Thưa
các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam,
Thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Thưa các
đồng chí lão thành cách mạng và các vị khách,
Thưa đồng bào, đồng chí và các bạn,
Trước kỳ họp
này của Quốc hội, Chính phủ đã gửi đến các vị đại biểu Quốc
hội hai báo cáo. Một là, Báo cáo bổ sung tình hình kinh tế -
xã hội năm 2007 và triển khai thực hiện kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội năm 2008; hai là, Báo cáo bổ sung tình hình
thực hiện ngân sách nhà nước năm 2007 và triển khai nhiệm vụ
ngân sách nhà nước năm 2008.
Theo yêu cầu
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ cũng đã gửi đến các
vị đại biểu Quốc hội một số báo cáo chuyên đề khác. Các báo
cáo đó đã đề cập toàn diện tình hình kinh tế - xã hội, ngân
sách nhà nước và những vấn đề cần giải quyết trong việc thực
hiện các Nghị quyết của Quốc hội.
Trong
báo cáo này, thay mặt Chính phủ, tôi xin trình bày một số
vấn đề quan trọng nổi lên qua việc thực hiện nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội năm 2007, 4 tháng đầu năm 2008 và
những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu nhằm kiềm chế lạm phát, ổn
định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và duy trì sự
tăng trưởng bền vững của nền kinh tế.
I.
TÌNH HÌNH THỰC HIỆN NHIỆM VỤ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM
2007 VÀ 4 THÁNG ĐẦU NĂM 2008
Năm
2007, phấn khởi trước những thành tựu của sự nghiệp đổi mới,
đất nước ta đã tranh thủ thời cơ, thuận lợi, vượt qua nhiều
khó khăn, thách thức, giữ vững ổn định chính trị xã hội và
tiếp tục phát triển trên nhiều lĩnh vực. Kinh tế tăng trưởng
8,48% so với năm 2006; hầu hết các chỉ tiêu kinh tế - xã hội
của năm 2007 được hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch
đề ra[1].
Công nghiệp
tăng trưởng khá, giá trị sản xuất tăng 17,1%; nông nghiệp
tiếp tục phát triển, giá trị sản xuất toàn ngành tăng 4,6%;
các ngành dịch vụ có nhiều chuyển biến tích cực, tốc độ tăng
trưởng cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế, giá trị tăng thêm
đạt 8,68%. Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 21,9%, có 10 mặt
hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ đô la Mỹ.
Vốn đầu
tư toàn xã hội đạt 505 nghìn tỷ đồng, bằng 44% GDP; trong
đó, vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước, vốn đầu tư của dân
cư đều tăng, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và vốn hỗ trợ
phát triển chính thức đạt mức cao nhất từ trước đến nay. Thu
ngân sách nhà nước vượt 12,1% dự toán, tăng 16,9% so với
thực hiện năm 2006; chi ngân sách vượt 11,8% dự toán, tăng
20%.
Các
lĩnh vực văn hoá, xã hội, giáo dục, y tế, khoa học, công
nghệ duy trì được đà phát triển và có những tiến bộ mới. Tạo
thêm việc làm cho 1,68 triệu lao động. Đời sống của nhân dân
trên nhiều mặt tiếp tục được cải thiện. Các chương trình đầu
tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội ở các vùng khó
khăn và các chính sách trợ giúp trực tiếp cho sản xuất và
đời sống của người nghèo, người bị thiệt hại do thiên tai,
dịch bệnh được đẩy mạnh và đem lại hiệu quả thiết thực. Tỷ
lệ hộ nghèo giảm xuống còn 14,8%.
Hoạt
động đối ngoại, hội nhập và hợp tác kinh tế quốc tế đạt được
nhiều kết quả tích cực, tạo thêm thuận lợi cho sự phát triển
và góp phần nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế.
Quốc phòng, an ninh được giữ vững. Trật tự an toàn xã hội
được bảo đảm.
Chúng ta xây
dựng và thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm
2008 trong bối cảnh thời cơ, thuận lợi rất lớn từ những
thành tựu đạt được của hơn 20 năm đổi mới, nhất là năm 2006
và 2007; nhưng cũng đứng trước những khó khăn, thách thức
không nhỏ, như: quy mô nền kinh tế còn nhỏ, cơ cấu kinh tế
chuyển dịch chậm; chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu
quả và sức cạnh tranh còn thấp; nền kinh tế vẫn đang tiếp
tục chuyển đổi, thể chế kinh tế thị trường chưa hoàn thiện,
hội nhập kinh tế quốc tế chưa có nhiều kinh nghiệm; kinh tế
vĩ mô chưa thật vững chắc; hạ tầng kinh tế - xã hội và nguồn
nhân lực chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển; khả năng hấp
thụ vốn của nền kinh tế còn thấp; nhiều vấn đề xã hội bức
xúc còn chậm được khắc phục.
