(MPI) - Tại phiên chất vấn và trả lời chất vấn về lĩnh vực kế hoạch và đầu tư diễn ra chiều ngày 11/11/2021, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng đã trả lời chất vấn các nội dung về giải pháp phục hồi và phát triển kinh tế trong bối cảnh tình hình mới; các giải pháp hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh để phục hồi, phát triển sản xuất, kinh doanh; giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ thực hiện giải ngân vốn đầu tư công và các dự án trọng điểm quốc gia…
|
Hình ảnh tại Phiên chất vấn. Ảnh: quochoi.vn |
Trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội tỉnh Tuyên Quang Ma Thị Thúy về những kinh nghiệm từ các gói hỗ trợ của quốc tế, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết, đại dịch COVID-19 vừa qua là một đại dịch chưa có tiền lệ, chưa từng gặp bao giờ và tác động hết sức nặng nề đến toàn bộ các mặt kinh tế - xã hội của cả thế giới, trong đó có Việt Nam. Đối với thế giới, các nước đã có những chính sách và quyết sách rất nhanh, với đặc điểm lớn như có những gói hỗ trợ quy mô rất lớn, chưa có tiền lệ và bất chấp những quy định về tài chính; chấp thuận, chấp nhận tăng trần nợ công cũng như nợ Chính phủ và bội chi ngân sách; thống nhất rất nhanh, quyết định rất nhanh, thực hiện rất dễ và làm ngay; hỗ trợ dòng tiền cho một số ngành và lĩnh vực ưu tiên; đầu tư cho hạ tầng.
Về chính sách tài khóa, các nước này đều tăng chi cho y tế và phòng, chống dịch, trợ giúp xã hội và hộ gia đình có thu nhập thấp với phương thức cấp phát bằng tiền mặt, hỗ trợ về lương thực, tiền điện, chi trả các chính sách an sinh xã hội, bảo hiểm từ quỹ bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm xã hội. Miễn giảm thuế, phí, thuế giá trị gia tăng, thu nhập cá nhân cho doanh nghiệp trong một số ngành, lĩnh vực bị ảnh hưởng.
Phục hồi và phát triển nhanh trên cơ sở thích ứng an toàn, linh hoạt và kiểm soát hiệu quả dịch bệnh COVID-19
Về quan điểm, mục tiêu, phạm vi, đối tượng của Chương trình hỗ trợ, phục hồi và phát triển kinh tế, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết, sau khi nghiên cứu và tiếp thu ý kiến của các chuyên gia trong nước, ngoài nước cũng như tình hình thực tiễn Việt Nam và kinh nghiệm quốc tế, Bộ Kế hoạch và Đầu tư nêu ra một số quan điểm.Thứ nhất là, phải có một quy mô đủ lớn. Thứ hai là, thời gian thực hiện phải phù hợp, bảo đảm được ổn định kinh tế vĩ mô và các cân đối lớn của nền kinh tế.
Thứ ba là, phải có các hỗ trợ cho cả phía cung và phía cầu của nền kinh tế. Thực hiện một cách linh hoạt, phù hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ, gắn kết chặt chẽ với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm, kế hoạch đầu tư công, kế hoạch tài chính công 5 năm, kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế đang thực hiện, thực hiện gắn kết, lồng ghép vào các chương trình này.
Thứ tư là, phải tập trung vào các chính sách tác động ngay, kịp thời để hỗ trợ và phối hợp đồng thời có tính đến vấn đề dài hạn, như xuất khẩu, tiêu dùng nội địa. Giữa các chính sách và giải pháp phải gắn với cơ chế thực hiện một cách cụ thể để đảm bảo tính khả thi và hiệu quả. Hỗ trợ phải có trọng tâm, trọng điểm, đảm bảo tính khả thi và hiệu quả gắn với nguồn lực và khả năng vay, trả nợ của nền kinh tế.
