NGHỊ QUYẾT
CỦA CHÍNH PHỦ SỐ 10/2008/NQ-CP
NGÀY 17 THÁNG 4 NĂM 2008
VỀ CÁC BIỆN PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHÁT, ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ,
BẢO ĐẢM AN SINH XÃ HỘI VÀ TĂNG TRƯỞNG BỀN VỮNG
Tình hình kinh tế thế giới đang có nhiều biến
động phức tạp, khó lường. Giá dầu và hầu hết các nguyên vật liệu cơ bản và
lương thực, thực phẩm trên thị trường thế giới tăng cao; sự suy giảm của kinh
tế Mỹ đã tác động mạnh và kéo theo sự suy giảm của nhiều nền kinh tế. Trong
nước, đợt rét đậm, rét hại lịch sử kéo dài ở miền Bắc và Bắc Trung Bộ đã gây
tổn thất lớn về vật chất và tác động bất lợi đến sản xuất nông nghiệp và đời
sống nhân dân. Trong điều kiện kinh tế nước ta có sức cạnh tranh chưa cao lại
mới bước đầu vận hành theo cơ chế thị trường và đang hội nhập sâu, rộng vào nền
kinh tế thế giới thì những hệ quả nặng nề của thiên tai, dịch bệnh và những
biến động bất lợi của kinh tế toàn cầu đã tác động tiêu cực đến tăng trưởng và
đến mặt bằng giá trong nước.
Trước tình hình này, Chính phủ đã thống nhất xác
định nhiệm vụ trọng tâm hiện nay của đất nước ta là: kiềm chế lạm phát, giữ
vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững,
trong đó kiềm chế lạm phát là mục tiêu ưu tiên hàng đầu. Để đạt được những
nhiệm vụ và mục tiêu nêu trên, một mặt phải tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị
quyết số 02/2008/NQ-CP ngày 09 tháng 01 năm 2008 của Chính phủ về điều hành
kinh tế - xã hội năm 2008, mặt khác cần tập trung chỉ đạo thực hiện quyết liệt
và đồng bộ các giải pháp chủ yếu sau đây:
I. THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CHẶT CHẼ
1. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ động, linh
hoạt trong việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị
trường, kiểm soát chặt chẽ tổng phương tiện thanh toán và tổng dư nợ tín dụng
nhưng phải bảo đảm tính thanh khoản của nền kinh tế và hoạt động của các ngân
hàng, tổ chức tín dụng.
Sử dụng linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ
để giảm dần lãi suất huy động theo hướng thực hiện chính sách lãi suất thực
dương. Tăng cường kiểm soát và giám sát chặt chẽ hoạt động của các ngân hàng
thương mại để bảo đảm việc tuân thủ đúng các quy định về huy động, cho vay và
chất lượng tín dụng. Kịp thời phát hiện, xử lý các vi phạm theo đúng quy định
của pháp luật để giảm thiểu rủi ro trong hoạt động ngân hàng.
2. Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia sớm ổn
định tổ chức, kịp thời phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Tài chính
và các cơ quan liên quan tăng cường các công cụ giám sát theo cơ chế thị trường
và thông lệ quốc tế để chủ động cảnh báo và xử lý tốt hơn những biến động trên
thị trường tài chính, tiền tệ.
II. KIỂM SOÁT CHẶT CHẼ, NÂNG CAO HIỆU QUẢ CHI
TIÊU CÔNG
1. Điều hành chính sách tài khóa theo hướng tiết
kiệm chi tiêu thường xuyên, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư từ ngân sách; kiểm
soát chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước, nhất là đầu tư vào các dự
án không thuộc lĩnh vực sản xuất, kinh doanh chính của doanh nghiệp; phấn đấu
giảm tỷ lệ thâm hụt ngân sách.
2. Thực hiện việc cắt giảm, sắp xếp lại vốn đầu
tư xây dựng cơ bản trong kế hoạch năm 2008 từ nguồn ngân sách nhà nước, trái
phiếu Chính phủ, tín dụng đầu tư nhà nước và đầu tư của các doanh nghiệp nhà
nước, trước hết là các công trình đầu tư kém hiệu quả, các công trình chưa thực
sự cần thiết. Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì cùng Bộ Tài chính triển khai nội
dung này ngay trong việc rà soát lại và cân đối nguồn vốn thuộc ngân sách nhà
nước. Các Bộ trưởng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố, Chủ tịch Hội
đồng quản trị, Tổng giám đốc các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, theo
chức năng, nhiệm vụ được giao thực hiện việc rà soát chặt chẽ các hạng mục đầu
tư để cắt bỏ các công trình đầu tư kém hiệu quả, tập trung vốn cho những công
trình sắp hoàn thành, những công trình đầu tư cho sản xuất hàng hóa thuộc mọi
thành phần kinh tế để đẩy nhanh tiến độ, sớm đưa vào sản xuất.
