Tính đến 20/6/2022, tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần, mua phần vốn góp (GVMCP) của nhà ĐTNN đạt trên 14,03 tỷ USD, bằng 91,1% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó, tuy vốn đăng ký mới chưa hồi phục hoàn toàn sau sự gián đoạn của các biện pháp chống dịch năm 2021, song vốn điều chỉnh và GVMCP tăng mạnh lần lượt là 65,6% và 41,4%. Vốn thực hiện của dự án đầu tư nước ngoài ước đạt gần 10,06 tỷ USD, tăng 8,9% so với cùng kỳ năm 2021.
Tính lũy kế đến ngày 20/6/2022, cả nước có 35.184 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký trên 427,97 tỷ USD. Vốn thực hiện lũy kế của các dự án đầu tư nước ngoài ước đạt gần 261,66 tỷ USD, bằng 61,1% tổng vốn đầu tư đăng ký còn hiệu lực.
Thông tin chi tiết như sau:
I. VỀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
1. Tình hình thu hút ĐTNN 6 tháng đầu năm 2022
1.1. Tình hình hoạt động
Vốn thực hiện:
Tính tới 20/6/2022, ước tính các dự án đầu tư nước ngoài đã giải ngân được gần 10,06 tỷ USD, tăng 8,9% so với cùng kỳ năm 2021 và tăng hơn 1 điểm phần trăm so với 5 tháng đầu năm.
Tình hình xuất, nhập khẩu:
Xuất khẩu: Kim ngạch xuất khẩu của khu vực ĐTNN tiếp tục tăng trong 6 tháng đầu năm 2022. Xuất khẩu (kể cả dầu thô) ước đạt gần 136,36 tỷ USD, tăng 16% so với cùng kỳ, chiếm 73,5% kim ngạch xuất khẩu. Xuất khẩu không kể dầu thô ước đạt gần 135,2 tỷ USD, tăng 15,8% so với cùng kỳ, chiếm 72,9% kim ngạch xuất khẩu cả nước.
Nhập khẩu: Nhập khẩu của khu vực ĐTNN ước đạt trên 120,52 tỷ USD, tăng 16,1% so cùng kỳ và chiếm 64,8% kim ngạch nhập khẩu cả nước.
Tính chung trong 6 tháng đầu năm 2022, khu vực ĐTNN xuất siêu trên 15,8 tỷ USD kể cả dầu thô và xuất siêu gần 14,7 tỷ USD không kể dầu thô. Trong khi đó, khu vực doanh nghiệp trong nước nhập siêu gần 16,4 tỷ USD.
1.2. Tình hình đăng ký đầu tư
Tính đến 20/06/2022, tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần của nhà ĐTNN đạt trên 14,03 tỷ USD, bằng 91,1% so với cùng kỳ năm 2021. Tuy vốn đầu tư đăng ký mới tiếp tục giảm, nhưng cả vốn đầu tư điều chỉnh và GVMCP đều tăng mạnh so với cùng kỳ. Cụ thể:
Vốn đăng ký mới: Có 752 dự án mới được cấp GCNĐKĐT (giảm 6,5% so với cùng kỳ), tổng vốn đăng ký đạt trên 4,94 tỷ USD (giảm 48,2% so với cùng kỳ).
Vốn điều chỉnh: Có 487 lượt dự án đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư (tăng 5,9% so với cùng kỳ), tổng vốn đăng ký tăng thêm đạt gần 6,82 tỷ USD (tăng 65,6% so với cùng kỳ).
Góp vốn, mua cổ phần: Có 1.707 lượt GVMCP của nhà ĐTNN (giảm 8% so với cùng kỳ), tổng giá trị vốn góp đạt trên 2,27 tỷ USD (tăng 41,4% so với cùng kỳ).
(Biểu số liệu chi tiết tại Phụ lục I kèm theo báo cáo).
Theo ngành:
Các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 18 ngành trong tổng số 21 ngành kinh tế quốc dân. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đạt gần 8,84 tỷ USD, chiếm gần 63% tổng vốn đầu tư đăng ký. Ngành kinh doanh bất động sản đứng thứ hai với tổng vốn đầu tư trên 3,15 tỷ USD, chiếm 22,5% tổng vốn đầu tư đăng ký. Tiếp theo lần lượt là các ngành thông tin truyền thông; hoạt động chuyên môn khoa học công nghệ với tổng vốn đăng ký đạt lần lượt là gần 442,6 triệu USD và 408,5 triệu USD. Còn lại là các ngành khác.