Mục tiêu của Chương trình là phục hồi và phát triển nhanh trên cơ sở thích ứng an toàn, linh hoạt và kiểm soát hiệu quả dịch bệnh COVID-19 theo tinh thần của Nghị quyết số 128/NQ-CP ngày 11/10/2021 của Chính phủ. Phải đảm bảo chủ động sản xuất, kinh doanh cho doanh nghiệp hoạt động trong mọi điều kiện trước tác động của dịch bệnh, đảm bảo mục tiêu tăng trưởng của giai đoạn 2021-2025 khoảng 6,5-7%. Đó là mục tiêu Đại hội Đảng lần thứ XIII đã đề ra, phải kiên định giữ nguyên mục tiêu này để phấn đấu. Ổn định kinh tế vĩ mô và các cân đối lớn của nền kinh tế, nuôi dưỡng và củng cố các nguồn thu ngân sách nhà nước, an toàn hệ thống tổ chức tín dụng. Đảm bảo an sinh xã hội, đời sống của người dân, người nghèo, đối tượng yếu thế, đối tượng xã hội; tránh giải thể, phá sản và thâu tóm của doanh nghiệp.
Về đối tượng và phạm vi của Chương trình, đó là người dân, người lao động, doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh, các ngành, lĩnh vực bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Đồng thời, những ngành có tiềm năng, khả năng để phục hồi nhanh và có thể tạo thành động lực lan tỏa cho nền kinh tế, đóng góp lớn cho nền kinh tế.
Về phạm vi là trên cả nước nhưng sẽ có trọng tâm, trọng điểm. Đối với người dân, người lao động thì phải xác định rõ một số đối tượng. Đối với cả doanh nghiệp hay địa phương cũng phải rõ một số địa bàn trọng điểm.
Về thời gian thực hiện, Chương trình sẽ được thực hiện trong 2 năm là năm 2022 và năm 2023. Nếu được Quốc hội thông qua ngay tại kỳ họp cuối năm nay thì sẽ được thực hiện ngay đầu năm 2022 để phục hồi nhanh và phát triển nhanh nền kinh tế, đảm bảo các mục tiêu đã đề ra.
Cũng liên quan đến vấn đề về gói kích thích đầu tư giai đoạn trước có khác gì so với lần này được đại biểu Quốc hội Võ Thị Bích Sinh chất vấn, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh, phải rút kinh nghiệm từ được gì và chưa được gì của gói kích cầu đầu tư năm 2008-2009 để phát huy được những mặt tốt, tránh được những khiếm khuyết của chương trình lúc đó.
Gói kích thích đầu tư trước đây tập trung chủ yếu vào thúc đẩy sản xuất kinh doanh và xuất khẩu, kích cầu đầu tư tiêu dùng, bảo đảm an sinh xã hội. Đây là 3 mục tiêu lớn nhất của chương trình lúc đó, giúp đất nước vượt qua được khủng hoảng. Từ những kết quả đạt được, Bộ trưởng nêu 4 bài học kinh nghiệm từ gói kích cầu đầu tư năm 2008-2009. Thứ nhất là, cần phải có một chương trình tổng thể với quy mô đủ lớn, đủ khả năng vay, trả nợ và khả năng hấp thụ của nền kinh tế.
Thứ hai là, phải thực hiện đồng bộ, hiệu quả, kịp thời và đảm bảo ổn định, hỗ trợ có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào một số ngành, lĩnh vực có khả năng phục hồi; hỗ trợ cho dòng tiền và ổn định tài chính; huy động các nguồn lực quốc tế khác, đặc biệt là phải có kiểm soát rủi ro và giám sát chặt chẽ trong thực hiện.
Về thời điểm phục hồi, đến nay thì thực tế chưa có một quan điểm thống nhất thế nào là phục hồi, thời điểm nào là thời điểm phục hồi. Theo quan điểm của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nếu đã gọi là phục hồi tức là tất cả các hoạt động về kinh tế, tất cả các hoạt động của doanh nghiệp, các hoạt động đi lại của người dân phải trở lại bình thường và tốc độ tăng trưởng phải quay trở lại đà như trước khi dịch COVID-19 xảy ra. Thời điểm phục hồi đang được dự tính nếu bắt đầu thực hiện từ đầu năm 2022 thì quá trình phục hồi sẽ diễn ra ngay cuối của năm 2022 và sẽ tăng dần lên đến cuối năm 2023. Đến cuối năm 2023 nếu thực hiện tốt, kiểm soát tốt, thực hiện hiệu quả gói kích thích đầu tư, các hoạt động sẽ trở lại trạng thái bình thường như mong muốn, kỳ vọng.