3. Các Bộ liên quan, nhất là Bộ Kế hoạch và Đầu
tư, Bộ Xây dựng, Bộ Tài chính khẩn trương hoàn chỉnh các văn bản về đầu tư xây
dựng, kịp thời ban hành hướng dẫn xử lý các vướng mắc phát sinh để đẩy nhanh
tiến độ giải ngân các công trình sớm đưa vào khai thác phát huy hiệu quả.
4. Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì việc nghiên cứu
để chuyển một số công trình đầu tư từ nguồn vốn ngân sách sang hình thức đầu tư
BOT từ nguồn vốn trong và ngoài nước hoặc bán, chuyển nhượng công trình có khả
năng thu hồi vốn cho doanh nghiệp, tư nhân khai thác hoặc đầu tư tiếp để nâng
cao hiệu quả đầu tư.
5. Bộ Tài chính chủ trì rà soát, đề xuất các
biện pháp chấn chỉnh hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước, các tập
đoàn kinh tế, các tổng công ty lớn. Sơ kết mô hình tập đoàn kinh tế theo tinh
thần Nghị quyết Trung ương 3 khóa IX. Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với Bộ Tài
chính chuẩn bị để thực hiện trong quý IV năm 2008.
6. Thực hiện chính sách tiết kiệm đồng bộ, chặt
chẽ, nghiêm ngặt trong tất cả các cấp, các ngành, trong toàn bộ hệ thống chính
trị. Đưa nội dung thực hành tiết kiệm trong chi tiêu ngân sách, trong sản xuất
và đời sống vào chương trình cuộc vận động: "Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh" trong năm 2008 và những năm tiếp theo. Năm 2008,
ngoài việc tiết kiệm bình quân 10% chi phí hành chính (trừ tiền lương, phụ cấp
lương, các khoản chi cho con người theo chế độ quy định) của các cơ quan sử
dụng ngân sách nhà nước, thực hiện cắt giảm những khoản chi mua sắm chưa thật
cần thiết, giảm tối đa các hội nghị toàn quốc, giảm chi phí đi lại (nhất là đi
lại bằng máy bay); cắt giảm các khoản chi tiếp khách, các đoàn công tác nước
ngoài bằng vốn ngân sách hoặc có nguồn gốc ngân sách mà không thật thiết thực;
tiết kiệm năng lượng, phương tiện triệt để hơn nữa. Giảm các chi phí cho hoạt
động lễ hội, lễ kỷ niệm, đón nhận huân chương, danh hiệu thi đua,... gây tốn
kém, lãng phí. Bộ Tài chính chủ trì giao chỉ tiêu và hướng dẫn nội dung và tổ
chức triển khai các đơn vị thực hiện.
7. Phấn đấu năm 2008 thu ngân sách thực hiện vượt dự toán đã
được giao, tăng dự phòng để chi cho khắc phục thiên tai, an sinh xã hội, giảm
thêm tỷ lệ thâm hụt ngân sách so với mục tiêu mà Quốc hội đã giao cho năm 2008.
III. TẬP TRUNG SỨC PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP, NÔNG
NGHIỆP VÀ DỊCH VỤ, BẢO ĐẢM CÂN ĐỐI CUNG CẦU VỀ HÀNG HÓA
1. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì:
a, Phối hợp với các địa phương khắc phục nhanh hậu quả của
thiên tai và dịch bệnh để đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, tập trung chỉ đạo phát
triển trồng rau màu, chăn nuôi, tăng nguồn cung thực phẩm nhằm sớm ổn định giá
cả lương thực, thực phẩm, chuẩn bị đủ giống cho sản xuất vụ mùa, hè thu;
b, Phối hợp với các cơ quan chức năng và chính quyền
các cấp để phát hiện sớm, chủ động thực hiện và hướng dẫn kịp thời các biện
pháp phòng, chống, ngăn chặn và dập tắt một cách tích cực, kiên quyết, có hiệu
quả dịch cúm gia cầm, lơn tai xanh, lở mồm long móng ở trâu, bò và cúm A (H5N1)
ở người;
c, Chỉ đạo triển khai việc tu bổ các công trình hồ chứa, đê
điều, công trình thủy lợi nhằm chủ động đối phó với thiên tai trong mùa bão, lũ
sắp tới để đảm bảo an toàn lao động cho sản xuất và đời sống.
