Skip Ribbon Commands
Skip to main content
Ngày 12/02/2023-13:58:00 PM
Hội nghị triển khai Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển Vùng Đồng bằng Sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và Xúc tiến đầu tư Vùng
(MPI) - Với chủ đề “Liên kết phát triển - Đổi mới sáng tạo - Xanh và Bền vững”, ngày 12/02/2023, tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh đã diễn ra Hội nghị triển khai Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 30-NQ/TW ngày 23/11/2022 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh Vùng Đồng bằng Sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và Xúc tiến đầu tư Vùng dưới sự chủ trì của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính. Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng tham dự và phát biểu tại Hội nghị.

Hội nghị do Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với các bộ, ngành, địa phương tổ chức với sự tham dự của lãnh đạo Chính phủ và Lãnh đạo các bộ, ngành, tỉnh, thành phố trong vùng, các hiệp hội doanh nghiệp, các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Hội nghị là sự kiện có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển của vùng đồng bằng Sông Hồng, mở ra “cơ hội mới đột phá” cho vùng đất là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng và là trung tâm chính trị, kinh tế, đi đầu cả nước về văn hóa, giáo dục, khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số,… dẫn dắt nền kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng của đất nước.

Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Hội nghị triển khai Hội nghị triển khai Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 30-NQ/TW. Ảnh: chinhphu.vn

Phát biểu kết luận Hội nghị, Thủ tướng Phạm Minh Chính đánh giá cao Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các bộ, ngành liên quan, địa phương trong vùng và các đối tác đã phối hợp chặt chẽ, chuẩn bị kỹ lưỡng trong việc tổ chức hội nghị “3 trong 1" quan trọng Triển lãm thành tựu phát triển phát triển kinh tế - xã hội và giới thiệu nông sản đặc trưng của vùng; Công bố Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 30 của Bộ Chính trị; Xúc tiến đầu tư vùng Đồng bằng sông Hồng.

Đồng thời đánh giá cao các tham luận, ý kiến phát biểu tâm huyết, trách nhiệm; thể hiện sự quyết tâm, đồng thuận cao để thúc đẩy phát triển nhanh, bền vững Vùng đồng bằng sông Hồng, góp phần sớm đưa Nghị quyết số 30 của Bộ Chính trị vào thực tiễn đời sống, xã hội. Thủ tướng yêu cầu Bộ Kế hoạch và Đầu tư nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của các đại biểu để thực hiện công việc tiếp theo như xây dựng, kiện toàn các hội đồng vùng và cơ chế hoạt động, cơ chế, chính sách, quy hoạch… để phát triển các vùng. Các địa phương cũng phải nhanh chóng xây dựng chương trình hành động của mình để đảm bảo sự đồng bộ với chương trình hành động của Chính phủ.

Về vị trí, vai trò, tiềm năng, thế mạnh của Vùng Đồng bằng sông Hồng, Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết, Vùng gồm 11 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, chiếm 6,42% diện tích (khoảng 21,278 nghìn km2). Đây là địa bàn chiến lược quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh, chủ quyền biển đảo; là cửa ngõ phía Bắc của đất nước và ASEAN về kết nối phát triển kinh tế, thương mại với Trung Quốc - thị trường rộng lớn nhất thế giới; là cầu nối quan trọng trong giao lưu kinh tế, văn hóa quốc tế.

Hệ thống giao thông kết nối đồng bộ với đầy đủ 5 phương thức vận tải (đường bộ, đường sắt, đường sông, hàng không và cảng biển) kết nối với 04 tuyến hành lang kinh tế liên vùng và quốc tế, tạo thuận lợi phát triển các loại hình dịch vụ, đặc biệt là logistics, là điểm trung chuyển hàng hóa cho các tỉnh phía Bắc. Vùng biển có diện tích lớn, có tiềm năng lớn phát triển các ngành công nghiệp, nông nghiệp, thủy sản và dịch vụ.

Là vùng đất “địa linh nhân kiệt”, có bề dày truyền thống lịch sử, văn hóa phong phú, đa dạng, đậm đà bản sắc dân tộc với nền văn hóa sông Hồng, văn minh lúa nước; có 03 di sản văn hóa, thiên nhiên thế giới; Có nguồn nhân lực dồi dào với dân số 23,22 triệu người (chiếm 23,65% dân số cả nước); là trung tâm hàng đầu cả nước về y tế, giáo dục - đào tạo; đội ngũ trí thức giỏi và lực lượng lao động có chất lượng cao. Người dân yêu quê hương, đất nước; đoàn kết, anh dũng; cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất;…

Về một số kết quả nổi bật, Vùng có tăng trưởng kinh tế cao hơn bình quân cả nước, giai đoạn 2005-2020 bình quân đạt 7,94%/năm (cả nước là 6,36%). Quy mô kinh tế năm 2020 gấp 7,75 lần so năm 2005, chiếm 29,4% GDP cả nước (đứng thứ 2, sau vùng Đông Nam Bộ); GRDP bình quân đầu người đạt 103,6 triệu đồng/năm, gấp 1,3 lần bình quân cả nước (sau vùng Đông Nam Bộ là 141,3 triệu đồng/năm).

