(MPI) - Trình bày báo cáo tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc Chính phủ với các địa phương và phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 6/2023 diễn ra ngày 04/7/2023, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh, mặc dù còn gặp rất nhiều khó khăn, nhất là tác động của tình hình thế giới, nhưng tình hình kinh tế - xã hội đã dần chuyển biến tích cực, nhiều chỉ tiêu, chỉ số quan trọng đã có bước tăng trưởng, tuy còn thấp nhưng đã cho thấy xu hướng tháng sau cao hơn tháng trước, Quý II cao hơn Quý I, góp phần cải thiện kết quả chung của cả 06 tháng đầu năm, tạo đà cho các tháng tiếp theo.
|
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng phát biểu tại Hội nghị. Ảnh: MPI |
Tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng 4,7% so với cùng kỳ
Kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định, lạm phát được kiểm soát, các cân đối lớn được bảo đảm. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân 6 tháng tăng 3,29% so với cùng kỳ, tiếp tục xu hướng giảm, tạo điều kiện tập trung điều hành chính sách tài khóa, tiền tệ phục vụ thúc đẩy tăng trưởng.
Thị trường tiền tệ cơ bản ổn định; mặt bằng lãi suất huy động và cho vay tiếp tục giảm; tỷ giá ổn định, phù hợp với diễn biến thị trường; bảo đảm an toàn hệ thống ngân hàng. Thu NSNN 06 tháng ước đạt 54% dự toán. Kim ngạch xuất nhập khẩu, xuất khẩu, nhập khẩu tháng 6 tiếp tục xu hướng tăng so với tháng trước, ước lần lượt tăng 3,6%, 4,5%, 2,6%; 06 tháng ước xuất siêu 12,25 tỷ USD (cùng kỳ năm trước là 1,2 tỷ USD).
Đầu tư có dấu hiệu tích cực hơn. Tổng vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội quý II tăng 5,5% so với cùng kỳ năm trước và tăng cao hơn mức tăng của Quý I (Quý I tăng 3,7%). Tính chung 6 tháng đầu năm, tổng vốn đầu tư toàn xã hội ước đạt trên 1,35 triệu tỷ đồng, tăng 4,7% so với cùng kỳ.
Vốn FDI đăng ký Quý II đạt gần 8 tỷ USD, tăng gần 50% so với Quý I (khoảng 5,4 tỷ USD); FDI thực hiện 06 tháng ước đạt trên 10 tỷ USD, tăng nhẹ khoảng 0,5% so với cùng kỳ, sau khi có mức giảm 0,8% trong 5 tháng đầu năm. Đáng chú ý, giải ngân vốn đầu tư công đã có bước cải thiện đáng kể, ước đạt 30,49% kế hoạch được Thủ tướng Chính phủ giao, cao hơn cùng kỳ cả về số tương đối (2,74 điểm %) và số tuyệt đối (hơn 65 nghìn tỷ đồng, tăng 40%).
Hoạt động sản xuất, kinh doanh tiếp tục có chuyển biến. Sản xuất nông nghiệp ổn định; Dịch vụ tiếp tục là động lực quan trọng, đóng góp gần 80% vào tăng trưởng chung của nền kinh tế 06 tháng đầu năm.
Nhiều địa phương thuộc các vùng động lực quan trọng đã có mức tăng trưởng GRDP Quý II cao hơn Quý I cũng như cao hơn mức bình quân chung cả nước, như: TPHCM tăng 5,9% (Quý I chỉ tăng 1,1%); Bình Dương tăng 5,7% (Quý I tăng 1,7%); Đồng Nai tăng 4,8% (Quý I tăng 3,1%); Bắc Giang tăng 13,8% (Quý I tăng 8,1%); Vĩnh Phúc tăng 3,8% (Quý I giảm 4,5%)...
Tình hình đăng ký doanh nghiệp có dấu hiệu tích cực hơn. Có khoảng 13,9 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới trong tháng 6, tăng 4,8% về số doanh nghiệp và 14,6% về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước; gần 7,1 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, gấp 3,1 lần cùng kỳ.
Các vấn đề tồn đọng, vướng mắc tiếp tục được tập trung tháo gỡ, nhất là về thị trường bất động sản, trái phiếu doanh nghiệp, dự án đầu tư, bước đầu tạo chuyển biến tích cực, tác động khơi thông dòng tiền, nguồn lực của nền kinh tế, củng cố thêm niềm tin của doanh nghiệp, nhà đầu tư.