2. Bộ trưởng các Bộ: Kế hoạch và Đầu tư, Công Thương, Tài
Nguyên và Môi trường, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố chỉ đạo
quyết liệt, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về thủ tục hành chính để giải
quyết nhanh việc tiếp cận, sử dụng vốn, đất đai, mở rộng thị trường nhằm thúc
đẩy sản xuất phát triển. Đồng thời, chủ động thực hiện các biện pháp phù hợp
tháo gỡ khó khăn do biến động giá làm ảnh hưởng đến sản xuất, kinh doanh của
doanh nghiệp, trước hết là giá dự toán các công trình đang triển khai có nguồn
vốn từ ngân sách nhà nước để sớm hoàn thành, đưa vào hoạt động.
3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì việc tiếp tục rà soát, xóa
bỏ các quy định không phù hợp gây cản trở cho các hoạt động đầu tư, kinh doanh,
tạo thuận lợi cho các thành phần kinh tế phát triển.
4. Bộ Công Thương chủ trì làm việc với các Bộ liên quan,
hiệp hội ngành hàng, các doanh nghiệp kinh doanh về việc bảo đảm nguồn hàng;
đồng thời, có trách nhiệm cùng Chính phủ kiềm giữ giá cả các mặt hàng thiết yếu,
như: lương thực, thuốc chữa bệnh, xăng dầu, sắt thép, xi măng, phân bón,... Chủ
động đề ra và áp dụng phương án khắc phục tình trạng thiếu điện và bảo đảm điện
cho sản xuất.
IV. ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU, KIỂM SOÁT CHẶT CHẼ NHẬP KHẨU, GIẢM
NHẬP SIÊU
1. Bộ Công Thương chủ trì:
a, Đề xuất các giải pháp cải cách thủ tục hành chính liên
quan đến hoạt động xuất khẩu để giảm chi phí cho doanh nghiệp, góp phần nâng
cao khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam đi đôi với việc áp dụng các
hàng rào kỹ thuật và các biện pháp nhập khác phù hợp với các cam kết quốc tế
của nước ta để giảm nhập siêu, kể cả việc tăng thuế nhập khẩu những mặt hàng
không thiết yếu.
b, Hỗ trợ công tác xúc tiến thương mại đối với hàng xuất
khẩu; đẩy mạnh hoạt động xúc tiến tại các thị trường truyền thống và mở rộng
thị trường mới để tăng xuất khẩu;
c, Tăng cường các giải pháp khuyến khích sản xuất trong nước
để thay thế hàng nhập khẩu, thúc đẩy mạnh các hoạt động dịch vụ và du lịch;
d, Phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để đề
xuất cơ chế, chính sách bảo đảm nguồn cung lương thực, thực phẩm trên thị
trường nội địa, bảo đảm an ninh lương thực và kiềm chế sự tăng giá quá mức của
nhóm hàng này. Điều hành và kiểm sóat để xuất khẩu gạo năm 2008 ở mức 3,5 đến 4
triệu tấn.
2. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì điều hành chính sách
tiền tệ, tỷ giá phù hợp với chủ trương đẩy mạnh xuất khẩu. Có cơ chế và chỉ đạo
các ngân hàng thương mại mua hết ngoại tệ cho các doanh nghiệp xuất khẩu, xử lý
kịp thời các ách tắc về tín dụng, đáp ứng nhu cầu vay vốn hợp lý cho xuất khẩu.
3. Bộ Tài chính chủ động, linh hoạt trong việc sử dụng công
cụ thuế để tăng thuế xuất khẩu ở mức hợp lý đối với than, dầu thô. Điều chỉnh
tăng thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt ở mức hợp lý đối với một số mặt
hàng tiêu dùng không thiết yếu như: ô tô nguyên chiếc, kinh kiện lắp ráp ô tô
dưới 12 chỗ ngồi, một số mặt hàng điện tử, điện lạnh, xe và linh kiện lắp ráp
xe hai bánh gắn máy, rượu, bia để thực hiện mục tiêu giảm nhập siêu nhưng vẫn
bảo đảm phù hợp với cam kết hội nhập; kiến nghị điều chỉnh cơ chế, chính sách
về thuế, áp dụng các hàng rào kỹ thuật và các biện pháp khác cần thiết, phù hợp
với các cam kết quốc tế để hạn chế các mặt hàng thuộc diện không khuyến khích
nhập khẩu.