|
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng trả lời chất vấn. Ảnh: TTXVN |
Chậm giải ngân vốn đầu tư công
Đại biểu Quốc hội Âu Thị Mai về tỷ lệ giải ngân đầu tư hiện nay đang rất thấp và cácgiải pháp trong thời gian tới, Bộ trưởng cho biết, hiện nay giải ngân vốn đầu tư công là một vấn đề được rất nhiều đại biểu Quốc hội, cử tri cả nước quan tâm và cũng đã được nêu tại rất nhiều kỳ họp của cả Quốc hội khóa XIV nhưng vẫn chưa được giải quyết một cách triệt để, tỷ lệ giải ngân vẫn rất thấp, đặc biệt là năm nay có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan.
Thứ nhất là, do công tác chuẩn bị dự án rất kém, chất lượng không cao, chủ yếu mang tính hình thức, sau khi được chấp thuận chủ trương đầu tư mới bắt đầu thực hiện một cách thực tế, điều chỉnh nhiều lần, mất rất nhiều thời gian.
Thứ hai là, về giải phóng mặt bằng. Đây cũng là câu chuyện muôn thuở chưa thể được giải quyết ngay. Nếu các quy định của Luật Đất đai không giải quyết triệt để thì công tác giải phóng mặt bằng cũng không giải quyết được, vẫn bị vướng mắc về nguồn gốc đất đai, giá đền bù, tranh chấp, khiếu kiện, ý thức người dân,… làm chậm tiến độ.
Riêng năm 2021, có những nguyên nhân như bị ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 và phải giãn cách xã hội; nguyên, nhiên vật liệu, nhân công, thiếu lao động, chi phí logistics tăng cao. Đây cũng là năm đầu thực hiện kế hoạch đầu tư công trung hạn, năm tổ chức Đại hội Đảng cũng như bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Tuy nhiên, khâu tổ chức thực hiện hiện nay vẫn là khâu chính. Hiện toàn bộ vấn đề từ thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư, tất cả các nhóm A B, C đã phân cấp cho địa phương; thẩm định nguồn vốn và khả năng cân đối vốn đã phân cấp cho địa phương; điều chỉnh chủ trương đầu tư đã phân cấp cho các bộ, ngành, địa phương; phê duyệt, giao vốn chi tiết, điều chỉnh kế hoạch cũng đang phân cấp cho các bộ, ngành, địa phương.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư chỉ còn ba chức năng chính, đó là xây dựng kế hoạch đầu tư công trung hạn, đảm bảo đúng chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; xây dựng nguyên tắc, tiêu chí để báo cáo Quốc hội cho kế hoạch 5 năm; xây dựng nguyên tắc, tiêu chí để điều hành trong kế hoạch hằng năm. Còn các vấn đề lựa chọn dự án, phê duyệt dự án, thẩm định dự án, điều chỉnh dự án, kéo dài hay không, giao vốn chi tiết đều đã giao triệt để, phân cấp triệt cho tất cả các bộ, ngành, địa phương. Đến nay Thủ tướng Chính phủ chỉ giao sau khi được Quốc hội thông qua, Thủ tướng Chính phủ chỉ giao vốn một lần theo một khoản cho các bộ, ngành, địa phương và giao ngay từ trước ngày 30/11 của năm trước. Còn tất cả việc giao chi tiết, triển khai giải phóng mặt bằng, đấu thầu, chuẩn bị dự án… là do các bộ, ngành, địa phương thực hiện.