Mặt
khác, những tháng cuối năm 2007 tình hình kinh tế thế giới
diễn biến rất phức tạp; giá dầu thô, giá lương thực và giá
nguyên vật liệu, máy móc thiết bị tăng cao tạo thêm những
thách thức gay gắt cho việc điều hành nền kinh tế và tác
động tiêu cực đến ổn định kinh tế vĩ mô; giá tiêu dùng trong
nước quý IV tăng rất mạnh, làm cho chỉ số giá tiêu dùng cả
năm 2007 tăng 12,63%; kim ngạch nhập khẩu cả năm tăng 39,6%,
nhập siêu tăng cao, bằng 29% tổng kim ngạch xuất khẩu và gấp
hơn 2,7 lần năm 2006[2].
Trước tình
hình đó, trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết của
Quốc hội về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2008,
Chính phủ đã tập trung sức chỉ đạo theo dõi sát các diễn
biến của tình hình, phát hiện và xử lý những vấn đề mới phát
sinh.
Nhiều
chính sách, biện pháp đã được khẩn trương triển khai thực
hiện nhằm kiềm chế lạm phát; tăng cường quản lý thị trường,
giá cả và ổn định thị trường tiền tệ, thị trường chứng
khoán, thị trường bất động sản; tháo gỡ khó khăn, vướng mắc
cho phát triển sản xuất, đầu tư; đẩy mạnh xuất khẩu, hạn chế
nhập siêu và bảo đảm cân đối các hàng hoá thiết yếu; hỗ trợ
thiết thực để ổn định đời sống và sản xuất của nhân dân,
nhất là nông dân, ngư dân, người nghèo, người bị thiệt hại,
khó khăn do thiên tai, dịch bệnh và giá cả tăng cao.
Với sự
nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các
ngành và cộng đồng doanh nghiệp, tình hình kinh tế - xã hội
4 tháng đầu năm 2008 tiếp tục đạt được những kết quả rất
đáng ghi nhận, nhưng cũng đã xuất hiện những mặt yếu kém và
những khó khăn rất lớn.
Tốc độ
tăng trưởng kinh tế quý I tuy đạt khá cao (7,4%) nhưng thấp
hơn cùng kỳ năm trước (7,8%) và thấp xa so với mục tiêu kế
hoạch cả năm (8,5 đến 9% và phấn đấu đạt mức cao hơn); giá
trị sản xuất công nghiệp 4 tháng đầu năm 2008 tăng 16,4%
nhưng thấp hơn cùng kỳ (16,7%); sản xuất nông nghiệp tăng
trưởng cao hơn cùng kỳ nhưng đang gặp nhiều khó khăn do
thiên tai, dịch bệnh; khu vực dịch vụ quý I tăng 8,1%, cao
hơn cùng kỳ (8%); vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 4 tháng
đầu năm tiếp tục tăng cao so với cùng kỳ cả về số lượng đăng
ký mới (41,4%) và về số thực hiện (26%).
Xuất khẩu 4
tháng đầu năm tăng cao hơn cùng kỳ năm trước (27,6% so với
22%), nhưng nhập khẩu tăng quá cao so với 4 tháng đầu năm
2007 (71% so với 33,6%), nhập siêu 4 tháng bằng 60,8% kim
ngạch xuất khẩu, đây là mức nhập siêu cao nhất trong nhiều
năm qua.
Nhập
khẩu tăng cao chủ yếu là do số lượng nhập khẩu các nhóm hàng
nguyên nhiên vật liệu, thiết bị máy móc phục vụ sản xuất
tăng nhanh và phải chịu mặt bằng giá cao hơn nhiều so với
cùng kỳ; nhưng nguyên nhân sâu xa là cơ cấu kinh tế chuyển
dịch chậm và còn nhiều yếu kém, công nghiệp sản xuất tư liệu
sản xuất và công nghiệp hỗ trợ chưa phát triển, hàng công
nghiệp xuất khẩu chủ yếu là gia công lắp ráp (khoảng 70%
nguyên liệu và linh kiện phải nhập khẩu) và hiệu quả đầu tư
thấp, còn nhiều lãng phí trong sản xuất và tiêu dùng.
Giá
tiêu dùng tuy đã có dấu hiệu chững lại nhưng vẫn ở mức rất
cao[3]; tháng 4 năm 2008 tăng 11,6% so với tháng 12 năm
2007. Nếu so với tháng 4 năm 2007 thì tốc độ tăng giá lên
đến 21,42%, là mức tăng giá cao nhất trong nhiều năm qua.
Các
lĩnh vực văn hoá, xã hội, khoa học, công nghệ, giáo dục, y
tế, giải quyết việc làm, bảo vệ môi trường, xoá đói giảm
nghèo, cải cách hành chính, phòng chống tham nhũng, công tác
đối ngoại và bảo đảm quốc phòng, an ninh... được khẩn trương
triển khai thực hiện và đạt được những kết quả tích cực.
Chính trị xã hội ổn định.
