Skip Ribbon Commands
Skip to main content
Ngày 20/09/2019-08:15:00 AM
Định hướng phát triển để Việt Nam trở thành quốc gia thịnh vượng
(MPI) – Diễn đàn Cải cách và Phát triển Việt Nam (VRDF) năm 2019 do Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với các đối tác quốc tế tổ chức ngày 19/9/2019 với mục tiêu quan trọng nhất là cung cấp đầu vào giúp Việt Nam xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2030, Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2025.
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng phát biểu tại Diễn đàn. Ảnh: MPI

Phát biểu thảo luận tại phiên toàn thể của Diễn đàn, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh, trong 10 năm tới, Việt Nam có rất nhiều cơ hội và thách thức đan xen, đòi hỏi Việt Nam phải nhận diện rõ những cơ hội nào, bài học nào tốt cần tranh thủ tận dụng cũng như những thách thức nào cần phải vượt qua và xác định được những mục tiêu phát triển và tìm kiếm động lực cho phát triển trong thời gian tới. Những vấn đề này cũng được Việt Nam đề cập tại Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2030, Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2025.

Đồng thời nhấn mạnh, Diễn đàn là dịp để các học giả, chuyên gia quốc tế trao đổi, thảo luận về những phương hướng, giải pháp thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, cũng như Việt Nam chia sẻ với các nước có cùng trình độ phát triển kinh nghiệm về thành công và thất bại của mình. Đồng thời mong muốn các chuyên gia, diễn giả đến từ các nước, các tổ chức quốc tế chia sẻ về tình hình kinh tế thế giới, các vấn đề đặt ra đối với Việt Nam, đặc biệt là vấn đề thể chế và thực trạng.

Tại Diễn đàn, Thành viên Tổ biên tập Tiểu ban Kinh tế - Xã hội Đại hội XIII, nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược và Phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bùi Tất Thắng đã có bài trình bày về định hướng phát triển để Việt Nam trở thành quốc gia thịnh vượng đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045. Qua đó, nhằm tham vấn ý kiến của các nhà hoạch định chính sách, các đối tác phát triển, các chuyên gia trong, ngoài nước,…trong việc xây dựng Chiến lược, Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội cho giai đoạn tới.

Hiện thực hóa những mục tiêu thể hiện ý chí, khát vọng và sức mạnh vươn lên của dân tộc

Ông Bùi Tất Thắng cho biết, năm 2016, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Ngân hàng thế giới đã phát hành tài liệu “Việt Nam 2035 - Hướng tới Thịnh vượng, Sáng tạo, Công bằng và Dân chủ”, trong đó chỉ ra khát vọng chung của dân tộc Việt Nam về một quốc gia thịnh vượng, trước hết là sự thịnh vượng về kinh tế, là một xã hội “có thu nhập ở mức trung bình cao của thế giới. Tiềm lực và vị thế của quốc gia được nâng cao. Nền kinh tế thị trường hiện đại, có năng lực cạnh tranh cao và hội nhập sâu vào nền kinh tế toàn cầu. Không gian phát triển được mở rộng với những đô thị làm hạt nhân cho các ngành công nghiệp và dịch vụ sáng tạo. Khu vực kinh tế tư nhân trong nước phát triển năng động tham gia tích cực vào chuỗi giá trị toàn cầu”. Cho đến nay, Việt Nam đã trải qua gần 35 năm thực hiện chính sách Đổi mới nền kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Kế thừa những kết quả đạt được của Đổi mới, Việt Nam ngày nay đang hướng tới mục tiêu trở thành nước công nghiệp, có mức thu nhập trung bình cao; có thể chế kinh tế đầy đủ theo các tiêu chuẩn phổ biến của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có năng suất lao động và sức cạnh tranh cao, đảm bảo hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, phát triển con người, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, phát triển xã hội bền vững.

Việt Nam đang khẩn trương triển khai nghiên cứu xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm giai đoạn 2021 - 2030 và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm giai đoạn 2021 - 2025 phục vụ Đại hội XIII của Đảng nhằm thực hiện những mục tiêu thể hiện ý chí, khát vọng và sức mạnh vươn lên của dân tộc, các định hướng phát triển trong thời kỳ tới phải kết hợp nhuần nhuyễn giữa kế thừa và phát triển, đổi mới, sáng tạo; giữa lý luận và thực tiễn; thu hút tối đa trí tuệ, các ý kiến đóng góp của các cơ quan, các tổ chức quốc tế, các tầng lớp Nhân dân, các nhà quản lý, các doanh nhân, các học giả trong và ngoài nước.