Về giải pháp trong thời gian tới, Bộ trưởng cho rằng, công tác này cần phải thực hiện tốt hơn, nhất là phải thực hiện quyết liệt hơn, nghiêm túc hơn các nghị quyết của Chính phủ, đặc biệt là Nghị quyết số 63/NQ-CP ngày 29/6/2021 về các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giải ngân vốn đầu tư công và xuất khẩu bền vững những tháng cuối năm 2021 và đầu năm 2022 để đẩy nhanh tiến độ giải ngân. Thứ hai là, trách nhiệm người đứng đầu, phải làm tốt công tác chuẩn bị đầu tư, giải phóng mặt bằng để đấu thầu. Tổ công tác đặc biệt của Thủ tướng Chính phủ cũng phải phát huy tinh thần để hướng dẫn tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đôn đốc, thúc đẩy giải ngân. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang rà soát những vấn đề vướng mắc theo tinh thần tiếp tục hoàn thiện thể chế liên quan đến giải ngân vốn đầu tư công; đề nghị các địa phương và các bộ, ngành phải nghiêm túc thực hiện để giải quyết được tận gốc của vấn đề.
Về ý kiến của đại biểu Quốc hội tỉnh Quảng Bình Trần Quang Minh về một số dự án ODA gây lãng phí, Bộ trưởng nhấn mạnh, các dự án ODA ngoài phải thực hiện các thủ tục theo quy trình, thủ tục của luật trong nước còn phải thực hiện theo quy trình, thủ tục của nhà tài trợ. Như vậy, đồng thời phải thực hiện hai việc và mỗi một việc mất rất nhiều thời gian, nhất là trong bối cảnh thực hiện giãn cách nên rất khó, kể cả những điều chỉnh rất nhỏ như thay đổi tên, thay đổi địa giới, phạm vi, diện tích hay là kéo dài thời hạn đều cần thỏa thuận của nước ngoài. Bên cạnh đó là do vấn đề dịch COVID-19 ảnh hưởng đến lao động, chuyên gia, nhập khẩu máy móc…
Trong thời gian tới Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ cùng với các bộ, ngành, địa phương rà soát lại những khó khăn, vướng mắc của các dự án có thể tháo gỡ được, cần thúc đẩy nhanh để đảm bảo hiệu quả nhằm giải quyết các ách tắc, vướng mắc. Đối với dự án thực sự không hiệu quả và không còn phù hợp nữa thì cũng có thể trao đổi với nhà tài trợ để đóng các dự án này lại, không nên để kéo dài gây lãng phí.
Ứng dụng công nghệ thông tin tạo thông thoáng, minh bạch trong công tác đầu tư công
Đại biểu Quốc hội tỉnh Quảng Nam Tạ Văn Hạ tham gia tranh luận về vấn làm sao khắc phục được những tồn tại do khâu tổ chức thực hiện, do yếu tố chủ quan gây nên trong thực hiện đầu tư công. Về vấn đề này, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nêu rõ, vấn đề hiện nay không phải là vấn đề về luật pháp. Tất cả các vấn đề về thể chế của đầu tư công đến nay là rất rõ ràng, đầy đủ và trên tinh thần phân cấp triệt để cho các địa phương. Bộ Kế hoạch và Đầu tư thực hiện nhiệm vụ quản lý tổng hợp chung và giúp cho Chính phủ, Quốc hội quản lý chung bằng Hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu quốc gia về đầu tư công. Tất cả các bộ, ngành, địa phương lập kế hoạch xong đưa lên hệ thống, được kiểm soát và nếu đúng, Bộ sẽ tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ, còn nếu không phù hợp, Bộ yêu cầu các tỉnh làm lại. Điều này rất thông thoáng, thuận lợi cho các địa phương. Do vậy, vấn đề chắc chắn là ở khâu tổ chức thực hiện, bởi cùng một thể chế nhưng những tỉnh hiện nay đã giải ngân hơn 100% còn có những tỉnh hiện nay mới giải ngân được có 18%, 20%, hơn 30%.
Trả lời câu hỏi của đại biểu Quốc hội thành phố Hà Nội Vũ Lưu Mai liên quan đến các dự án, trách nhiệm thuộc trung ương hay địa phương trên địa bàn, theo Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng, dự án giao cho cơ quan nào thì cơ quan đó phải chịu trách nhiệm. Dự án của địa phương thì địa phương phải chịu trách nhiệm. Dự án của trung ương thì trung ương phải chịu trách nhiệm. Còn cấu phần, dự án nào của Trung ương trên địa bàn mà có liên quan đến địa phương và đã giao cho địa phương thì địa phương phải chịu trách nhiệm.