Nhưng
nổi cộm lên và đáng lo ngại là tình hình lạm phát, giá cả
tiêu dùng và nhập siêu tăng cao, cùng với những biến động
bất thường của thị trường tiền tệ, thị trường chứng khoán,
thị trường bất động sản đã đe dọa nghiêm trọng sự ổn định
của kinh tế vĩ mô, tác động tiêu cực đến sản xuất, đến tăng
trưởng của nền kinh tế và môi trường đầu tư, ảnh hưởng đến
công ăn việc làm, thu nhập và đời sống của nhân dân, nhất là
người nghèo, người lao động có thu nhập thấp và đồng bào ở
những vùng bị thiên tai, dịch bệnh.
Tình hình
trên đây có nguyên nhân khách quan rất lớn từ kinh tế Mỹ suy
giảm và đồng đô la Mỹ mất giá kéo theo sự suy giảm của kinh
tế toàn cầu; giá cả thế giới tăng cao đột biến, nhất là giá
dầu thô, lương thực và giá nhiều vật tư, nguyên liệu chủ yếu
đã tác động xấu đến các nền kinh tế và làm lạm phát tăng cao
ở hầu hết các nước.
Với nước ta,
độ mở của nền kinh tế lớn (tổng kim ngạch xuất nhập khẩu
hàng hoá năm 2007 trên 150% GDP, riêng nhập khẩu gần 90%)
nên bị tác động rất mạnh. Ở trong nước, thiên tai và dịch
bệnh xảy ra liên tiếp trong nhiều năm, gây khó khăn cho
nhiều ngành sản xuất, nhất là sản xuất nông nghiệp.
Trong
bối cảnh khách quan nêu trên, bên cạnh những mặt mạnh, mặt
tích cực, thì những yếu kém, bất cập trong quản lý, điều
hành của Chính phủ là nguyên nhân chủ quan trực tiếp, quan
trọng đã làm cho những yếu kém vốn có của nền kinh tế nước
ta càng bộc lộ rõ hơn và tác động sâu rộng hơn.
Những
yếu kém, bất cập trong quản lý, điều hành của Chính phủ thể
hiện trên các mặt chủ yếu sau đây:
Một
là, thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng trong
nhiều năm, nhất là trong năm 2007, làm tổng phương tiện
thanh toán và tổng dư nợ tín dụng tăng cao gây áp lực trực
tiếp đến lạm phát[4]. Thắt chặt tiền tệ để ưu tiên kiềm chế
lạm phát là việc làm rất cần thiết, nhưng một số biện pháp
xử lý cụ thể chưa thật thích hợp và đồng bộ, thiếu sự phối
hợp chặt chẽ giữa các cơ quan liên quan nên đã làm nảy sinh
những khó khăn mới.
Quản lý
nhà nước đối với hoạt động của hệ thống ngân hàng và tổ chức
tín dụng, nhất là việc kiểm tra, giám sát hoạt động của các
ngân hàng thương mại còn nhiều bất cập, kém hiệu quả, để
nhiều ngân hàng cổ phần tăng dư nợ tín dụng quá cao và sử
dụng tỷ lệ lớn vốn ngắn hạn cho vay dài hạn, cho vay kinh
doanh chứng khoán và kinh doanh bất động sản, gây khó khăn
cho việc quản lý và ổn định kinh tế vĩ mô. Điều hành tỷ giá,
nhất là tỷ giá đồng Việt Nam với đồng đô la Mỹ chưa thật
linh hoạt, phù hợp.
Hai
là, tỷ lệ bội chi ngân sách ở mức 5% được giữ liên
tục trong nhiều năm trong khi quy mô nền kinh tế ngày càng
lớn nhưng chưa đặt ra kế hoạch phấn đấu giảm dần bội chi; do
đó không tạo được áp lực đối với việc kiểm soát và tiết kiệm
chi tiêu ngân sách. Chi đầu tư từ khu vực nhà nước còn lớn
và hiệu quả thấp. Tình trạng này cũng diễn ra khá phổ biến
trong việc đầu tư của nhiều doanh nghiệp nhà nước và trong
sử dụng tín dụng ưu đãi của Nhà nước.
Chính
sách và giải pháp quản lý chưa hướng mạnh việc đầu tư phát
triển của toàn xã hội vào đầu tư chiều sâu, phát triển bền
vững, chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế và tiết kiệm cả trong
sản xuất và tiêu dùng. Hệ số ICOR của nước ta cao hơn so với
nhiều nền kinh tế ở thời kỳ phát triển tương đương làm giảm
chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Ba là, vai trò của Nhà nước trong quản lý
thị trường (trong đó có thị trường chứng khoán, thị trường
bất động sản) và quản lý giá cả, quản lý xuất nhập khẩu còn
nhiều bất cập, yếu kém; chậm đề ra các chính sách thích hợp,
có hiệu quả để quản lý và thúc đẩy sự phát triển lành mạnh
của các hoạt động này. Việc kiên trì thực hiện giá cả theo
cơ chế thị trường là chủ trương đúng đắn và cần thiết, nhưng
trong điều hành, có lúc, có việc chưa thật hợp lý. Các giải
pháp chống đầu cơ, buôn lậu hiệu quả chưa cao.