Theo Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng, các kết quả đạt được như đã nêu ở trên cơ bản là tích cực. Tuy nhiên, những khó khăn, bất lợi của tình hình thế giới đã ảnh hưởng lớn đến tăng trưởng, sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp, khó khăn của Quý I tiếp tục kéo dài trong Quý II, ảnh hưởng đến kết quả chung của cả 06 tháng, cụ thể như sau:
Tăng trưởng kinh tế Quý II tích cực hơn nhưng vẫn gặp nhiều khó khăn. GDP quý II ước tăng 4,14% so với cùng kỳ năm trước, tính chung 06 tháng tăng 3,72%, thấp hơn kịch bản đề ra tại Nghị quyết số 01/NQ-CP (6,2%). Trong đó, khu vực công nghiệp - xây dựng 06 tháng chỉ tăng 1,13% (kịch bản tại Nghị quyết số 01/NQ-CP là 6,7%), tác động mạnh đến tăng trưởng chung của nền kinh tế.
Hoạt động sản xuất kinh doanh vẫn gặp nhiều khó khăn; sức chống chịu của nhiều doanh nghiệp đã tới hạn, việc duy trì hoạt động và tranh thủ cơ hội thị trường gặp nhiều thách thức, tác động không nhỏ đến thu NSNN.
Thủ tục hành chính, môi trường đầu tư kinh doanh tuy đã có nhiều cải thiện nhưng vẫn còn bất cập. Tình hình lao động, việc làm còn nhiều thách thức. Rủi ro dịch bệnh, bão lũ, nắng nóng, hạn hán, biến đổi khí hậu diễn biến trái quy luật, khó dự báo, an ninh kinh tế, an ninh mạng, bạo lực học đường phức tạp,… tiếp tục là những vấn đề cần quan tâm. Tình trạng thiếu điện, cắt điện cơ bản được khắc phục, nhưng qua đó cho thấy vấn đề bảo đảm an ninh năng lượng còn nhiều vấn đề bất cập, cần được xử lý triệt để, tránh để ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế, môi trường đầu tư kinh doanh.
Nhìn chung, kinh tế vĩ mô tháng 6 và 06 tháng cơ bản ổn định. Nhiều chỉ số quan trọng như tốc độ tăng trưởng, lạm phát, công nghiệp, dịch vụ, giải ngân vốn đầu tư công, thành lập doanh nghiệp, thu hút FDI, thị trường chứng khoán dần lấy lại được đà tăng trưởng, tháng sau cao hơn và tích cực hơn tháng trước, cho thấy tâm lý xã hội và niềm tin thị trường đã phục hồi tích cực, tạo tiền đề tốt cho thực hiện các công việc, nhiệm vụ 6 tháng cuối năm. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ ngành cơ bản đã xác định được các khó khăn của doanh nghiệp, nền kinh tế; có nhiều giải pháp tháo gỡ, hỗ trợ cụ thể, kịp thời, góp phần củng cố niềm tin của doanh nghiệp, nhà đầu tư, người dân. Chuẩn bị chu đáo, chất lượng, bảo đảm an toàn, đóng góp quan trọng vào sự thành công của Hội nghị Trung ương giữa nhiệm kỳ, Kỳ họp thứ 5 của Quốc hội; quyết liệt triển khai công việc được giao, vừa tập trung xử lý vấn đề tồn đọng, kéo dài, vấn đề mới phát sinh, làm tốt công tác an sinh xã hội; vừa cụ thể hóa các chủ trương, chính sách phát triển trong trung và dài hạn.
Cập nhật kịch bản tăng trưởng Quý III và cả năm 2023
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh, bối cảnh, tình hình thế giới, trong nước dự báo tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, tạo áp lực lớn lên điều hành tăng trưởng những tháng cuối năm. Mặc dù trong tháng 5, một số tổ chức quốc tế đã hạ dự báo tăng trưởng của Việt Nam nhưng cơ bản vẫn ở mức tích cực, phù hợp với diễn biến tình hình.
Mặc dù vậy, nền kinh tế nước ta cũng xuất hiện một số yếu tố thuận lợi hơn trong nửa cuối năm, đó là: doanh nghiệp, nền kinh tế đã chủ động thích ứng với tình hình mới của thế giới, trong nước; các chính sách, giải pháp tiền tệ, tài khóa,... đã được triển khai và sẽ bắt đầu được triển khai trong thời gian tới; nhiều dự án quy mô lớn, quan trọng quốc gia được khởi công, tăng tốc thực hiện, giải ngân,...
Căn cứ nhiệm vụ, mục tiêu tăng trưởng kinh tế đã được Quốc hội giao, trên cơ sở kết quả quý II và 06 tháng đầu năm, dự báo bối cảnh, tình hình các tháng cuối năm, kịch bản tăng trưởng Quý III và cả năm 2023 cập nhật như sau:
Kịch bản 1: Tăng trưởng cả năm dự kiến đạt 6%; tăng trưởng quý III đạt 6,8%, quý IV đạt 9% (cao hơn lần lượt 0,3 điểm % và 1,9 điểm % so với kịch bản tại Nghị quyết số 01/NQ-CP), tính chung 06 tháng cuối năm tăng trưởng phải đạt 8,0%.
