(MPI) – Ngày 03/7/2019, Bộ Kế hoạch và Đầu tư có Công văn số 4580/BKHĐT-GSTĐĐT báo cáo Thủ tướng Chính phủ về việc tổng hợp báo cáo tình hình thực hiện công tác giám sát, đánh giá tổng thể đầu tư năm 2018.
Theo quy định tại Nghị định số 84/2015/NĐ-CP, thời điểm các cơ quan gửi báo cáo tổng thể đầu tư năm 2018 trước ngày 01/3/2019. Theo quy định tại Thông tư số 13/2016/TT-BKHĐT, các cơ quan báo cáo giám sát, đánh giá tổng thể đầu tư trên Hệ thống thông tin, Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổng hợp số liệu trên Hệ thống thông tin.
Theo Báo cáo, tính đến thời điểm Bộ Kế hoạch và Đầu tư chốt số danh sách để tổng hợp số liệu (ngày 27/3/2018), trên Hệ thống thông tin đã nhận được Báo cáo giám sát, đánh giá tổng thể đầu tư năm 2018 của 105/123 cơ quan, đạt 85,36%, gồm: 60/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (đạt 95,23%), 24/32 cơ quan Bộ và tương đương (đạt 75%), 6/9 cơ quan thuộc Chính phủ (đạt 66,67%), 15/19 Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty 91 (đạt 78,95%) (năm 2017 có 109/123 cơ quan báo cáo đạt 88,62%, năm 2016 có 94/123 cơ quan báo cáo đạt 76,4%, năm 2015 có 105/123 cơ quan báo cáo đạt 84%)… Tình hình báo cáo giám sát, đánh giá tổng thể đầu tư trực tuyến của các cơ quan theo từng kỳ báo cáo được công khai tại Cổng thông tin quốc gia về giám sát và đánh giá đầu tư tại địa chỉ https://giamsatdautuquocgia.mpi.gov.vn.
Về tình hình báo cáo các dự án đầu tư sử dụng vốn nhà nước, theo quy định tại Thông tư số 13/2016/TT-BKHĐT, các dự án đầu tư sử dụng vốn nhà nước sau khi quyết định đầu tư, các chủ đầu tư đăng ký tài khoản và cập nhật thông tin về các dự án đầu tư vào Hệ thống thông tin. Đến ngày 31/3/2019, trên Hệ thống thông tin đã có thông tin cập nhật của 24.793 dự án sử dụng vốn nhà nước trên tổng số 56.832 dự án thực hiện trong kỳ, đạt tỷ lệ 43,53%, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã thực hiện công khai số lượng dự án của từng cơ quan trên Cổng thông tin quốc gia về giám sát và đánh giá đầu tư quốc gia tại địa chỉ https://giamsatdautuquocgia.mpi.gov.vn/Pages/tongsodachitiet.aspx.
Theo đánh giá của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về công tác thực hiện giám sát, đánh giá đầu tư, nhiều cơ quan đã cố gắng trong việc triển khai và thực hiện công tác giám sát, đánh giá đầu tư, cập nhật các quy định mới, chỉ đạo các đơn vị chuyên môn trực thuộc, các chủ đầu tư cập nhật số liệu tổng hợp, tình hình thực hiện các dự án đầu tư vào Hệ thống thông tin. Việc cập nhật số liệu vào Hệ thống thông tin, góp phần từng bước nâng cao chất lượng công tác giám sát, đánh giá đầu tư, giảm bớt khối lượng báo cáo giấy, hướng đến mục tiêu các thông tin của các chương trình, dự án sử dụng vốn nhà nước sẽ được đăng tải trên mạng internet theo quy định để các tổ chức, cá nhân và xã hội tra cứu và cùng giám sát, đánh giá.
