Skip Ribbon Commands
Skip to main content
Ngày 25/03/2020-11:31:00 AM
Báo cáo tình hình đầu tư trực tiếp nước quý I năm 2020

Tính đến 20/3/2020, tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần của nhà ĐTNN đạt 8,55 tỷ USD, bằng 79,1% so với cùng kỳ năm 2019. Vốn thực hiện của dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài ước đạt 3,85 tỷ USD, bằng 93,4% so với cùng kỳ năm 2019.

Tính lũy kế đến ngày 20/3/2020, cả nước có 31.665 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 370 tỷ USD. Vốn thực hiện lũy kế của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài ước đạt 215,63 tỷ USD, bằng 58,3% tổng vốn đầu tư đăng ký còn hiệu lực.

Thông tin chi tiết như sau:

I. VỀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM

1. Tình hình thu hút ĐTNN Qúy I năm 2020:

1.1. Tình hình hoạt động:

Vốn thực hiện

Tính tới 20/3/2020, ước tính các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã giải ngân được 3,85 tỷ USD, bằng 93,4% so với cùng kỳ năm 2019.

Tình hình xuất, nhập khẩu

Xuất khẩu: Xuất khẩu của khu vực ĐTNN (kể cả dầu thô) đạt 40,4 tỷ USD, bằng 97,1% so với cùng kỳ và chiếm 70,8% kim ngạch xuất khẩu. Xuất khẩu không kể dầu thô đạt gần 39,9 tỷ USD, bằng 97,1% so với cùng kỳ năm 2019 và tăng nhẹ (0,2%) so với cùng kỳ năm 2018, chiếm 67,5% kim ngạch xuất khẩu cả nước trong Quý I năm 2020. Do tác động của dịch Covid - 19, kim ngạch xuất khẩu của khu vực ĐTNN đã giảm so với cùng kỳ sau nhiều năm tăng liên tục.

Nhập khẩu: Nhập khẩu của khu vực ĐTNN đạt 33,18 tỷ USD, bằng 99,2% so cùng kỳ và chiếm 59% kim ngạch nhập khẩu cả nước.

Trong Quý I năm 2020, mặc dù kim ngạch xuất nhập khẩu giảm so với cùng kỳ, song khu vực ĐTNN vẫn xuất siêu 7,2 tỷ USD kể cả dầu thô và xuất siêu 6,7 tỷ USD không kể dầu thô. Trong khi đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 4,4 tỷ USD.

1.2. Tình hình đăng ký đầu tư

Tính đến 20/3/2020, tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần của nhà ĐTNN đạt 8,55 tỷ USD, bằng 79,1% so với cùng kỳ năm 2019. Trong đó:

Vốn đăng ký mới: trong Qúy I năm 2020, cả nước có 758 dự án mới được cấp GCNĐKĐT. Tổng vốn đăng ký cấp mới đạt 5,5 tỷ USD, tăng 44,8% so với cùng kỳ năm 2019. Vốn đăng ký mới tăng do trong Quý I năm 2020 có dự án Nhà máy điện khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) Bạc Liêu được cấp GCNĐKĐT mới với tổng vốn đầu tư là 4 tỷ USD.

Vốn điều chỉnh: trong Quý I năm 2020, có 236 lượt dự án đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư với tổng vốn đăng ký tăng thêm đạt trên 1,07 tỷ USD, bằng 82% so với cùng kỳ năm 2019.

Góp vốn, mua cổ phần: cũng trong Quý I năm 2020, cả nước có 2.523 lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà ĐTNN với tổng giá trị vốn góp gần 2 tỷ USD, tăng 52,6% về số lượt góp vốn, mua cổ phần và bằng 34,4% giá trị vốn góp so với cùng kỳ năm 2019. Mặc dù số lượt góp vốn, mua cổ phần tăng nhiều, song quy mô góp vốn nhỏ, bình quân chỉ có 0,78 triệu USD/ lượt góp vốn (nhỏ hơn nhiều so với quy mô bình quân của Quý I năm 2019 là 3,4 triệu USD/lượt góp vốn. Trong Quý I năm 2019 có trường hợp góp vốn, mua cổ phần của Beerco Limited (Hồng Kông) vào công ty TNHH Vietnam Beverage với giá trị vốn góp 3,85 tỷ USD).