Kịch bản 2: Tăng trưởng cả năm dự kiến đạt 6,5%; tăng trưởng quý III đạt 7,4%, quý IV đạt 10,3% (cao hơn lần lượt 0,9 điểm % và 3,2 điểm % so với kịch bản tại Nghị quyết số 01/NQ-CP), tính chung 06 tháng cuối năm tăng trưởng phải đạt 8,9%.
Dự báo bối cảnh, tình hình thời gian tới khó có thể chuyển biến nhanh theo xu hướng tích cực, còn nhiều khó khăn, thách thức. Theo đó, cần ý thức được nhiệm vụ đặt ra là rất nặng nề và thách thức, đòi hỏi sự quyết tâm cao, nỗ lực lớn của toàn hệ thống chính trị, người dân và doanh nghiệp, phát huy hiệu quả mọi chính sách, nguồn lực, tận dụng tối đa các cơ hội, phấn đấu tối đa để kết quả cao nhất theo mục tiêu đã đề ra, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh.
|
Hình ảnh tai điểm cầu trụ sở Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Ảnh: MPI |
Triển khai nhanh, hiệu quả hơn nữa các giải pháp đã ban hành, đồng thời tiếp tục có các giải pháp mới, chủ động, quyết liệt hơn
Về các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm trong thời gian tới, theo Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng, các bộ, ngành, địa phương cần tiếp tục thực hiện hiệu quả, thực chất, toàn diện, nhất quán các Nghị quyết, Kết luận của Đảng, Quốc hội, Nghị quyết số 01/NQ-CP, Chương trình phục hồi và phát triển KTXH, chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại các Công điện số 470/CĐ-TTg, số 469/CĐ-TTg, số 238/CĐ-TTg, Chỉ thị số 22/CT-TTg,…; triển khai nhanh, hiệu quả các chính sách, giải pháp đã ban hành để thúc đẩy tăng trưởng, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, người dân, tăng khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn, an sinh xã hội; tăng cường kiểm tra, giám sát; chủ động xử lý công việc theo thẩm quyền; kịp thời phản ứng chính sách trước các tình huống mới phát sinh; đẩy mạnh các giải pháp trong trung và dài hạn, thực hiện 03 đột phá chiến lược,...
Yêu cầu đặt ra là cần triển khai nhanh, hiệu quả hơn nữa các giải pháp đã ban hành, đồng thời tiếp tục có các giải pháp mới, chủ động, quyết liệt để củng cố, đẩy nhanh hơn nữa xu hướng phục hồi của nền kinh tế; củng cố niềm tin, kỳ vọng của doanh nghiệp, nhà đầu tư, người dân vào sự chia sẻ, đồng hành, hỗ trợ của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các cấp ngành, địa phương.
Trong những tháng cuối năm, các bộ, cơ quan và địa phương cần tập trung triển khai quyết liệt hơn, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp điều hành trọng tâm. Theo đó, tập trung theo dõi, nắm chắc tình hình trong và ngoài nước, chủ động thực hiện chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền được giao, tham mưu, đề xuất với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong trường hợp vượt thẩm quyền. Khẩn trương báo cáo cấp có thẩm quyền quy định về khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung; tăng cường kiểm tra, giám sát, có chế tài xử lý nghiêm các trường hợp cán bộ đùn đẩy, né tránh, sợ trách nhiệm.
Siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh; rà soát, cắt giảm, đơn giản hóa ngay các quy định, thủ tục hành chính gắn với tăng cường phân cấp, phân quyền, bảo đảm công khai, minh bạch, tạo thuận lợi tối đa cho người dân, doanh nghiệp; thúc đẩy ứng dụng công nghệ số vào quản lý và giải quyết thủ tục hành chính trên môi trường điện tử; tuyệt đối không ban hành chính sách, quy định mới làm phát sinh chi phí, thủ tục, thời gian trái quy định hoặc không cần thiết cho doanh nghiệp, người dân.
Tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp, thúc đẩy các động lực tăng trưởng về tiêu dùng trong nước, đầu tư (bao gồm khu vực tư nhân trong nước, DNNN, thu hút FDI và đầu tư công), xuất khẩu. Trong đó, cần lưu ý các giải pháp như tập trung thúc đẩy phát triển hiệu quả thị trường trong nước, đẩy mạnh cuộc vận động người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam, các chương trình, hoạt động xúc tiến thương mại, hội chợ bán hàng, kết nối cung cầu trong nước. Thúc đẩy phát triển du lịch bền vững, tăng cường quảng bá, xúc tiến du lịch trong nước, thu hút khách du lịch quốc tế.