Nội dung chính của các định hướng và tầm nhìn phát triển để Việt Nam trở thành một một quốc gia thịnh vượng trong 10 - 25 năm tới về cơ bản vẫn tiếp tục xác định đúng đắn và thực hiện tốt những đột phá chiến lược; các chính sách lớn liên quan đến tìm kiếm những động lực tăng trưởng, nâng cao năng suất lao động và năng lực cạnh tranh; đến việc thực hiện có hiệu quả nhất các cam kết quốc tế về hội nhập cũng như các Mục tiêu toàn cầu về phát triển bền vững (SDGs) của Liên hợp quốc đến năm 2030.

Sáu định hướng phát triển để Việt Nam trở thành quốc gia thịnh vượng

Ông Bùi Tất Thắng phát biểu tại Diễn đàn. Ảnh: MPI

Với tinh thần đó, ông Bùi Tất Thắng đã nêu sáu định hướng phát triển để Việt Nam trở thành quốc gia thịnh vượng. Một là, nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giải quyết tốt hơn quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội.

Mặc dù đã trải qua gần 35 năm chuyển sang nền kinh tế thị trường với rất nhiều cải cách về thể chế và đến nay, những yếu tố và các quan hệ thị trường đã phủ khắp mọi hoạt động của nền kinh tế. Tuy nhiên, chất lượng của thể chế kinh tế thị trường vẫn còn thấp và chưa đồng đều ở các ngành nghề, lĩnh vực; chưa đồng bộ, đầy đủ để bảo đảm thị trường vận hành thông suốt theo nguyên tắc thị trường. Thị trường chưa thực sự là cơ sở, căn cứ để huy động và phân bổ các nguồn lực phát triển. Chất lượng của một số văn bản pháp lý chưa cao, chưa đủ rõ ràng, minh bạch và còn chồng chéo. Việc thực thi pháp luật còn nhiều vướng mắc khiến cho môi trường đầu tư kinh doanh chưa thực sự thông thoáng, an toàn, lành mạnh và nhất quán. Cải cách hành chính tuy rất tích cực nhưng không đồng đều, bộ máy hành chính chưa đáp ứng được nhu cầu quản lý sự vận hành của nền kinh tế thị trường; phối hợp, phân cấp, phân quyền, ủy quyền chưa rõ ràng, rành mạch dẫn đến công việc không trôi chảy.

Vì vậy, nhiệm vụ đặt ra trước mắt là phải nhanh chóng hoàn tất quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập theo thông lệ quốc tế. Theo đó, bên cạnh tiếp tục thực hiện một trong ba đột phá chiến lược “hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” được nêu trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020, Việt Nam tập trung xây dựng bộ máy nhà nước có cấu trúc và phương thức hoạt động phù hợp, hiệu lực và hiệu quả theo tinh thần Nhà nước pháp quyền, kiến tạo phát triển, cung cấp dịch vụ công đầy đủ, kịp thời cho người dân và doanh nghiệp. Đồng thời, nâng cao chất lượng môi trường kinh doanh, bảo đảm cạnh tranh bình đẳng thực sự và phát triển đầy đủ, đồng bộ các loại thị trường, đặc biệt là thị trường đất. Áp dụng nguyên tắc thị trường đối với các đơn vị sự nghiệp công lập. Xây dựng và hoàn thiện khung khổ pháp lý cho các loại hình kinh doanh mới xuất hiện. Việc quản lý, bảo vệ môi trường, việc huy động, phân bổ và sử dụng các nguồn lực phát triển trong xã hội phải theo nguyên tắc thị trường.

Hai là, tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế một cách thực chất để nhanh chóng định hình mô hình tăng trưởng kinh tế mới. Việt Nam thực hiện quá trình cơ cấu lại nền kinh tế từ chỗ lúc đầu chỉ tập trung vào ba lĩnh vực, tái cấu trúc đầu tư với trọng tâm là đầu tư công; cơ cấu lại thị trường tài chính với trọng tâm là tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính; tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước mà trọng tâm là các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước, đến nay đã mở rộng ra toàn bộ nền kinh tế và gắn với quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng - nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả. Tuy nhiên, việc gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng chưa thực sự rõ nét. Một mô hình tăng trưởng mới dựa trên tăng năng suất lao động, trình độ công nghệ - kỹ thuật sản xuất cao chưa được hình thành.