Nếu xét về số lượng dự án mới thì bán buôn bán lẻ, công nghiệp chế biến chế tạo và hoạt động chuyên môn khoa học công nghệ là các ngành thu hút được nhiều dự án nhất, chiếm lần lượt 30,1%, 25,4% và 16,5% tổng số dự án.
Theo đối tác đầu tư:
Đã có 84 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2022. Trong đó, Singapore dẫn đầu với tổng vốn đầu tư trên 4,1 tỷ USD, chiếm 29,5% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam, giảm 26,6% so với cùng kỳ 2021; Hàn Quốc đứng thứ hai với trên 2,66 tỷ USD, chiếm gần 19% tổng vốn đầu tư, tăng 29,6% so với cùng kỳ. Với dự án Lego tổng vốn đầu tư trên 1,3 tỷ USD, Đan Mạch tiếp tục đứng thứ ba với tổng vốn đầu tư đăng ký gần trên 1,32 tỷ USD, chiếm 9,4% tổng vốn đầu tư. Tiếp theo là Trung Quốc, Nhật Bản, Hồng Kông.
Theo số lượng dự án, Hàn Quốc vẫn là đối tác có nhà đầu tư quan tâm và đưa ra các quyết định đầu tư mới cũng như mở rộng dự án đầu tư và GVMCP nhiều nhất trong 6 tháng năm 2022 (chiếm 21,3% số dự án mới, 35,9% số lượt điều chỉnh và 36,7% số lượt GVMCP).
Theo địa bàn đầu tư:
Các nhà ĐTNN đã đầu tư vào 49 tỉnh, thành phố trên cả nước trong 6 tháng đầu năm 2022. Bình Dương dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đăg ký trên 2,53 tỷ USD, chiếm 18% tổng vốn đầu tư đăng ký và tăng 98,2% so với cùng kỳ năm 2021. TP Hồ Chí Minh vượt lên đứng thứ hai với tổng vốn đầu tư trên 2,2 tỷ USD, chiếm 15,8% tổng vốn, tăng 55,2% so với cùng kỳ. Bắc Ninh xếp thứ ba với tổng vốn đầu tư đăng ký gần 1,63 tỷ USD, chiếm 11,7% tổng vốn và tăng gấp hơn 3,3 lần so với cùng kỳ năm 2021. Tiếp theo lần lượt là Thái Nguyên, Hải Phòng, Hà Nội,…
Nếu xét về số dự án mới, các nhà ĐTNN vẫn tập trung đầu tư nhiều tại các thành phố lớn, có cơ sở hạ tầng thuận lợi như TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội. Trong đó, TP Hồ Chí Minh dẫn đầu về số dự án mới (40,4%), số lượt GVMCP (68,3%) và đứng thứ hai về số lượt dự án điều chỉnh vốn (14% sau Hà Nội là 16,6%).
(Biểu số liệu chi tiết tại Phụ lục II kèm theo báo cáo).
2. Nhận xét về tình hình đầu tư nước ngoài trong 6 tháng đầu năm 2022.
- Vốn đầu tư thực hiện của các dự án ĐTNN trong 6 tháng đầu năm 2022 đạt mức tăng cao nhất từ đầu năm, tăng 8,9% so với cùng kỳ năm 2021 và tăng hơn 1 điểm phần trăm so với 5 tháng. Các doanh nghiệp đang không ngừng phục hồi, duy trì và mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Điều chỉnh vốn và GVMCP của nhà ĐTNN tiếp tục tăng so với cùng kỳ. Vốn điều chỉnh nếu tính riêng từng tháng, ngoài tháng 3 và tháng 5 giảm thì các tháng còn lại đều tăng mạnh với mức tăng giao động từ 90% tới gần 4,7 lần so với cùng kỳ năm 2021. Tốc độ tăng về số lượt dự án điều chỉnh vốn tuy chậm lại so với 5 tháng đầu năm song quy mô điều chỉnh vốn bình quân/dự án tương đối cao so với cùng kỳ. Nhiều dự án sản xuất, chế tạo các sản phẩm điện tử, công nghệ cao được tăng vốn với quy mô lớn trong 6 tháng đầu năm. Vốn đầu tư điều chỉnh tăng cao, một mặt cho thấy các nhà ĐTNN vẫn tiếp tục đặt niềm tin vào nền kinh tế, vào môi trường đầu tư của Việt Nam và đưa ra các quyết định đầu tư mở rộng dự án hiện hữu. Mặt khác phần nào phản ánh tác động của lạm phát, giá cả tăng cao do ảnh hưởng của các cuộc xung đột chính trị, thương mại trên thế giới.