Củng cố các thị trường xuất khẩu truyền thống, đa dạng hóa, mở rộng thị trường xuất khẩu tiềm năng; phát huy hiệu quả các FTA đã ký kết, đẩy nhanh đàm phán, ký kết các Hiệp định, cam kết, liên kết thương mại mới; kịp thời thông tin, cảnh báo, chủ động hướng dẫn doanh nghiệp ứng phó kịp thời với các vụ kiện phòng vệ thương mại, các tiêu chuẩn, kỹ thuật mới của nước đối tác xuất khẩu.
Tập trung hoàn thiện cơ chế, chính sách ưu đãi, hỗ trợ, thu hút đầu tư ngoài thuế; sửa đổi chính sách ưu đãi thuế, thu hút đầu tư trong bối cảnh thuế tối thiểu toàn cầu. Đẩy mạnh xúc tiến đầu tư; hỗ trợ doanh nghiệp trong nước tham gia sâu vào các chuỗi sản xuất của doanh nghiệp FDI.
Tháo gỡ kịp thời, thực chất, hiệu quả vướng mắc của doanh nghiệp, dự án đầu tư, nhất là những vấn đề tồn đọng, kéo dài nhiều năm để tăng cường thu hút đầu tư tư nhân, hợp tác công tư, đầu tư nước ngoài; đẩy nhanh công tác giải phóng mặt bằng, tạo mặt bằng sạch cho các dự án đầu tư quy mô lớn; sớm đưa vào vận hành các dự án lớn, có vai trò quan trọng trong ngành công nghiệp và năng lượng.
Phát huy tối đa tài sản, nguồn lực của các tập đoàn, tổng công ty để đẩy mạnh đầu tư vào các ngành, lĩnh vực chính, bao gồm cả các dự án trong ngắn hạn và dài hạn nhằm phát huy vai trò của doanh nghiệp nhà nước vào tăng trưởng, phát triển KTXH; đảm bảo cung ứng điện, xăng dầu cho cả nước, cả trước mắt và lâu dài.
Đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công, nguồn vốn thuộc Chương trình phục hồi và phát triển KTXH, 03 CTMTQG; tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ các dự án, công trình hạ tầng lớn, quan trọng quốc gia, để sớm đưa vào khai thác, vận hành, mở ra không gian phát triển mới cho cả nước, các vùng, địa phương.
Điều hành đồng bộ các công cụ chính sách tiền tệ để giảm chi phí, lãi suất cho vay, tăng khả năng tiếp cận vốn vay, nhất là đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, hợp tác xã, hộ kinh doanh; triển khai hiệu quả các chính sách hỗ trợ thuế, phí, lệ phí,... đã ban hành, chủ động đề xuất, tham mưu kéo dài chính sách trong trường hợp cần thiết, đồng thời nghiên cứu, có chính sách hỗ trợ mới để thúc đẩy sản xuất, tiêu dùng trong nước.
Tháo gỡ vướng mắc pháp lý, nâng cao hiệu quả khai thác, sử dụng các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách; hoàn thiện quy định để phát huy hiệu quả nguồn lực của Quỹ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Bên cạnh đó, tập trung tháo gỡ khó khăn, phát triển bền vững các thị trường chứng khoán, bất động sản, trái phiếu doanh nghiệp, lao động; Giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; Thúc đẩy khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, phát triển kinh tế số, chuyển đổi số; đẩy mạnh hoàn thiện hạ tầng số quốc gia, bảo đảm hạ tầng công nghệ thông tin phục vụ triển khai Đề án 06; sớm hoàn thiện chiến lược, chính sách phát triển công nghiệp bán dẫn, Hydrogen; hỗ trợ doanh nghiệp đáp ứng tiêu chí phát triển bền vững được quốc tế công nhận, đầu tư các dự án nhà máy xanh, chuyển đổi xanh; hoàn thiện các quy định, tạo thuận lợi phát triển thị trường tín chỉ Carbon.
Bảo đảm an sinh xã hội, hỗ trợ người lao động, bảo đảm đời sống người dân; Tiếp tục chú trọng nâng cao chất lượng, giải quyết triệt để các vấn đề bất cập, vướng mắc trong lĩnh vực giáo dục, y tế; Bảo đảm vững chắc quốc phòng an ninh, trật tự an toàn xã hội; tăng cường hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả; Tổ chức thực hiện đồng bộ, quyết liệt các chính sách, giải pháp đã ban hành, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả; Tăng cường công tác thông tin, truyền thông chính sách, củng cố niềm tin của doanh nghiệp, nhà đầu tư, người dân vào sự chuyển biến tích cực của nền kinh tế; sự lãnh đạo, quyết sách của Đảng, Quốc hội, công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ ngành, địa phương./.
Tùng Linh
Bộ Kế hoạch và Đầu tư