Do vậy, trong thời gian tới, đối với nông nghiệp cần đảm bảo sản xuất ra nông phẩm sạch để cung cấp cho xã hội thực phẩm an toàn; phát triển nền nông nghiệp thương phẩm đa dạng, công nghệ canh tác hiện đại, hình thành các vùng chuyên canh hàng hóa chất lượng cao. Đẩy mạnh phong trào xây dựng nông thôn mới. Thực hiện chương trình trồng rừng nhằm mục tiêu dài hạn là bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu.

Đồng thời, hướng tới giải pháp lớn là chính sách hợp lý về tích tụ đất; khuyến khích phát triển kinh tế trang trại và doanh nghiệp nông nghiệp; mở rộng thị trường; đảm bảo nguồn giống tốt, thức ăn chăn nuôi và phân bón hữu cơ…

Đối với công nghiệp, có hai trọng tâm lớn được xác định là nhóm ngành công nghiệp ưu tiên và phân bố không gian phát triển công nghiệp hợp lý, nhằm mục tiêu trực diện là thúc đẩy tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp.

Đối với khu vực dịch vụ, cần nâng cao toàn diện chất lượng các hoạt động của kinh tế dịch vụ, với các trọng tâm là nâng cao quy mô và hiệu quả hoạt động của thị trường chứng khoán để trở thành kênh cung cấp chủ yếu nguồn vốn cho đầu tư phát triển; Áp dụng chuẩn mực quốc tế cho các hoạt động kế toán, kiểm toán, ngân hàng thương mại...; Cải thiện căn bản phương thức và chất lượng cung cấp dịch vụ công.

Ba là, phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo làm động lực chủ yếu của mô hình tăng trưởng kinh tế mới. Đây được xem là đột phá mới, định hướng rất quan trọng giai đoạn tới. Nâng cao trình độ công nghệ của nền kinh tế, coi đó là tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động của khoa học, công nghệ là mục tiêu căn bản và lâu dài. Theo đó, định hướng chính sách lớn như đổi mới mạnh mẽ cơ chế quản lý và tài chính trong hoạt động nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo, chuyển giao công nghệ phù hợp với cơ chế thị trường.

Bên cạnh đó, lựa chọn và tập trung hỗ trợ triển khai nghiên cứu, ứng dụng phát triển công nghệ cho một số ngành và lĩnh vực then chốt. Nâng cao tiềm lực và trình độ khoa học - công nghệ trong nước để có thể triển khai các hướng nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ mới, lĩnh vực công nghệ ưu tiên, nhất là công nghệ số, thông tin, sinh học, trí tuệ nhân tạo, cơ điện tử, tự động hóa, điện tử y sinh, năng lượng, môi trường… Đồng thời, phát triển mạnh mạng lưới các tổ chức dịch vụ trung gian môi giới, đánh giá chuyển giao công nghệ. Khuyến khích nhập khẩu, chuyển giao công nghệ tiên tiến của thế giới. Tăng cường công tác bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ. Áp dụng hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn hài hòa với tiêu chuẩn quốc tế.

Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về khoa học, công nghệ, đa dạng hóa đối tác, lựa chọn đối tác chiến lược là các quốc gia có nền khoa học, công nghệ tiên tiến; gắn kết giữa hợp tác quốc tế về khoa học, công nghệ với hợp tác quốc tế về kinh tế.

Bốn là, phát triển mạnh mạng lưới kết cấu hạ tầng và hệ thống đô thị. Phát triển hạ tầng cũng là một trong ba nội dung của đột phá chiến lược thời kỳ 2011 - 2020, với nội dung cụ thể là “xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số công trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn”. Thực hiện đột phá này, bằng cảm quan thực tế cũng dễ dàng nhận thấy rằng, so với 10 năm trước đây, năng lực hệ thống kết cấu hạ tầng nói chung và mạng lưới giao thông đường bộ nói riêng được nâng lên đáng kể. Tuy vậy, hệ thống kết cấu hạ tầng vẫn chưa theo kịp nhu cầu phát triển kinh tế và đời sống. Tính đồng bộ, kết nối, nhất là đối với các loại hình giao thông chưa đồng bộ, tập trung chủ yếu vào giao thông đường bộ. Hạ tầng ứng phó với biến đổi khí hậu, công nghệ thông tin chưa hoàn chỉnh và đồng đều ở nhiều địa phương, đặc biệt là vùng núi cao. Hạ tầng đô thị không theo kịp sự gia tăng dân số và tốc độ đô thị hóa, một số công trình chất lượng kém và không tuân thủ nghiêm theo quy hoạch.