Nếu không tính các dự án lớn trên tỷ USD (Dự án đầu tư mới 4 tỷ USD tại Bạc Liêu năm 2020 và trường hợp góp vốn, mua cổ phần của Beerco vào Beverage năm 2019) thì tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần của nhà ĐTNN trong Quý I năm 2020 bằng 64,6% so với cùng kỳ năm 2019. Số lượt dự án đăng ký mới cũng như điều chỉnh mở rộng quy mô dự án đều giảm (bằng 95% và 82,8% so với cùng kỳ). Dịch viêm đường hô hấp cấp Covid-19 đang ngày càng diễn biến hết sức phức tạp đã làm ảnh hưởng lớn tới việc đi lại của các nhà đầu tư cũng như các quyết định đầu tư mới và mở rộng quy mô dự án hiện có của nhà đầu tư nước ngoài, làm cho thu hút ĐTNN trong Quý I năm 2020 giảm cả về số lượng cũng như tổng vốn đầu tư đăng ký.

Theo lĩnh vực đầu tư

Trong Quý I năm 2020, các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 18 ngành lĩnh vực, trong đó lĩnh vực sản xuất phân phối điện dẫn đầu với tổng số vốn đạt hơn 4 tỷ USD, chiếm 47,5% tổng vốn đầu tư đăng ký. Lĩnh vực công nghiệp chế biến chế tạo đứng thứ 2 với tổng vốn đầu tư 2,72 tỷ USD, chiếm 31,9% tổng vốn đầu tư đăng ký. Tiếp theo lần lượt là các lĩnh vực bán buôn bán lẻ, hoạt động kinh doanh bất động sản với tổng vốn đăng ký 682 triệu USD và 264 triệu USD.

Theo đối tác đầu tư

Trong Quý I năm 2020, đã có 87 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam. Singapore dẫn đầu với tổng vốn đầu tư 4,54 tỷ USD, chiếm 53,1% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam; Nhật Bản đứng thứ hai với tổng vốn đầu tư 846,7 triệu USD, chiếm 9,9% tổng vốn đầu tư. Trung Quốc đứng vị trí thứ 3 với tổng vốn đầu tư đăng ký 815,6 triệu USD (trong đó có dự án cấp mới 300 triệu USD và 1 dự án điều chỉnh vốn 138 triệu USD; 2 trường hợp này đã chiếm 55,2% tổng vốn đầu tư của Trung Quốc trong Quý I), chiếm 9,3% tổng vốn đầu tư. Tiếp theo là Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan,...

Theo địa bàn đầu tư

Các nhà ĐTNN đã đầu tư vào 55 tỉnh, thành phố trên cả nước. Bạc Liêu dẫn đầu với 1 dự án lớn có vốn đầu tư 4 tỷ USD, chiếm 46,8% tổng vốn đầu tư đăng ký. TP Hồ Chí Minh đứng thứ 2 với tổng vốn đăng ký đạt hơn 1 tỷ USD, chiếm 12,3% tổng vốn đầu tư (trong đó đầu tư theo phương thức góp vốn, mua cổ phần chiếm tỷ trọng lớn, chiếm 78,8% tổng vốn đầu tư đăng ký của Thành phố và chiếm 53,2% tổng số lượt góp vốn, mua cổ phần và chiếm 42,3% tổng giá trị vốn góp của cả nước). Tây Ninh đứng thứ 3 với 506,8 triệu USD, chiếm 6% tổng vốn đầu tư. Tiếp theo lần lượt là Hà Nội, Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu...

Một số dự án lớn trong Quý I năm 2020

- Dự án Nhà máy điện khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) Bạc Liêu thuộc Trung tâm nhiệt điện LNG Bạc Liêu (Singapore), tổng vốn đầu tư đăng ký 4 tỷ USD với mục tiêu sản xuất điện từ khí tự nhiên hóa lỏng LNG.

- Dự án Nhà máy sản xuất lốp xe Radian Jinyu (Việt Nam), tổng vốn đầu tư 300 triệu USD với mục tiêu sản xuất lốp xe toàn thép TBR do nhà đầu tư Trung Quốc đầu tư tại Tây Ninh.

- Dự án chế tạo lốp xe Radian (Trung Quốc) tại Tây Ninh điều chỉnh tăng vốn đầu tư thêm 138 triệu USD.

- Dự án nhà máy Sews – components Việt Nam (Nhật Bản) với mục tiêu sản xuất các linh kiện điện và điện tử cho ô tô và mô tô; sản xuất các sản phẩm từ Plastic tại Hưng Yên điều chỉnh tăng vốn đầu tư thêm 75,2 triệu USD.

- Dự án sản xuất linh kiện điện tử, thiết bị ngoại vi và thiết bị quang học (Đài Loan) tại Hải Phòng điều chỉnh tăng vốn đầu tư thêm 68 triệu USD.

2. Tình hình ĐTNN luỹ kế tới 20/3/2020

Tính lũy kế đến ngày 20/3/2020, cả nước có 31.665 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 370,1 tỷ USD. Vốn thực hiện lũy kế của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài ước đạt 215,6 tỷ USD, bằng 58,3% tổng vốn đăng ký còn hiệu lực.