- Vốn đầu tư đăng ký mới trong 6 tháng tuy tiếp tục giảm song mức độ giảm đã được cải thiện dần so với các tháng đầu năm. Tính riêng từng tháng, nếu như các tháng từ tháng 1 đến tháng 4 vốn đăng ký mới giảm mạnh thì sang tháng 5 và tháng 6, nguồn vốn này đã tăng lần lượt 12,8% và 14,6% so với cùng kỳ. Dù vậy, nguyên nhân tăng một phần do vốn đăng ký mới của các tháng 5 và 6 năm 2021 bị giảm mạnh bởi ảnh hưởng của các chính sách kiểm soát dịch khi biến thể Delta bùng phát lần thứ tư và lây lan nhanh tại Việt Nam. Xét về giá trị, nguồn vốn này cũng đang có xu hướng tăng dần theo từng tháng trong năm 2022 nhưng mức tăng chưa cao và chưa được như kỳ vọng.
- Xuất khẩu của khu vực ĐTNN trong 6 tháng năm 2022 vẫn tăng song mức độ tăng chậm hơn so với 5 tháng. Khu vực ĐTNN mặc dù xuất siêu trên 15,8 tỷ USD kể cả dầu thô, song không thể bù đắp hết phần nhập siêu gần 16,4 tỷ USD của khu vực doanh nghiệp trong nước, do đó cả nước nhập siêu khoảng 0,6 tỷ USD trong 6 tháng đầu năm.
- Cuộc xung đột Nga – Ucraina không có tác động trực tiếp đáng kể đối với ĐTNN tại Việt Nam do đầu tư của Nga và Ucraina chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng vốn đầu tư vào Việt Nam (chiếm 0,23% tổng vốn đầu tư) mà tác động gián tiếp thông qua giá cả tăng cao và gây đứt gẫy chuỗi cung ứng. Tuy nhiên, về trung và dài hạn, cuộc xung đột có thể dẫn đến xu hướng chuyển dịch đầu tư ra khỏi Nga và Ucraina sang các nước Châu Á. Trong đó Việt Nam cũng có thể được hưởng lợi từ dòng vốn đầu tư dịch chuyển này. Tuy nhiên, hiện nay xu hướng này vẫn chưa rõ ràng.
3. Tình hình ĐTNN luỹ kế tới 20/6/2022
Tính lũy kế đến ngày 20/6/2022, cả nước có 35.184 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký gần 427,97 tỷ USD. Vốn thực hiện lũy kế của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài ước đạt gần 261,66 tỷ USD, bằng 61,1% tổng vốn đầu tư đăng ký còn hiệu lực.
- Theo ngành: các nhà ĐTNN đã đầu tư vào 19/21 ngành trong hệ thống phân ngành kinh tế quốc dân. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm tỷ trọng cao nhất với trên 253,6 tỷ USD (chiếm 59,3% tổng vốn đầu tư). Tiếp theo là các lĩnh vực kinh doanh bất động sản với gần 65,4 tỷ USD (chiếm 15,3% tổng vốn đầu tư); sản xuất, phân phối điện với gần 36,5 tỷ USD (chiếm 8,5% tổng vốn đầu tư).
- Theo đối tác đầu tư: Hiện có 139 quốc gia, vùng lãnh thổ có dự án đầu tư còn hiệu lực tại Việt Nam. Trong đó, đứng đầu là Hàn Quốc với tổng vốn đăng ký gần 79,3 tỷ USD (chiếm 18,5% tổng vốn đầu tư). Singapore đứng thứ hai với gần 68,9 tỷ USD (chiếm 16,3% tổng vốn đầu tư), tiếp theo lần lượt là Nhật Bản, Đài Loan, Hồng Kông,...
- Theo địa bàn: ĐTNN đã có mặt ở tất cả 63 tỉnh, thành phố trong cả nước, trong đó TP Hồ Chí Minh vẫn là địa phương dẫn đầu trong thu hút ĐTNN với gần 55,2 tỷ USD (chiếm 12,9% tổng vốn đầu tư); tiếp theo là Bình Dương với gần 39,6 tỷ USD (chiếm 9,2% tổng vốn đầu tư); Hà Nội với trên 37,7 tỷ USD (chiếm trên 8,8% tổng vốn đầu tư).
(Biểu số liệu chi tiết tại Phụ lục III kèm theo báo cáo)
File đính kèm: FDI_06.2022.xlsx
Cục Đầu tư nước ngoài
Bộ Kế hoạch và Đầu tư