Tuy nhiên, vẫn còn một số cơ quan, cán bộ, công chức còn hạn chế về công nghệ thông tin, nghiệp vụ, chưa nghiên cứu kỹ các quy định pháp luật, các mẫu biểu hướng dẫn, các thông tin báo cáo còn nhiều sai sót. Đặc biệt khi số liệu của một số cơ quan không chính xác (sai đơn vị tính), các số liệu thiếu tính hợp lý, đã ảnh hưởng đến độ chính xác, tiến độ tổng hợp số liệu chung của Bộ Kế hoạch và Đầu tư do phải rà soát, chuẩn xác lại các số liệu.
Các hệ thống thông tin về tình hình đầu tư, doanh nghiệp, giải ngân vốn đầu tư, đất đai, môi trường, lao động chưa được liên thông giữa các cơ quan quản lý nhà nước dẫn đến việc các cơ quan, tổ chức kinh tế, người dân khi thực hiện các hoạt động đầu tư còn phải truy cập, báo cáo nhiều cơ quan, nhiều nội dung còn trùng lắp, tốn nhiều thời gian thực hiện.
Về tình hình ban hành các văn bản hướng dẫn các chính sách, pháp luật liên quan đến đầu tư, trong năm 2018, các bộ, ngành, địa phương theo thẩm quyền đã tích cực nghiên cứu, ban hành hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, các văn bản hướng dẫn các chính sách, pháp luật liên quan đến đầu tư. Các văn bản quy phạm pháp luật, các văn bản hướng dẫn giúp các cơ quan quản lý nhà nước, chủ đầu tư, tổ chức kinh tế và người dân thuận lợi hơn trong việc thực hiện các hoạt động đầu tư.
Tuy nhiên, theo báo cáo của các cơ quan và đánh giá của người dân, một số văn bản quy phạm pháp luật được ban hành chưa kịp thời, một số văn bản quy phạm pháp luật có nội dung còn chồng chéo, cá biệt có những nội dung chưa phù hợp với thực tế. Hệ quả dẫn đến vướng mắc phát sinh khi thực hiện, có nội dung phải điều chỉnh ngay sau khi văn bản được ban hành, chưa có hiệu lực...
Về tình hình quản lý quy hoạch, trong quá trình thực hiện các hoạt động đầu tư, công tác quy hoạch phải đi trước một bước, là định hướng, căn cứ để triển khai các chương trình, dự án đầu tư. Các cơ quan theo chức năng, nhiệm vụ đã tích cực xây dựng các quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội, quy hoạch ngành, lĩnh vực làm căn cứ xây dựng kế hoạch đầu tư công trung hạn, kế hoạch đầu tư công hằng năm là cơ sở kêu gọi và thu hút đầu tư từ các tổ chức kinh tế và người dân.
Tuy nhiên, một số quy hoạch có chất lượng chưa cao, tầm nhìn ngắn hạn, năng lực thực hiện của cán bộ còn hạn chế, ảnh hưởng lớn đến quá trình thực hiện các hoạt động đầu tư. Bên cạnh đó, nguồn vốn đầu tư cho công tác lập, thẩm định và phê duyệt các quy hoạch còn hạn chế, một số ngành, lĩnh vực đặc thù tư vấn trong nước không đủ năng lực nhưng chưa có cơ chế, nguồn lực thuê tư vấn nước ngoài. Công tác công bố, tổ chức thực hiện, nguồn lực thực hiện quy hoạch còn hạn chế dẫn đến hiệu quả thực hiện quy hoạch không cao.
Đối với các dự án đang trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư, công tác chuẩn bị hồ sơ các dự án của các cơ quan còn chậm, chất lượng không bảo đảm, còn nhiều hạn chế nên trong quá trình thẩm định phải hoàn thiện bổ sung, ảnh hưởng đến tiến độ chuẩn bị đầu tư các dự án…
Về tình hình thực hiện các chương trình đầu tư công, dự án đầu tư sử dụng vốn nhà nước, mặc dù các cơ quan đã có nhiều cố gắng, tuy nhiên, tổng hợp số liệu báo cáo của các cơ quan, tình hình thực hiện vốn đầu tư trong năm 2018 chưa đạt kế hoạch, nhiều dự án vẫn còn chậm tiến độ, tỷ lệ các dự án phải điều chỉnh vẫn còn cao.