- Theo lĩnh vực: các nhà ĐTNN đã đầu tư vào 19/21 ngành trong hệ thống phân ngành kinh tế quốc dân, trong đó lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm tỷ trọng cao nhất với 216,7 tỷ USD, chiếm 58,6% tổng vốn đầu tư, tiếp theo là các lĩnh vực kinh doanh bất động sản với 58,6 tỷ USD (chiếm 15,8% tổng vốn đầu tư); sản xuất, phân phối điện với 27,7 tỷ USD (chiếm 7,5% tổng vốn đầu tư).

- Theo đối tác đầu tư: Hiện đã có 136 quốc gia, vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam. Trong đó đứng đầu là Hàn Quốc với tổng vốn đăng ký 68,6 tỷ USD (chiếm 18,5% tổng vốn đầu tư). Nhật Bản đứng thứ hai với 59,7 tỷ USD (chiếm 16,1% tổng vốn đầu tư), tiếp theo lần lượt là Singapore và Đài Loan, Hồng Kông.

- Theo địa bàn: ĐTNN đã có mặt ở tất cả 63 tỉnh, thành phố trong cả nước, trong đó thành phố Hồ Chí Minh vẫn là địa phương dẫn đầu trong thu hút ĐTNN với 47,5 tỷ USD (chiếm 12,8% tổng vốn đầu tư); tiếp theo là Hà Nội với 34,64 tỷ USD (chiếm 9,4% tổng vốn đầu tư); Bình Dương với 34,61 tỷ USD (chiếm 9,3% tổng vốn đầu tư).

3. Đánh giá tác động của dịch Covid-19 đối với ĐTNN tại Việt Nam trong Quý I năm 2020

Qua tổng hợp tình hình từ các Hiệp hội, doanh nghiệp ĐTNN thì những khó khăn của doanh nghiệp tập trung chủ yếu và các vấn đề sau:

- Thiếu hụt chuyên gia, kỹ thuật viên cao cấp người nước ngoài (đặc biệt là người Hàn Quốc, Đài Loan và Trung Quốc) do chính sách hạn chế đi lại và dừng cấp Giấy phép lao động từ các nước có dịch đang và sẽ gây thiệt hại lớn cho các doanh nghiệp. Đại sứ quán Hàn Quốc, Đại sứ quán Trung Quốc, Văn phòng Kinh tế và Văn hóa Đài Bắc, Tập đoàn LG, Foxconn, Samsung và các Hiệp hội doanh nghiệp đều có văn bản phản ánh về vấn đề này.

- Chính sách hạn chế đi lại khiến cho các hoạt động xúc tiến đầu tư và các chuyến công tác tìm hiểu cơ hội đầu tư của các nhà đầu tư tiềm năng bị hủy bỏ hoặc trì hoãn, việc đưa ra các quyết định đầu tư bị ảnh hưởng nghiêm trọng (Apple, ExxonMobil… hủy chuyến công tác và trì hoãn việc ra quyết định đầu tư).

- Việc nhập khẩu đầu vào sản xuất cho rất nhiều dự án ĐTNN còn khó khăn do việc thông quan hàng hóa vẫn còn chậm trễ, ảnh hưởng tới tiến độ, công tác chuẩn bị cũng như triển khai các dự án ở Việt Nam như chỉ sản xuất cầm chừng hoặc dừng. Apple cũng phải hoãn dự kiến tăng 20% số lượng đơn hàng sản xuất tại Việt Nam (khoảng 12 tỷ USD xuất khẩu). Nike ước tính có khoảng 10 triệu đôi giày và hàng may mặc bị chậm sản xuất tại Việt Nam và Indonesia.

- Nhiều doanh nghiệp phải vận chuyển nguyên nhiên liệu cho sản xuất thông qua đường biển, đường hàng không thay cho đường bộ nên chi phí logistic tăng cao. Việc tìm nguồn cung ngoài Trung Quốc trong ngắn hạn không dễ, tăng chi phí, không ổn định về số lượng và chất lượng (Foxconn, Apple, Nike và nhiều doanh nghiệp Đài Loan, Trung Quốc tại Việt Nam).

- Nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn về tài chính do thị trường tiêu thụ giảm mạnh, sản xuất đình trệ. Doanh nghiệp bị giảm nguồn thu đáng kể đối với hàng hóa xuất khẩu sang các nước có dịch (các nước EU, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore,... ). Korcham, Eurocham kiến nghị các cơ quan ban ngành liên quan phối hợp thực thi các giải pháp đồng bộ để hỗ trợ doanh nghiệp như gia hạn khoản nợ vay ngân hàng, giảm lãi vay, gia hạn thời gian đóng thuế cho doanh nghiệp.