Bốn là, công tác nghiên cứu dự báo và thông
tin thị trường chưa được coi trọng đúng mức. Năng lực tham
mưu tổng hợp về kinh tế vĩ mô chưa đáp ứng kịp yêu cầu quản
lý điều hành. Đến những tháng cuối năm 2007, trong khí thế
lạc quan chung về những thành tựu đạt được, vẫn nhìn nhận
nhiều về thời cơ, thuận lợi, chưa phân tích dự báo được hết
những khó khăn thách thức mới, nên Chính phủ vẫn trình Quốc
hội thông qua chỉ tiêu tăng trưởng cao trong năm 2008 (GDP
tăng từ 8,5 đến 9%, phấn đấu đạt mức cao hơn) và tốc độ tăng
giá tiêu dùng thấp hơn tốc độ tăng GDP.
Năm là, công tác thông tin tuyên truyền,
giải thích tình hình vẫn chưa kịp thời, chưa đủ rõ và thiếu
nhất quán, nhất là trước những diễn biến mới và khi ban hành
các chính sách, giải pháp có tính nhạy cảm, gây tâm tư lo
lắng trong xã hội. Chưa quản lý và chỉ đạo tốt các phương
tiện thông tin đại chúng tham gia thiết thực, hiệu quả trong
việc thực hiện những nhiệm vụ cấp bách, quan trọng của đất
nước.
Những
bất cập, yếu kém nêu trên trong quản lý, điều hành của Chính
phủ, cùng với những yếu kém nội sinh của nền kinh tế đã làm
cho nền kinh tế nước ta dễ bị tổn thương trước những biến
động bất lợi từ bên ngoài. Chính phủ đã nghiêm túc kiểm
điểm, nhận rõ những kết quả đạt được, mặt mạnh, mặt tích
cực, đồng thời nhìn nhận sâu sắc về những mặt bất cập, yếu
kém, khuyết điểm của mình trong quản lý, điều hành.
Chính
phủ đã báo cáo Bộ Chính trị và Ủy ban Thường vụ Quốc hội về
tình hình kinh tế xã hội quý I, mục tiêu, nhiệm vụ, giải
pháp tiếp tục điều hành trong năm 2008 và đã khẩn trương
triển khai thực hiện đồng bộ Kết luận chỉ đạo của Bộ Chính
trị.
II. NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ KIỀM CHẾ LẠM
PHÁT, DUY TRÌ TĂNG TRƯỞNG BỀN VỮNG
Theo
nhiều dự báo, kinh tế thế giới có xu hướng tiếp tục suy
giảm, giá cả và lạm phát toàn cầu gia tăng, ảnh hưởng tiêu
cực đến các nền kinh tế. Biến đổi khí hậu toàn cầu và thiên
tai dịch bệnh diễn biến phức tạp. Tình hình này sẽ tác động
mạnh và gây khó khăn lớn cho nền kinh tế nước ta. Trong bối
cảnh đó, khả năng thực hiện một số chỉ tiêu chủ yếu của kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2008 như mức đã xác
định trước đây là không còn phù hợp.
Trên cơ sở
phân tích tình hình của 4 tháng đầu năm, nhận định các mặt
thuận lợi và khó khăn; đánh giá mặt mạnh, mặt yếu và khả
năng thực hiện các mục tiêu nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã
hội cả năm, Chính phủ thống nhất xác định nhiệm vụ trọng tâm
cấp bách trong những tháng tiếp theo của năm 2008 là: phấn
đấu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an
sinh xã hội và tăng trưởng bền vững, trong đó kiềm chế lạm
phát là mục tiêu ưu tiên hàng đầu. Đây là yêu cầu nhiệm vụ
rất khó khăn, đòi hỏi sự nỗ lực phấn đấu của cả hệ thống
chính trị và sự đồng tâm hiệp lực của toàn dân.
Chính
phủ xin đề nghị Quốc hội xem xét điều chỉnh chỉ tiêu tăng
trưởng cả năm 2008 ở mức khoảng 7%; tích cực phấn đấu kiềm
chế lạm phát và tốc độ tăng giá; bằng các giải pháp tổng hợp
đưa tốc độ tăng giá tiêu dùng theo hướng giảm dần.
Để thực
hiện các nhiệm vụ trọng tâm cấp bách nêu trên, Chính phủ xác
định 8 nhóm giải pháp chủ yếu cần tập trung sức chỉ đạo đồng
bộ, quyết liệt trong thời gian tới như đã nêu trong báo cáo
của Chính phủ gửi đến các vị đại biểu Quốc hội, tôi chỉ xin
nhấn mạnh và trình bày rõ thêm một số nội dung sau đây:
1. Thực hiện chính sách tài chính, tiền tệ chặt chẽ,
hiệu quả
Thực
hiện chính sách tài chính chặt chẽ theo hướng hết sức tiết
kiệm chi, nhất là chi thường xuyên và kiểm soát chặt đầu tư
công, giảm dần bội chi ngân sách. Thực hiện thu đúng, thu đủ
theo quy định của pháp luật, phấn đấu thu ngân sách nhà nước
năm 2008 vượt dự toán tối thiểu 5% để bảo đảm các nhiệm vụ
chi đã bố trí trong dự toán. Dành toàn bộ các khoản thu vượt
để bổ sung dự phòng ngân sách, ưu tiên chi cho việc phòng
chống và khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, bù giá xăng
dầu, bảo đảm an sinh xã hội.
