giá tiêu dùng vẫn tiềm ẩn nguy cơ tăng cao; một số sản phẩm công nghiệp truyền thống của tỉnh tiêu thụ còn khó khăn nên ảnh hưởng đến nhịp độ sản xuất và quy mô công nghiệp Nhà nước Trung ương; tiềm năng du lịch trên địa bàn chưa được khai thác hiệu quả.
3. Đề xuất giải pháp
Để thực hiện tốt các mục tiêu, chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2018, trong thờigian tới, cần tiếp tụctập trung thực hiện quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả các mục tiêu, nhiệm vụ giải pháp đã đề ra trong Nghị quyết số 01/NQ-CP của Chính Phủ và các văn bản chỉ đạo, điều hành của địa phương, đồng thời theo dõi những vấn đề phát sinh để có giải pháp phù hợp, kịp thời tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển.
Để thu ngân sách đạt hiệu quả và tăng nguồn thu đáp ứng yêu cầu phát triển, cần triển khai quyết liệt các giải pháp chống thất thu ngân sách, nhất là các khoản thu liên quan đến đất đai, tài nguyên khoáng sản; kiên quyết đấutranh với các loại tội phạm lợi dụng chính sách pháp luật để trốn thuế, gian lận hoàn thuế.
Các ngành, các cấp, các chủ đầu tư cần đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân vốn đầu tư các dự án đầu tư công, nhất là các dự án dự kiến hoàn thành đưa vào sử dụng trong năm 2018. Thực hiện rà soát, điều chuyển vốn các dự án chậm giải ngân sang các dự án có tỷ lệ giải ngân cao, còn thiếu vốn để hoàn thành năm 2018; đồng thời tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đầu tư, chất lượng công trình để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư.
Tiếp tục đẩy nhanh tiến độ thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới; tổ chức hội nghị chuyên đề để đánh giá tổng thể tiến độ và đưa giải pháp phù hợp cho tiến độ xây dựng nông thôn mới, đặc biệt là các xã điểm. Triển khai thực hiện đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp, các chính sách triển khai thực hiện đề án, hỗ trợ đầu tư vào nông nghiệp; chuyển đổi giống cây trồng có hiệu quả cao. Kêu gọi các nhà đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao, chế biến nông, lâm sản nhằm nâng cao giá trị gia tăng.
Thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, triển khai có hiệu quả các chương trình giảm nghèo bền vững, hỗ trợ hộ cận nghèo. Quan tâm thực hiện tốt các chính sách người có công, các đối tượng chính sách xã hội, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp nhằm phát triển hài hòa giữa kinh tế và xã hội./.


Cục Thống kê tỉnh Thái Nguyên

  • Tổng số lượt xem: 1186
  •  

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)