- Nhiều doanh nghiệp không thể tiếp tục duy trì việc kinh doanh nên đã quyết định tạm ngưng hoạt động hoặc cho nhân viên nghỉ luân phiên. Nhiều lao động bị mất việc làm, không có thu nhập nên đời sống gặp nhiều khó khăn.

4. Một số giải pháp khắc phục ảnh hưởng của dịch Covid - 19 tới ĐTNN trong thời gian tới

Diễn biến của dịch bệnh vẫn tiếp tục khó lường và ảnh hưởng đến tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ĐTNN. Để giải quyết khó khăn cho các doanh nghiệp ĐTNN tại Việt Nam, cần thực hiện một số giải pháp cụ thể sau:

- Đối với việc nhập cảnh của các chuyên gia trong các dự án ĐTNN đề nghị cho phép áp dụng thống nhất như trường hợp của Tập đoàn Samsung: nhập cảnh theo hình thức đặc biệt vào Việt Nam sau khi có xét nghiệm âm tính, làm việc tại khu độc lập, tự cách ly, do UBND tỉnh bảo lãnh và giám sát. (công văn số 1746/VPCP-QHQT ngày 6/3/2020 và công văn số 1849/VPCP-QHQT ngày 11/3/2020).

- Cho phép các chuyên gia, kỹ thuật nước ngoài đang làm việc tại các doanh nghiệp ĐTNN được gia hạn Giấy phép lao động để tạm thay thế cho những người chưa được nhập cảnh. Cấp Giấy phép lao động cho chuyên gia Đài Loan thay thế cho chuyên gia của Trung Quốc không vào được Việt Nam.

- Cho phép áp dụng thủ tục thông quan nhanh đối với nguyên vật liệu, hàng hóa nhập khẩu để sản xuất trong thời gian đang có dịch. Các doanh nghiệp tự kê khai và tự chịu trách nhiệm. Dựa trên kết quả hậu kiểm sau thông quan và công tác quản lý nhà nước sau này, trường hợp lợi dụng chính sách đặc biệt trong thời gian dịch bệnh sẽ bị xử lý nghiêm.

- Các Bộ, ngành, địa phương dừng tất cả các cuộc thanh tra, kiểm tra đối với doanh nghiệp trong thời gian có dịch để doanh nghiệp tập trung sản xuất kinh doanh, phục hồi hoạt động sau tác động của dịch bệnh, trừ trường hợp có nghi vấn hoặc có dấu hiệu vi phạm pháp luật.

- Xem xét, giải quyết các đề xuất xin giãn tiến độ thực hiện dự án do khó khăn dịch bệnh; kéo dài thời hạn nộp tiền ký quỹ bảo đảm thực hiện dự án; rút ngắn thời gian thực hiện các thủ tục hành chính liên quan tới dự án đầu tư.

II. VỀ ĐẦU TƯ CỦA VIỆT NAM RA NƯỚC NGOÀI

Trong Quý I năm 2020, tổng vốn đầu tư Việt Nam ra nước ngoài cấp mới và tăng thêm đạt 49,3 triệu USD, bằng 41,1% so với cùng kỳ năm 2019. Trong đó có 27 dự án được cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư mới, với tổng vốn đầu tư bên Việt Nam đạt 22,9 triệu USD (bằng 28,5% so với cùng kỳ 2019) và 06 lượt dự án điều chỉnh vốn đầu tư với vốn đầu tư Việt Nam tăng thêm 26,3 triệu USD (bằng 66,4% so với cùng kỳ năm 2019).

Các nhà đầu tư Việt Nam đã đầu tư ra nước ngoài ở 10 lĩnh vực. Trong đó dịch vụ lưu trú và ăn uống dẫn đầu với 2 dự án, tổng vốn đăng ký 14,7 triệu USD, chiếm 29,9%. Lĩnh vực hoạt động chuyên môn, khoa học xếp thứ 2 với tổng vốn đầu tư 12 triệu USD, chiếm 24,3%; tiếp theo là các lĩnh vực công nghiệp chế biến chế tạo, bán buôn bán lẻ,…

Có 13 quốc gia, vùng lãnh thổ nhận đầu tư của Việt Nam trong Quý I năm 2020. Dẫn đầu là Hoa Kỳ với 7 dự án đầu tư mới và 1 dự án điều chỉnh vốn, tổng vốn đầu tư đăng ký mới và tăng thêm đạt 20,1 triệu USD, chiếm 40,8% tổng vốn đầu tư. Singapore đứng thứ hai với 12,8 triệu USD, chiếm gần 26%. Tiếp theo là Campuchia, Cuba, Hồng Kông,….


File đính kèm:
FDI_3.2020.xlsx

Bộ Kế hoạch và Đầu tư

    Tổng số lượt xem: 7419
  •  

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)