Chính
phủ đã yêu cầu tất cả các ngành, các cấp, các doanh nghiệp
nhà nước thực hiện nghiêm việc rà soát, tiết kiệm 10% chi
thường xuyên trong 8 tháng còn lại của năm 2008, trừ các
khoản chi liên quan đến người lao động theo chế độ quy định.
Cắt giảm các khoản chi cho các nhiệm vụ không thật cấp bách;
tạm dừng mua sắm ô tô, phương tiện, tài sản khác có giá trị
lớn và sửa chữa lớn trụ sở làm việc. Giảm tối đa việc tổ
chức và chi phí cho lễ hội, hội nghị, tổng kết, sơ kết, đón
nhận huân chương, danh hiệu thi đua, kỷ niệm ngày thành lập,
đi tham quan khảo sát trong nước và công tác nước ngoài sử
dụng kinh phí ngân sách nhà nước. Giảm tối thiểu 10% mức sử
dụng xăng dầu, điện, nước, điện thoại, văn phòng phẩm, vé
máy bay...
Không
điều chỉnh tăng tổng mức vốn đầu tư của ngân sách nhà nước
năm 2008 đã giao theo mặt bằng giá mới. Các Bộ, ngành, địa
phương thực hiện điều hành vốn đầu tư trong tổng mức đã
giao. Chỉ bổ sung kinh phí ngoài dự toán đối với các nhiệm
vụ cấp bách về an sinh xã hội, quốc phòng, an ninh và phòng
chống thiên tai, dịch bệnh. Kiểm soát nghiêm ngặt việc tạm
ứng dự toán 2009, việc sử dụng dự phòng ngân sách và nguồn
tăng thu năm 2008. Kiểm soát chặt chẽ việc chuyển nguồn chi
sang năm sau đối với những nhiệm vụ thực hiện không hết dự
toán trong năm 2008.
Rà soát, sắp
xếp lại các dự án đầu tư theo hướng: đình hoãn khởi công các
dự án không có trong quy hoạch được duyệt; các dự án chưa đủ
thủ tục đầu tư xây dựng; các dự án xây dựng mới trụ sở cơ
quan, hội trường, bảo tàng, nhà văn hoá đã bố trí trong kế
hoạch năm 2008 nhưng chưa khởi công. Riêng đối với các dự án
thật sự cần thiết, quan trọng, chỉ bố trí vốn cho công tác
chuẩn bị đầu tư.
Giãn tiến độ
các dự án được phê duyệt hoàn thành từ năm 2007 trở về
trước, nhưng đã kéo dài thời gian thi công và đến hết năm
2007 mới bố trí được dưới 50% vốn; các dự án có nhiều vướng
mắc trong thủ tục đầu tư, giải phóng mặt bằng, các dự án
chưa thật sự cấp bách.
Điều
chuyển vốn từ các dự án đình hoãn, dãn tiến độ, ngừng thi
công sang các dự án có tiến độ triển khai nhanh và sắp hoàn
thành. Chuyển các dự án đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước
có khả năng thu hồi vốn, sang các hình thức đầu tư thích hợp
khác. Tập trung nguồn vốn cho các công trình trọng điểm quốc
gia và các công trình có khả năng đưa vào sử dụng trong năm
nay và năm 2009.
Rà soát
để cắt giảm khoảng 25% nguồn vốn đầu tư từ trái phiếu Chính
phủ trong kế hoạch năm 2008; chỉ phân bổ vốn cho các dự án
nằm trong danh mục đã được phê duyệt và đã chuẩn bị xong thủ
tục đầu tư, kể cả đầu tư cho kiên cố trường lớp học và trung
tâm y tế tuyến huyện. Cho phép giải ngân khối lượng hoàn
thành vượt mức kế hoạch của các dự án có tiến độ thi công
nhanh. Việc phát hành trái phiếu quốc tế của Chính phủ sẽ
được xem xét thực hiện ở thời điểm thích hợp. Thu hẹp danh
mục và giảm mức hỗ trợ sau đầu tư để giảm cấp bù ngân sách.
Rà soát
các dự án do doanh nghiệp nhà nước triển khai đầu tư. Đình
hoãn, giãn tiến độ các dự án hợp vốn nhưng chưa xác định
được nguồn vốn tham gia, các dự án hiệu quả đầu tư thấp và
các dự án xây mới trụ sở làm việc. Kiểm tra chặt chẽ việc
đầu tư không thuộc lĩnh vực sản xuất kinh doanh chính của
doanh nghiệp nhà nước, nhất là đầu tư kinh doanh tài chính,
chứng khoán, ngân hàng, bảo hiểm, bất động sản.