Vì vậy, bên cạnh việc đẩy mạnh tiếp tục thực hiện các nội dung đã được xác định của đột phá phát triển kết cấu hạ tầng “tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn”, các hướng tập trung ưu tiên của thời kỳ tới nên bao gồm hoàn thành dứt điểm các công trình đang xây dựng như đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông, đẩy nhanh tiến độ xây dựng các tuyến đường sắt đô thị tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh (trước năm 2025). Đồng thời, khởi công xây dựng và đưa vào sử dụng hai công trình lớn: cảng hàng không quốc tế Long Thành và giai đoạn 1 đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam. Xây dựng hạ tầng số và hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia. Phát triển mạnh hệ thống đô thị theo hướng hoàn thiện và nâng cấp chất lượng các đô thị, tăng cường tính liên kết và lan tỏa của đô thị, làm cho các đô thị trở thành động lực mạnh để phát triển kinh tế - xã hội của các vùng. Hướng giải pháp lớn là tập trung vào các chính sách quản lý quy hoạch; đất đô thị, bất động sản; tạo việc làm; đảm bảo không gian đô thị xanh, sạch, kiến trúc đẹp; cân đối giữa hạ tầng giao thông, cung cấp nước, điện, y tế, giáo dục… với quy mô dân số.

Năm là, phát triển con người và văn hóa, xã hội. Một quốc gia thịnh vượng không thể không nói tới phát triển con người vừa với tư cách là người tham gia phát triển kinh tế, vừa với tư cách là người được sẻ chia, thụ hưởng kết quả của phát triển. Phát triển con người và văn hóa, xã hội cũng luôn được xem là biểu hiện trên bề mặt xã hội của sự thịnh vượng quốc gia và trên thực tế, sự hài lòng và cảm giác hạnh phúc của con người mới là giá trị đích thực của sự thịnh vượng.

Vì thế, định hướng giải pháp của lĩnh vực này nên bao gồm thực hiện nhất quán tư tưởng về tăng trưởng bao trùm, phấn đấu sớm hoàn thành các mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) theo Chương trình nghị sự phát triển bền vững 2030 của Liên hợp quốc. Cùng với đó là xây dựng con người Việt Nam có sức khỏe, có ý thức trách nhiệm công dân cao, có trình độ chuyên môn tốt, có năng lực hội nhập và có lối sống đẹp – chân thành, tín nghĩa.

Song song với đó là thực hiện cải cách tổng thể, hệ thống, đồng bộ chính sách tiền lương theo hướng tuân thủ nguyên tắc phân phối theo lao động và quy luật khách quan của kinh tế thị trường, lấy tăng năng suất lao động là cơ sở để tăng lương. Áp dụng chế độ chức nghiệp thực tài trong đội ngũ cán bộ, công chức. Đổi mới chế độ tuyển dụng, sử dụng, trọng dụng nhân tài khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Xây dựng kế hoạch chi tiết, cụ thể trong việc thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Xây dựng chiến lược việc làm thỏa đáng cho người lao động và chiến lược phát triển trẻ em Việt Nam.

Sáu là, bảo vệ tốt môi trường, sử dụng hiệu quả tài nguyên và ứng phó với biến đổi khí hậu. Con người ngày càng nhận ra rằng, việc sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường tự nhiên và đa dạng sinh học có ý nghĩa cực kỳ to lớn đối với cuộc sống của con người và mức độ bền vững về kinh tế.

Do vậy, hướng giải pháp lớn trong thời gian tới là đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục ý thức bảo vệ môi trường với triết lý con người là một bộ phận hữu cơ của chính môi trường tự nhiên mình đang sống; Khuyến khích những dự án sử dụng công nghệ sạch, thân thiện với môi trường; Có chính sách quy định về lối sống và tiêu dùng xanh trong toàn xã hội; Thực thi nghiêm túc đánh giá tác động môi trường của từng dự án; Thực hiện nguyên tắc đối tượng gây ô nhiễm môi trường phải trả chi phí để xử lý, khắc phục hậu quả, cải tạo và phục hồi môi trường; đối tượng được hưởng lợi từ tài nguyên, môi trường phải có nghĩa vụ đóng góp để đầu tư trở lại cho bảo vệ môi trường.