Trong thời gian tới, điều kiện nguồn vốn đầu tư vẫn còn rất nhiều khó khăn, trong khi nhu cầu đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng lớn, đề nghị các cơ quan xem xét kỹ lưỡng quá trình lựa chọn các chương trình, dự án thực hiện đầu tư, khởi công mới, ưu tiên các dự án phục vụ an sinh xã hội, phù hợp khả năng cân đối của nguồn ngân sách, tránh đầu tư dàn trải, hiệu quả thấp. Các cơ quan cần tích cực theo dõi, kiểm tra, trên cơ sở đó chấn chỉnh, giải quyết kịp thời các phát sinh trong quá trình đầu tư, bảo đảm các dự án đã có trong kế hoạch được thực hiện đúng trình tự thủ tục đầu tư, tiến độ đầu tư, chất lượng công trình, thời hạn đưa công trình vào khai thác sử dụng…
Về tình hình quản lý các dự án đầu tư theo hình thức PPP, trong giai đoạn vừa qua, mặc dù bước đầu đã đạt được nhiều kết quả, thu hút thêm các nguồn lực từ các nhà đầu tư tư nhân tham gia hoàn thiện cơ sở hạ tầng xã hội. Tuy nhiên, đây là hình thức đầu tư mới, năng lực xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, năng lực triển khai thực hiện đầu tư của các cơ quan quản lý nhà nước, các nhà đầu tư cũng còn nhiều hạn chế. Do đó, việc đầu tư theo hình thức PPP vẫn còn nhiều bất cập, đòi hỏi cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện trong thời gian tới…
Về tình hình quản lý đầu tư các dự án sử dụng nguồn vốn khác, trong năm 2018, Chính phủ đã có nhiều chỉ đạo quyết liệt tạo môi trường đầu tư thông thoáng, cắt giảm các điều kiện đầu tư kinh doanh, xây dựng Chính phủ kiến tạo, thu hút được nhiều dự án lớn, tạo công ăn, việc làm, thu nhập cho người dân, tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
Theo tổng hợp số liệu từ các cơ quan, một số dự án gặp vướng mắc trong thủ tục đầu tư, giải phóng mặt bằng khi thực hiện dự án. Đồng thời, thực tế cũng gặp không ít các tổ chức kinh tế, nhà đầu tư chưa thực hiện đúng các quy định, hạn chế về năng lực tài chính, cá biệt có các dự án còn sai sót trong vấn đề quy hoạch, sử dụng đất đai, gây tác động tiêu cực đến môi trường sinh thái, chế độ đãi ngộ với người lao động còn bất cập,…
Song song với việc cải thiện môi trường đầu tư thông thoáng nhằm thu hút các nguồn lực đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, các cơ quan quản lý nhà nước cần tăng cường tuyên truyền, phổ biến các quy định pháp luật tới các nhà đầu tư, có kế hoạch giám sát, đánh giá phù hợp, giải quyết kịp thời các khó khăn vướng mắc. Đồng thời cũng kịp thời phát hiện chấn chỉnh các hành vi vi phạm các quy định của pháp luật, tạo môi trường đầu tư lành mạnh, chống các hành vi gian lận, vi phạm pháp luật.
Về công tác giám sát đầu tư của cộng đồng, nhiều địa phương chưa có số liệu tổng hợp báo cáo về công tác giám sát đầu tư của cộng đồng. Việc thực hiện tốt công tác giám sát đầu tư của cộng đồng nhằm phát huy vai trò làm chủ của Nhân dân trong việc triển khai các hoạt động đầu tư./.
Mai Phương
Bộ Kế hoạch và Đầu tư