Các Bộ,
ngành, địa phương và các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà
nước phải báo cáo Thủ tướng Chính phủ về kế hoạch thực hiện
cụ thể việc rà soát điều chỉnh vốn đầu tư phát triển theo
Nghị quyết của Chính phủ. Kiểm tra và xử lý nghiêm các
trường hợp vi phạm pháp luật về sử dụng vốn đầu tư của Nhà
nước.
Thực hiện
chính sách tiền tệ thắt chặt, kiểm soát chặt chẽ việc tăng
tổng phương tiện thanh toán, tổng dư nợ tín dụng, nhưng phải
bảo đảm tính thanh khoản của nền kinh tế và hoạt động lành
mạnh của các ngân hàng. Chủ động, linh hoạt sử dụng hợp lý
các công cụ chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường và
áp dụng các biện pháp thích hợp để định hướng và ổn định lãi
suất, hướng tới thực hiện lãi suất thực dương.
Thực
hiện cơ chế tỷ giá linh hoạt với biên độ thích hợp, phản ánh
quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Thực hiện các
giải pháp thiết thực không để đô la hoá nền kinh tế. Quản lý
chặt chẽ việc thành lập mới, mở chi nhánh ngân hàng và tăng
cường kiểm soát, giám sát hoạt động của các ngân hàng thương
mại, bảo đảm việc tuân thủ các quy định về phát hành cổ
phiếu, tăng vốn điều lệ, về huy động, cho vay và chất lượng
tín dụng; kịp thời phát hiện, xử lý các vi phạm để bảo đảm
an toàn, ổn định của toàn hệ thống. Ngân hàng Phát triển
Việt Nam, Ngân hàng Chính sách Xã hội kiểm soát chặt chẽ
việc cho vay, bảo đảm đúng mục đích, đúng đối tượng.
Hoàn
thiện thể chế và tăng cường quản lý để phát triển lành mạnh
thị trường chứng khoán; tiếp tục thực hiện tốt chương trình
cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, điều tiết hợp lý việc
tăng cung và bảo đảm chất lượng hàng hoá cho thị trường;
tăng cường việc công khai minh bạch các hoạt động chứng
khoán; quy định rõ phạm vi hoạt động của nhà đầu tư nước
ngoài; kiểm soát chặt việc cho vay kinh doanh chứng khoán và
lập mới công ty chứng khoán.
Theo dõi chặt
chẽ và có các giải pháp kịp thời, đồng bộ để giảm dần thâm
hụt cán cân vãng lai, duy trì thặng dư cán cân vốn, giữ vững
cân bằng cán cân thanh toán tổng thể của nền kinh tế cả
trong ngắn hạn cũng như dài hạn. Bằng các giải pháp tăng
nhanh nguồn thu ngoại tệ từ xuất khẩu, du lịch và các dịch
vụ khác.
Sử dụng có
hiệu quả và đẩy nhanh tốc độ giải ngân nguồn vốn hỗ trợ phát
triển chính thức. Tiếp tục thu hút nhiều hơn và giải ngân
nhanh nguồn vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Khuyến
khích mạnh luồng vốn kiều hối từ nhiều nguồn khác nhau. Tạo
khuôn khổ pháp lý phù hợp để giữ ổn định và hướng luồng vốn
đầu tư gián tiếp của nước ngoài vào những hoạt động đầu tư
dài hạn.
Kiểm
soát chặt chẽ vay nợ nước ngoài của doanh nghiệp, nhất là
doanh nghiệp nhà nước. Hạn chế việc sử dụng ngoại tệ cho
việc nhập khẩu các hàng hoá, dịch vụ chưa thật cần thiết.
Tăng thêm dự trữ ngoại tệ của quốc gia. Có phương án chủ
động ứng phó với những biến động bất thường trên thị trường
vốn.
Thực hiện
chính sách tài chính, tiền tệ thích hợp để phát triển nhanh,
lành mạnh thị trường bất động sản. Chú trọng tăng nguồn cung
về nhà ở cho người có thu nhập thấp và văn phòng cho thuê,
khách sạn, hạ tầng khu công nghiệp để đáp ứng nhu cầu phát
triển. Kiểm soát chặt chẽ việc cho vay kinh doanh bất động
sản, áp dụng các chính sách thuế thích hợp, kết hợp với
những biện pháp hành chính cần thiết để bảo đảm thị trường
phát triển một cách cân đối, theo quy luật cung cầu, khuyến
khích sử dụng có hiệu quả bất động sản, hạn chế đầu cơ, thu
lợi bất chính.