Kết thúc bài trình bày, ông Nguyễn Tất Thắng nhấn mạnh, một quốc gia thịnh vượng là các mục tiêu đó phản ánh khát vọng về một cuộc sống có trời xanh, nước sạch, không ngừng cải thiện về điều kiện vật chất; một xã hội lành mạnh, dân chủ và công bằng, có trình độ văn hóa cao; một nhà nước hiệu quả và có trách nhiệm giải trình.

Xây dựng đất nước Việt Nam thịnh vượng, có mức thu nhập cao

Toàn cảnh Diễn đàn VRDF 2019. Ảnh: MPI

Tại Diễn đàn, các chuyên gia trong nước và quốc tế đã đưa ra các ý kiến đánh giá, góp ý về định hướng phát triển của Việt Nam trong thời gian tới và Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng làm rõ một số vấn đề được các đại biểu quan tâm.

Theo đó, về phát triển bền vững, sáng tạo bao trùm, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết, kinh tế Việt Nam đang ổn định tốt, mục tiêu vẫn tiếp tục duy trì đà tăng trưởng và chúng ta phải phấn đấu đạt được tốc độ tăng trưởng cao hơn trên cơ sở duy trì tính ổn định và vẫn đảm bảo được tính bền vững. Điều này đòi hỏi trong 10 năm tới, Việt Nam phải có kịch bản khác, phải có ước mơ, khát vọng mới tạo ra được điểm khác. Do vậy, bài toán của Việt Nam là làm thế nào để vượt qua được bẫy thu nhập trung bình, làm thế nào để thu hẹp được khoảng cách phát triển giữa các nước để trở thành một nước công nghiệp hiện đại. Tất cả các hành động của Chính phủ Việt Nam là để tìm được cách tiếp cận mới nhằm phát triển nhanh hơn, bền vững hơn. Do vậy, phát triển bền vững và bao trùm là yếu tố căn bản nhất.

Trong chuyến công tác tại Hoa Kỳ, Tổ Biên tập Tiểu ban Kinh tế - Xã hội Đại hội XIII đã làm việc với giới chuyên gia, học giả Hoa Kỳ với mục tiêu trao đổi về các xu thế phát triển của kinh tế thế giới, giải pháp phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo của Việt Nam. Tại các buổi làm việc, các chuyên gia đều nhấn mạnh vấn đề cân bằng hài hòa giữa phát triển kinh tế với xã hội. Đây cũng là lần đầu tiên chuyên gia kinh tế nổi tiếng thế giới Micheal Porter nhấn mạnh về vấn đề này. Phát triển bền vững, bao trùm là vấn đề cân bằng hài hòa giữa xã hội với môi trường và đây cũng là những vấn đề đặt ra trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm tới của Việt Nam.

Tại các buổi làm việc, các chuyên gia, học giả cũng đã trao đổi về nền kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Nhận diện về tình hình kinh tế thế giới 10 năm tới, các chuyên gia cho rằng, các vấn đề về khoảng cách giàu nghèo, phi toàn cầu hóa, chiến tranh thương mại và biến đổi khí hậu sẽ tác động đến nền kinh thế thế giới. Theo dự báo, môi trường kinh tế thế giới cơ bản đang có những chuyển biến không thuận, kinh tế thế giới sẽ giảm tốc. Trong bối cảnh đó, Việt Nam sẽ phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức nhưng cũng có những cơ hội vàng để phát triển bền vững trong thập niên tới.

Theo các chuyên gia, nếu Việt Nam vẫn tận dụng tốt những cơ hội đang có và tìm ra được con đường đi cho mình một cách khéo léo thì Việt Nam vẫn tận dụng được các cơ hội để phát triển. Bối cảnh kinh tế thế giới rất quan trọng vì Việt Nam có độ mở nền kinh tế lớn. Do vậy, nếu kinh tế bên ngoài có sự thay đổi thì đều ảnh hưởng đến nền kinh tế Việt Nam, trong khi tính tự chủ, sức chịu đựng của nền kinh tế Việt Nam chưa đủ mạnh, quy mô của nền kinh tế chưa đủ lớn nên sự tác động ảnh hưởng sẽ rất rõ đến nền kinh tế Việt Nam.