Cơ cấu chuyển dịch tương đối nhanh theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp - xây dựng, dịch vụ (năm 2020 lần lượt là 40,62% và 40,64%); các ngành công nghiệp mũi nhọn như: điện, điện tử, lắp ráp, sản xuất ô tô, đóng tàu, thép, hóa - dược, công nghiệp hỗ trợ,… phát triển theo hướng hiện đại, quy mô lớn, ít thâm dụng lao động, hàm lượng công nghệ cao. Kinh tế biển phát triển khá, đặc biệt Hải Phòng, Quảng Ninh dần trở thành trung tâm kinh tế biển, dịch vụ cảng biển lớn của cả nước.

Kết cấu hạ tầng giao thông, vận tải phát triển nhanh, đồng bộ, hiện đại, tốt nhất cả nước. Thu hút FDI tăng khá nhanh. Đến năm 2020, đứng thứ 2 trong các vùng kinh tế (chiếm khoảng 31,4% tổng vốn cả nước). Các lĩnh vực văn hóa - xã hội được quan tâm; an sinh xã hội được bảo đảm, đời sống vật chất và tinh thần của người dân không ngừng được cải thiện.

Quốc phòng, an ninh được giữ vững, bảo vệ vững chắc biên giới, chủ quyền quốc gia. Hợp tác quốc tế được đẩy mạnh. Công tác xây dựng Đảng, hệ thống chính trị được tăng cường; phòng chống tham nhũng, tiêu cực đạt nhiều kết quả.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn tồn tại, hạn chế, khó khăn, thách thức như kinh tế - xã hội phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế, vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của Vùng; các địa phương phát triển không đồng đều, phụ thuộc nhiều vào vốn và lao động; Các ngành sản xuất với công nghệ hiện đại chiếm tỷ lệ thấp. Cơ cấu thu NSNN ở một số địa phương chưa bền vững; Kết cấu hạ tầng chưa đáp ứng yêu cầu. Hạ tầng giao thông thiếu kết nối, chủ yếu đường bộ. Hạ tầng du lịch còn yếu.

Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu tại Hội nghị. Ảnh: chinhphu.vn

Hệ thống đô thị phát triển chưa đồng bộ; thiếu liên kết giữa các đô thị, khu kinh tế, khu công nghiệp, nông thôn; phát triển nhà ở xã hội chưa đáp ứng yêu cầu. Liên kết, hợp tác giữa các địa phương trong Vùng chưa chặt chẽ, hiệu quả thấp. Chưa hình thành các cụm liên kết ngành, các vùng sản xuất nông sản tập trung; tỷ lệ lao động nông nghiệp thiếu việc làm còn lớn; đời sống một bộ phận người dân còn khó khăn…

Về quan điểm, định hướng trong thời gian tới, Thủ tướng Phạm Minh Chính đề nghị các bộ, ngành, địa phương trong Vùng nghiêm túc quán triệt các quan điểm nêu trong Nghị quyết. Quán triệt, tổ chức thực hiện quyết liệt, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp phát triển vùng theo tinh thần các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ; các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Trong đó, phải ưu tiên cho những vấn đề trọng tâm, phù hợp với xu thế, như: Hạ tầng chiến lược, cả hạ tầng cứng và hạ tầng mềm kết nối vùng, kết nối khu vực và kết nối quốc tế; phát triển chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế tri thức; bảo vệ môi trường và chống biến đổi khí hậu…

Bám sát thực tiễn, xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng thực tiễn, lấy thực tiễn làm thước đo. Triển khai công việc có trọng tâm, trọng điểm; làm đến đâu chắc đến đó, việc nào dứt việc đó.

Phát huy mạnh mẽ các nguồn lực; kết hợp hài hòa, hiệu quả giữa nguồn lực bên trong và nguồn lực bên ngoài, trong đó nội lực là cơ bản, lâu dài, chiến lược, quyết định; nguồn lực bên ngoài là quan trọng, đột phá, thường xuyên.

Thống nhất nhận thức và hành động; có giải pháp phù hợp, xử lý các vấn đề đặt ra đạt hiệu quả cao nhất; phát huy mạnh mẽ dân chủ, trí tuệ tập thể. Tăng cường phân cấp, phân quyền, cá thể hóa trách nhiệm đi đôi với phân bổ nguồn lực phù hợp, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ thực thi, tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực; không đùn đẩy, né tránh.

Xây dựng hệ thống cơ quan hành chính đoàn kết, thống nhất, liêm chính, dân chủ; hành động thiết thực, hiệu lực, hiệu quả, lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm phục vụ; bảo đảm công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình.