Ủy ban
nhân dân các tỉnh, thành phố phải khẩn trương chỉ đạo rà
soát, lập danh mục theo thứ tự ưu tiên các dự án đầu tư bất
động sản, công khai các thông tin về quy hoạch, đồng thời
tháo gỡ các vướng mắc trong quy trình thủ tục phê duyệt dự
án, cấp phép xây dựng, giao đất, bồi thường giải phóng mặt
bằng. Kiên quyết thu hồi các dự án chậm triển khai, xử lý
nghiêm các trường hợp vi phạm quy định của pháp luật. Khẩn
trương chuẩn bị để sớm ban hành chính sách thuế về bất động
sản.
2. Tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để đẩy mạnh
phát triển sản xuất, dịch vụ và thu hút đầu tư
Phát
triển mạnh sản xuất và dịch vụ là giải pháp cơ bản, tạo hiệu
quả trực tiếp, nhiều mặt, vừa tăng nguồn cung các hàng hoá
và dịch vụ cho thị trường trong nước và xuất khẩu, thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế, vừa góp phần thiết thực kiềm chế lạm
phát, giảm nhập siêu.
Trong
khi thực hiện chính sách tài chính, tiền tệ thắt chặt nhằm
kiềm chế lạm phát, phải tập trung chỉ đạo đẩy mạnh sản xuất,
phát triển dịch vụ và thu hút đầu tư; đặc biệt quan tâm chỉ
đạo tháo gỡ các khó khăn vướng mắc, bảo đảm đủ vốn, đủ ngoại
tệ cho sản xuất các ngành hàng, các sản phẩm mà thị trường
trong nước và xuất khẩu đang có nhu cầu lớn. Tiếp tục thu
hút mạnh và giải ngân nhanh các nguồn vốn đầu tư phát triển,
nhất là các dự án đầu tư sản xuất sản phẩm công nghệ cao và
có giá trị xuất khẩu lớn.
Sử dụng
công cụ thuế một cách linh hoạt, hiệu quả, phù hợp với cam
kết quốc tế để góp phần thúc đẩy sản xuất, xuất khẩu và giảm
nhập siêu.
Tiếp
tục rà soát sửa đổi, bổ sung các quy định, thủ tục hành
chính, tạo thuận lợi hơn nữa cho người dân và doanh nghiệp,
trước hết là các quy định, thủ tục về thành lập doanh
nghiệp, đầu tư, vay vốn, giải ngân; thủ tục thuế, hải quan,
tiếp cận đất đai, mua bán ngoại tệ; thanh tra, kiểm tra.
Các Bộ,
ngành, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố, các Hiệp hội
ngành hàng tăng cường phối hợp hỗ trợ các doanh nghiệp khắc
phục khó khăn, giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, duy trì
và đẩy mạnh sản xuất, nhất là những mặt hàng công nghiệp
thiết yếu và sản xuất hàng xuất khẩu.
Cùng
với việc tổ chức vận hành tốt các cơ sở sản xuất hiện có bảo
đảm công suất, cố gắng không để xảy ra sự cố làm giảm sản
lượng, cần dồn sức hoàn thành đúng tiến độ các dự án đầu tư
để tăng sản lượng, bảo đảm đủ điện, than, sắt thép, xi măng,
phân bón hoá chất, dầu khí cho sản xuất và giảm bớt sự phụ
thuộc vào nhập khẩu. Đối với những mặt hàng xuất khẩu đang
có khả năng mở rộng thị trường, cần tập trung hỗ trợ để tăng
nhanh sản lượng.
Là nguồn thu
nhập chính của phần lớn dân số nước ta, phát triển sản xuất
nông lâm ngư nghiệp có tác dụng trực tiếp ổn định giá lương
thực thực phẩm, góp phần kiềm chế lạm phát và có vai trò nền
tảng trong việc bảo đảm an sinh xã hội. Vấn đề này càng có ý
nghĩa quan trọng trong bối cảnh thế giới đang phải đối đầu
với nguy cơ khủng hoảng thiếu lương thực.
Cần tăng mạnh
đầu tư cho sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn để
vừa bảo đảm đủ lương thực cho tiêu dùng trong nước, vừa tăng
thêm số lượng lương thực xuất khẩu, đồng thời cải thiện tốt
hơn đời sống của người sản xuất lương thực. Trước mắt cần
tập trung chỉ đạo chăm sóc tốt các vụ lúa chưa thu hoạch,
không để xảy ra dịch bệnh trên diện rộng; đảm bảo đủ giống,
phân bón, thuốc trừ sâu, thuỷ lợi... cho các vụ lúa tiếp
theo và các cây lương thực khác, phấn đấu vượt kế hoạch về
năng suất và sản lượng lương thực.
Tiếp
tục đẩy mạnh sản xuất cây công nghiệp gắn với phát triển
vùng nguyên liệu và công nghiệp chế biến, nhất là các loại
sản phẩm đang được giá, thị trường trong và ngoài nước có
nhu cầu lớn. Bảo đảm về giống, thức ăn, kỹ thuật và các điều
kiện cần thiết khác để khôi phục và phát triển nhanh chăn
nuôi. Chú trọng khai thác hải sản hợp lý, đẩy mạnh nuôi
trồng, chế biến và xuất khẩu thuỷ sản.