V. TRIỆT ĐỂ THỰC HÀNH TIẾT KIỆM TRONG SẢN XUẤT VÀ TIÊU DÙNG
Tình trạng lãng phí trong sản xuất và tiêu dùng vẫn còn diễn
ra khá phổ biến ở các cơ quan, đơn vị, trong dân cư, tiềm năng tiết kiệm trong
sản xuất và tiêu dùng rất lớn. Trước hết, Chính phủ chỉ đạo việc triệt để thực
hiện tiết kiệm, chống lãng phí trong sử dụng ngân sách nhà nước. Các đơn vị
phải chủ động sử dụng dự toán đã được giao để thực hiện các nhiệm vụ, kể cả
trong trường hợp giá cả tăng. Không bổ sung chi ngân sách ngoài dự toán.
Các doanh nghiệp phải rà soát tất cả các khoản chi nhằm hạ
giá thành và phí lưu thông. Tăng cường công tác giám sát tài chính đối với các
doanh nghiệp nhà nước, nhất là các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty 90, 91 để
chấn chỉnh ngay việc đầu tư kém hiệu quả, đầu tư ra ngoài ngành sản xuất chính
và cơ cấu đầu tư bất hợp lý trong thời gian qua của các đơn vị này.
Chính phủ kêu gọi mọi người, mọi nhà triệt để tiết kiệm tiêu
dùng, nhất là nhiên liệu, năng lượng.
VI. TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG CHỐNG ĐẦU CƠ BUÔN
LẬU VÀ GIAN LẬN THƯƠNG MẠI, KIỂM SOÁT VIỆC CHẤP HÀNH PHÁP LUẬT NHÀ NƯỚC VỀ GIÁ
1. Bộ Công Thương chủ trì triển khai các giải pháp bảo đảm
cân đối cung cầu hàng hóa; đồng thời, tăng cường chỉ đạo thực hiện quản lý thị
trường, nhất thiết không để xảy ra tình trạng lạm dụng các biến động về nguồn
hàng, giá cả trên thị trường để đầu cơ, nâng giá, nhất là đối với các loại vật
tư quan trọng như: xăng, dầu, điện, xi măng, sắt, thép, phân bón, thuốc trừ sâu
và hàng tiêu dùng thiết yếu như: lương thực, thuốc chữa bệnh,... Phối hợp với
chính quyền địa phương chỉ đạo các cơ quan chức năng tăng cường các biện pháp
ngăn chặn tình trạng gian lận thương mại, trốn lậu thuế và buôn lậu qua biên
giới, đặc biệt là buôn lậu xăng, dầu, khoáng sản, lương thực...
2. Bộ Tài chính tăng cường kiểm soát việc chấp hành pháp
luật nhà nước về giá, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm.
3. Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phải triệt
để chấp hành các quy định về quản lý giá, thường xuyên kiểm tra giá bán tại các
mạng lưới bán lẻ của doanh nghiệp mình.
4. Các tổng công ty nhà nước phải gương mẫu đi đầu trong
việc thực hiện yêu cầu này và chịu trách nhiệm trước Chính phủ về hoạt động của
hệ thống bán lẻ và đại lý bán lẻ của doanh nghiệp.
Chính phủ yêu cầu các hiệp hội ngành hàng tham gia tích cực,
ủng hộ các chủ trương và giải pháp bình ổn thị trường, giá cả.
VII. TĂNG CƯỜNG CÁC BIỆN PHÁP HỖ TRỢ ỔN ĐỊNH ĐỜI SỐNG VÀ SẢN
XUẤT CỦA NHÂN DÂN, MỞ RỘNG VIỆC THỰC HIỆN CÁC CHÍNH SÁCH VỀ AN SINH XÃ HỘI
Căn cứ chức năng, nhiệm vụ được giao, các Bộ, địa phương và
cơ quan liên quan tăng cường các biện pháp hỗ trợ an sinh xã hội, ổn định đời
sống nhân dân thông qua việc đẩy mạnh công tác xóa đói, giảm nghèo và giải
quyết việc làm, hỗ trợ bảo đảm đời sống nhân dân, nhất là vùng nghèo, hộ nghèo,
vùng bị thiên tai, người lao động có thu nhập thấp.