Về các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu, Thủ tướng giao các bộ, ngành liên quan và 11 địa phương trong vùng khẩn trương xây dựng Chương trình, Kế hoạch hành động cụ thể để thực hiện nghiêm túc, hiệu quả Nghị quyết 30 và Chương trình hành động của Chính phủ; phải có cách làm, tư duy, cách tiếp cận mới, quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, có trọng tâm, trọng điểm, tổ chức thực hiện khoa học, hợp lý, hiệu quả.

Tập trung hoàn thiện thể chế, quy hoạch vùng và chính sách liên kết vùng. Tiếp tục rà soát, hoàn thiện quy định pháp lý, cơ chế, chính sách liên kết vùng đồng bộ, nhất quán, hiệu quả. Làm tốt công tác quy hoạch giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050 để điều phối, quản lý thống nhất, bảo đảm tính liên kết, đồng bộ, thống nhất, hiệu quả và phát triển bền vững; sớm hoàn thành Quy hoạch vùng trong năm 2023.

Đẩy mạnh phát triển kinh tế vùng, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển kinh tế biển, dẫn dắt đổi mới mô hình tăng trưởng. Cơ cấu lại ngành công nghiệp theo hướng hiện đại, công nghệ cao, ứng dụng nền tảng số, thân thiện với môi trường.

Phát triển nông nghiệp hiệu quả cao, bền vững, sinh thái, thích ứng với biến đổi khí hậu. Phát triển các ngành dịch vụ, thương mại theo hướng hiện đại, đa dạng; gắn phát triển làng nghề truyền thống với phát triển du lịch. Phát triển mạnh kinh tế biển theo hướng tăng trưởng xanh, bảo tồn đa dạng sinh học và hệ sinh thái biển kết hợp với bảo đảm quốc phòng, an ninh. Phát huy vai trò động lực của các khu kinh tế ven biển gắn với đô thị ven biển, trung tâm du lịch, dịch vụ logistics.

Về phát triển hệ thống đô thị và kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, phát triển hệ thống đô thị hiện đại, thông minh, bền vững. Hình thành các chuỗi đô thị, chuỗi đô thị thuộc các hành lang kinh tế gắn với phát triển công nghiệp, dịch vụ logistics. Ưu tiên nguồn lực xây dựng hệ thống giao thông đồng bộ, hiện đại, kết nối nội vùng, liên vùng và quốc tế. Đầu tư, nâng cấp các tuyến cao tốc, quốc lộ, đường sắt tốc độ cao, đường sắt kết nối nội vùng, cảng biển; cải tạo, nâng cấp, mở rộng, nâng cao hiệu quả khai thác đường thủy nội địa, cảng hàng không, cảng biển quốc tế.

Về phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, Thủ tướng đề nghị tập trung phát triển vùng trở thành trung tâm khoa học công nghệ gắn với đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số hàng đầu của cả nước. Đẩy mạnh đào tạo, phát triển nguồn nhân lực khoa học công nghệ. Khuyến khích doanh nghiệp liên kết, đầu tư, phát triển khoa học công nghệ. Xây dựng và phát triển các khu, trung tâm khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, trí tuệ nhân tạo, khu công nghệ cao. Nghiên cứu xây dựng Trung tâm khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo vùng. Phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo vùng.

Ảnh: chinhphu.vn

Về xúc tiến, thu hút đầu tư, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành, địa phương tập trung triển khai hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi.

Tập trung nghiên cứu, hoàn thiện, tạo cơ chế chính sách đột phá để tăng cường thu hút đầu tư. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh; rà soát các thể chế, tăng cường công khai, minh bạch, đối thoại, kịp thời giải quyết các khó khăn, vướng mắc, tạo thuận lợi cho nhà đầu tư, doanh nghiệp.

Thủ tướng mong muốn các nhà đầu tư, doanh nghiệp, đối tác phát triển đồng hành cùng Chính phủ, các cấp, các ngành, các địa phương xây dựng môi trường thuận lợi, an toàn, minh bạch, chia sẻ các khó khăn, giải quyết các vướng mắc với tinh thần “bình đẳng, cùng phát triển, cùng có lợi, cùng trách nhiệm với xã hội, người lao động, bảo vệ môi trường; lợi ích hài hòa, rủi ro chia sẻ”.

Hội nghị triển khai Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 30-NQ/TW góp phần quan trọng tạo sự thống nhất cao, nâng cao nhận thức, trách nhiệm, quyết tâm chính trị và đổi mới tư duy của các cấp, các ngành về vai trò, vị trí và tầm quan trọng của vùng đồng bằng Sông Hồng, từ đó tạo sự thống nhất trong hành động, nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu Nghị quyết số 30-NQ/TW./.

Tùng Linh
Bộ Kế hoạch và Đầu tư

  • Tổng số lượt xem: 815
  •  

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)