Trong Đề án tách bồi thường và hỗ trợ tái định cư ra khỏi dự án đầu tư công sắp tới trình Quốc hội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang trình riêng phần giải phóng mặt bằng giao lại cho địa phương và địa phương có thể dùng cả ngân sách của trung ương mà cấp qua Bộ để thực hiện hoặc có thể dùng cả ngân sách địa phương để thực hiện giải phóng mặt bằng, điều này sẽ linh hoạt hơn, chủ động và nhanh hơn; nếu tách và giao hẳn cho địa phương với trách nhiệm thì sẽ phân bạch rõ ràng trách nhiệm trung ương hay địa phương đối với cả một dự án của trung ương trên địa bàn.
Năm nhóm giải pháp để thực hiện chương trình phục hồi kinh tế
Liên quan đến nội dung được đại biểu Quốc hội tỉnh Quảng Bình Nguyễn Minh Tâm nêu về các chính sách và các giải pháp cụ thể trong thời gian tới để thực hiện chương trình phục hồi kinh tế, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết, Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng 5 nhóm giải pháp Chương trình. Một là, tập trung vào mở cửa nền kinh tế, gắn với phòng, chống dịch và thực hiện Nghị quyết số 128/NQ-CP một cách chắc chắn, an toàn, có lộ trình, phù hợp với chiến lược phòng, chống dịch và khả năng tiêm vắc-xin cũng như thuốc điều trị, trang thiết bị y tế. Tăng tính chủ động cho doanh nghiệp để duy trì hoạt động liên tục của các doanh nghiệp.
Hai là, tập trung vào hỗ trợ cho an sinh xã hội và hỗ trợ tạo việc làm, theo đó hỗ trợ cho các đối tượng chính sách, người lao động, đào tạo, đào tạo lại lao động, kết nối việc làm, phát triển thị trường lao động, chính sách dạy nghề, nhà ở xã hội, nhà ở công nhân.
Ba là, hỗ trợ phục hồi cho doanh nghiệp. Vừa qua, doanh nghiệp bị ảnh hưởng, tổn thương rất nhiều, sức chống chịu và khả năng chống chịu hiện nay đã bị bào mòn rất nhiều, đặc biệt là một số lĩnh vực bị tác động mạnh mẽ. Theo đó, về các chính sách chung, xem xét để trình Quốc hội, các cơ quan có thẩm quyền cho phép kéo dài các chính sách về miễn, giảm, gia hạn các loại thuế, phí, lệ phí phải đóng và nộp, để tạo điều kiện và hỗ trợ dòng tiền cho các doanh nghiệp. Hỗ trợ cấp bù lãi suất cho các doanh nghiệp vay trong một số lĩnh vực cần ưu tiên. Một số chính sách riêng đối với một số ngành và lĩnh vực như chế biến nông, lâm sản, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, chuyển đổi số. Tức là ngoài những chính sách chung sẽ có những chính sách riêng cho những loại hình doanh nghiệp cần ưu tiên.
Bốn là, phát triển kết cấu hạ tầng, khuyến khích PPP, đầu tư công, tập trung vào hạ tầng chiến lược và những công trình quan trọng quốc gia, trọng điểm quốc gia mang động lực lớn lan tỏa, kết nối để phát triển bền vững trong thời gian tới; an ninh nguồn nước, an toàn hồ đập, đê kè, chống sạt lở bờ sông, bờ biển, ứng phó với biến đổi khí hậu.