1. Bộ Tài chính chủ trì:
a) Phối hợp với các cơ quan liên quan kiểm tra việc triển
khai thực hiện các chính sách về điều chỉnh mức lương tối thiểu mà Chính phủ đã
ban hành có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2006; kiểm tra việc xuất gạo dự
trữ quốc gia để cấp không thu tiền cho hộ đồng bào bị thiên tai, thiếu đói;
b) Tổ chức thực hiện đầy đủ và có hiệu quả chính sách hỗ trợ
đồng bào dân tộc thiểu số, hộ thuộc diện chính sách, hộ nghèo, hộ cận nghèo và
ngư dân theo Quyết định số 289/QĐ-TTg ngày 18 tháng 3 năm 2008 của Thủ tướng
Chính phủ như: hỗ trợ dầu hỏa ở nơi không có điện hoặc thiếu điện; nâng học
bổng cho học sinh dân tộc các trường nội trú; hỗ trợ thêm cho người nghèo và
cho trẻ em dưới 6 tuổi; hỗ trợ lãi suất để đầu tư thay máy tiết kiệm nhiên
liệu, bảo hiểm phương tiện và con người. Tiếp tục nghiên cứu trình Thủ tướng
Chính phủ chính sách bảo đảm an sinh xã hội;
c) Chủ trì cùng Bộ Công Thương giám sát việc triển khai thực
hiện từ nay cho đến hết tháng 6 năm 2008, chưa tăng giá điện, than, xăng, dầu;
giữ ổn định giá xi măng, phân bón, nước sạch, thuốc chữa bệnh, vé máy bay, tàu
hỏa, vé xe buýt; giữ ổn định mức thu học phí, viện phí. Đồng thời nắm chắc diễn
biến của lạm phát, đề xuất với Chính phủ các giải pháp thích hợp tiếp theo.
2. Các Bộ: Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam cùng Ủy ban nhân dân các cấp tăng cường các nguồn vốn giá rẻ cho Ngân
hàng Chính sách Xã hội để tiếp tục thực hiện các chương trình tín dụng ưu đãi
cho các hộ nghèo và các đối tượng chính sách.
3. Các Bộ quản lý, Ủy ban nhân dân các địa phương tiếp tục
đẩy mạnh việc thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, các giải pháp hỗ
trợ khác đối với các vùng khó khăn, vùng bị thiên tai. Đồng thời, theo dõi, nắm
chắc diễn biến giá cả, đời sống nhân dân trên địa bàn, xử lý kịp thời những vấn
đề xã hội gây bức xúc; tăng cường kiểm tra, giám sát và tổ chức thực hiện đúng,
đủ các chính sách xã hội của Nhà nước cho các đối tượng thụ hưởng, bảo đảm
nguồn hỗ trợ của Nhà nước đến đúng đối tượng, không bị thất thoát, tham nhũng.
VIII. ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC THÔNG TIN VÀ TUYÊN TRUYỀN
1. Bộ Thông tin và Truyền thông tổ chức chỉ đạo công tác
thông tin tuyên truyền nhằm tạo sự đồng thuận cao trong tất cả các cấp, các
ngành, địa phương, doanh nghiệp và trong các tầng lớp nhân dân để thực hiện các
mục tiêu và giải pháp đã đề ra nhằm đưa nền kinh tế vượt qua khó khăn, phát
triển ổn định.
Nhiệm vụ đặt ra là rất nặng nề, khó khăn thách thức rất gay
gắt nhưng thời cơ, thuận lợi và tiềm năng tăng trưởng của nền kinh tế nước ta
còn rất lớn và rất cơ bản. Chính phủ yêu cầu các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ
quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương căn cứ chức năng, nhiệm vụ được giao
và mục tiêu, các giải pháp trên, có kế hoạch tổ chức thực hiện ngay trong
tháng 4 năm 2008.
2. Các phương tiện thông tin đại chúng đưa tin chính xác,
ủng hộ các chủ trương, chính sách của Nhà nước trên lĩnh vực nhạy cảm này,
tránh những thông tin sai sự thật có tính kích động, gây tâm lý bất an trong xã
hội./.
TM. CHÍNH PHỦ
THỦ TƯỚNG
Nguyễn Tấn Dũng