Về đột phá, hiện nay Việt Nam đang thực hiện ba đột phát chiến lược về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính; Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ; Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số công trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn. Trong 10 năm tới, Việt Nam vẫn tiếp tục thực hiện tiếp ba đột phá này một cách toàn diện, hiệu quả và thực chất hơn. Bên cạnh đó, Việt Nam đề xuất hai trọng tâm trong giai đoạn tới. Thứ nhất là khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Do vậy, việc chuyển đổi sang nền kinh tế số và phát triển nhanh, bền vững dựa trên đổi mới sáng tạo và khoa học công nghệ là khâu mang tính đột phá trong thời gian tới. Thứ hai là, phát huy hết những giá trị văn hóa con người Việt Nam, đây là nguồn lực mềm nhưng rất to lớn. Giá trị này nếu được khơi dậy, được tạo môi trường phát triển thì sẽ là sức mạnh vô giá để tạo thành sức mạnh của cả dân tộc, cả đất nước có thể phát triển.

Về mục tiêu đến năm 2030 và năm 2045, Việt Nam cũng tính toán hết sức khoa học, có căn cứ vào tốc độ tăng trưởng, thu nhập bình quân đầu người cũng như các điều kiện thuận lợi, bất lợi để đạt mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam hoàn thành mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; thuộc nhóm 3 nước dẫn đầu khu vực ASEAN về công nghiệp, trong đó một số ngành công nghiệp có sức cạnh tranh quốc tế và tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu. Tầm nhìn đến năm 2045, Việt Nam trở thành nước công nghiệp phát triển hiện đại.

Về mục tiêu tăng trưởng, theo Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng, việc đặt ra con số phát triển phải thể hiện được sự khát vọng, phấn đấu của Việt Nam. Còn nếu mục tiêu đề ra để đảm bảo tính an toàn và khả thi thì không phải cần tư duy nhiều lắm. Do vậy, chúng ta cần phải có cách tiếp cận mới, có mô hình mới, có những động lực mới và phải nỗ lực cải cách mạnh mẽ hơn nữa thì trong tất cả các định hướng đã thể hiện nỗ lực cải cách của mình.

Về thu hút nhân tài ở nước ngoài, các chuyên gia, học giả Hoa Kỳ cũng đã nói nhiều đến vấn đề này và cho rằng, đây là mỏ vàng của Việt Nam cần phải khai thác và tận dụng. Thực tế, việc thành lập mạng lưới đổi mới sáng tạo, quy tụ 100 người con Việt Nam tiêu biểu cho những tài năng, trí tuệ Việt Nam trong lĩnh vực công nghệ từ khắp nơi trên thế giới, góp phần đặt nền móng cho sự kết nối chặt chẽ giữa những cá nhân để hình thành một nguồn lực quý báu, tạo nên sức mạnh của một dân tộc nhằm hiện thực hóa các cơ hội do Cuộc cách mạng công nghiệp lần tư đem lại đối với sự phát triển của đất nước. Bên cạnh đó, Việt Nam đang xây dựng Đề án trọng dụng nhân tài khắp thế giới về xây dựng, đóng góp cho sự phát triển của quê hương, đất nước.

Về bộ máy hành chính, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho rằng, vấn đề này đang cản trở và thiếu động lực để cải cách. Trong phần định hướng phát triển, Việt Nam đã đề cập đến nội dung này là tiếp tục tinh gọn bộ máy, hiệu lực hiệu quả và theo kịp với việc chuyển đổi các mô hình tăng trưởng kinh tế.

Về việc kết nối, hiện nay việc kết nối vùng miền, kết nối giữa các ngành lĩnh vực để trở thành chuỗi giá trị, chuỗi cung ứng cũng như kết nối giữa doanh nghiệp trong với nước ngoài, kết nối giữa các bộ, ngành…còn thiếu. Các vấn đề này sẽ được lưu ý trong quá trình hoàn thiện dự thảo Chiến lược trong thời gian tới.

Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh, việc tham vấn các ý kiến tại Diễn đàn VRDF mới chỉ là bước đầu trong chia sẻ định hướng xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế xã hội và mong muốn, trong quá trình xây dựng, hoàn thiện Dự thảo sẽ tiếp tục nhận được ý kiến đóng góp của các tổ chức quốc tế, chuyên gia trong nước và nước ngoài để Việt Nam có được Chiến lược đáp ứng được yêu cầu trong tình hình mới và có tầm nhìn tốt hơn để xây dựng đất nước Việt Nam thịnh vượng, có mức thu nhập cao, đúng với mục tiêu đã đề ra./.

Tùng Linh
Bộ Kế hoạch và Đầu tư

  • Tổng số lượt xem: 1147
  •  

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)