Năm là, phải tiếp tục cải cách thể chế, thủ tục hành chính, môi trường đầu tư, đi kèm với đó phải có một chính sách về quản trị các rủi ro gắn với ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo các cân đối lớn của nền kinh tế.
|
Toàn cảnh Phiên chất vấn. Ảnh: quochoi.vn |
Phấn đấu đạt mục tiêu 1,5 triệu doanh nghiệp hoạt động hiệu quả vào năm 2025
Về ý kiến của đại biểu Quốc hội thành phố Hà Nội Vũ Tiến Lộc liên quan đến chỉ tiêu 1,5 triệu doanh nghiệp hoạt động hiệu quả vào năm 2025, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết, chỉ tiêu này được tính toán trên cơ sở tốc độ tăng trưởng như vừa qua, trên cơ sở tốc độ thành lập doanh nghiệp với các điều kiện thuận lợi, môi trường thuận lợi đầu tư, cơ chế khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp nên hoàn toàn có thể kỳ vọng để phấn đấu đạt mục tiêu 1,5 triệu doanh nghiệp hoạt động hiệu quả vào năm 2025. Tuy nhiên, để đạt mục tiêu đề ra cần phải có những giải pháp căn cơ và đột phá. Theo đó, trước hết là triển khai Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, trong đó tập trung vào các chính sách đã nêu trong Luật này để hỗ trợ cho các doanh nghiệp thành lập mới và có thể hoạt động được.
Thứ hai, phải tạo được niềm tin để các doanh nhân, doanh nghiệp có thể bỏ tiền đầu tư của mình thành lập doanh nghiệp và mới tham gia vào đầu tư. Những vấn đề, những chương trình đang được thực hiện như chương trình hỗ trợ chuyển đổi số hay hỗ trợ chuyển đổi cho doanh nghiệp và hỗ trợ cho doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp như là Nghị định số 57/2018/NĐ-CP ngày 17/4/2018 của Chính phủ về cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn hoặc đầu tư trong các ngành, lĩnh vực nông nghiệp, công nghệ cao… sẽ thúc đẩy cho doanh nghiệp trong thời gian tới.
Liên quan đến đến hộ kinh doanh, Bộ trưởng cho rằng, trong thời gian tới phải thể chế hóa các quy định của pháp luật để luật hóa, để liên quan hơn gần 5 triệu hộ kinh doanh với 8 triệu lao động nhằm hỗ trợ, tạo điều kiện để phát triển. Trước đây, Chính phủ đã có đề xuất là bổ sung đối tượng này trong Luật Doanh nghiệp nhưng Quốc hội đề nghị nên tách ra thành một luật riêng, việc này Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ báo cáo lại với Chính phủ để trong thời gian tới ta sẽ xây dựng một luật riêng cho hộ kinh doanh để có điều kiện phát triển và phát huy tốt tiềm năng, lợi thế từ các hộ kinh doanh này, khi đó các hộ kinh doanh có thể lớn lên và chuyển thành doanh nghiệp. Nếu thực hiện được những chính sách hỗ trợ cho cả doanh nghiệp, hỗ trợ cho cả hộ kinh doanh và hỗ trợ cho cả hộ kinh doanh chuyển đổi sang doanh nghiệp thì mục tiêu 1,5 triệu hoàn toàn có thể thực hiện được, Bộ trưởng nêu rõ.
Cũng tại phiên chất vấn, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng đã trả lời các câu chất vấn của đại biểu Quốc hội về các nội dung liên quan đến giải pháp ưu tiên đầu tư phát triển các vùng đang khó khăn; giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ thực hiện giải ngân vốn đầu tư công, vốn ODA và các dự án trọng điểm quốc gia; tiến độ thực hiện các chương trình, dự án sử dụng vốn ODA, vốn vay ưu đãi đầu tư phát triển; trách nhiệm quản lý của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong việc sử dụng vốn vay đầu tư phát triển, đặc biệt là sử dụng vốn ODA; tiến độ triển khai tuyến đường cao tốc nối Tuyên Quang - Hà Giang; xây dựng chỉ tiêu GDP; phê duyệt quy hoạch Đồng bằng sông Cửu Long; tình hình phê duyệt, giải ngân nguồn vốn giúp Đồng bằng sông Cửu Long chống biến đổi khí hậu; giải pháp tháo gỡ vấn đề giải phóng mặt bằng, tạo quỹ đất sạch; về tình trạng người nước ngoài núp bóng mua và chuyển nhượng quyền sử dụng đất./.
Tùng Linh
Bộ Kế hoạch và Đầu tư