Tiếp
tục làm tốt công tác phòng trừ dịch bệnh cho cây trồng vật
nuôi, nhất là dịch cúm gia cầm H5N1 và dịch lợn tai xanh.
Huy động đủ nguồn lực, áp dụng đồng bộ các biện pháp để
khoanh vùng, dập tắt dịch bệnh không để lây lan. Bổ sung các
chính sách hỗ trợ cần thiết và chỉ đạo thực hiện tốt công
tác khắc phục hậu quả dịch bệnh, nhanh chóng khôi phục sản
xuất, ổn định đời sống nhân dân.
Qua hơn 2 năm
thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch sử dụng đất 5
năm 2006 - 2010 và các quy định của Chính phủ, việc chuyển
đất nông nghiệp, trong đó có đất trồng lúa sang sử dụng vào
mục đích khác đã được thực hiện theo quy trình chặt chẽ hơn.
Chính
phủ đang chỉ đạo khẩn trương việc rà soát, kiểm tra để có sự
điều chỉnh và hạn chế nghiêm ngặt việc chuyển đất trồng lúa
và cây lương thực sang sử dụng vào mục đích khác, như khu
công nghiệp, khu đô thị, khu du lịch sinh thái, sân gôn...
nhằm bảo đảm an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu
dài.
Tuy có
những khó khăn, nhưng nhiều ngành dịch vụ hiện đang có nhiều
thuận lợi. Cần khẩn trương tạo mọi điều kiện để phát triển,
nhất là các ngành dịch vụ có tiềm năng, có giá trị gia tăng
cao. Thực hiện đồng bộ các giải pháp để phát triển mạnh du
lịch. Hỗ trợ thiết thực để phát triển và nâng cao chất lượng
vận tải, bảo đảm lưu thông hàng hoá và phục vụ tốt nhu cầu
đi lại của nhân dân.
3. Đẩy mạnh xuất khẩu, giảm nhập siêu; bảo đảm cân
đối cung cầu hàng hoá; tăng cường quản lý thị trường, giá
cả; chống đầu cơ, buôn lậu
Thực hiện các
biện pháp mạnh mẽ, thiết thực để đẩy mạnh xuất khẩu là giải
pháp cơ bản nhằm hạn chế nhập siêu, thúc đẩy tăng trưởng;
đồng thời, áp dụng các biện pháp thích hợp để kiểm soát có
hiệu quả việc nhập khẩu, phấn đấu từng bước thu hẹp chênh
lệch giữa xuất khẩu và nhập khẩu. Tăng cường và nâng cao
hiệu quả công tác xúc tiến thương mại.
Khuyến
khích và hỗ trợ thiết thực để các doanh nghiệp nâng cao chất
lượng, đa dạng hoá sản phẩm và thị trường xuất khẩu. Xử lý
kịp thời các trở ngại về thủ tục hành chính liên quan đến
xuất khẩu để doanh nghiệp giảm chi phí, nâng cao khả năng
cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam. Phấn đấu tăng 25%
tổng kim ngạch xuất khẩu so với năm 2007[5].
Điều
chỉnh hợp lý thuế suất thuế nhập khẩu một số loại vật tư,
nguyên liệu trực tiếp đáp ứng cho nhu cầu sản xuất trong
nước và xuất khẩu. Áp dụng ở mức tối đa thuế tiêu thụ đặc
biệt đối với nhóm hàng không khuyến khích tiêu dùng. Kiểm
soát chặt và áp dụng thuế nhập khẩu ở mức cao đối với các
nhóm hàng không khuyến khích nhập khẩu. Sử dụng các hàng rào
kỹ thuật và các biện pháp phi thuế quan phù hợp với cam kết
quốc tế để giảm nhập siêu. Tăng thuế suất thuế xuất khẩu đối
với một số loại tài nguyên, khoáng sản, nguyên liệu thô.
Bảo đảm cân
đối cung cầu hàng hoá là tiền đề quyết định cho sự bình ổn
của thị trường, tránh đột biến về giá và ngăn chặn đầu cơ,
buôn lậu. Theo tính toán, nhu cầu của toàn bộ nền kinh tế về
các mặt hàng thiết yếu năm 2008 tăng khoảng 14% so với năm
2007.
Với nguồn
hàng trong nước và tiến độ nhập khẩu như dự kiến kế hoạch là
hoàn toàn đáp ứng đủ. Vấn đề quan trọng là phải tháo gỡ khó
khăn do giá của một số hàng hoá thế giới và trong nước tăng
cao ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất, xuất khẩu và đời sống.
Trong khi
kiên trì chủ trương xoá bao cấp qua giá, thực hiện giá theo
cơ chế thị trường, nhưng để ưu tiên cho mục tiêu kiềm chế
lạm phát, Chính phủ đã chủ trương chưa điều chỉnh tăng giá
điện, xăng dầu, than, nước sinh hoạt, cước vận chuyển máy
bay, tàu hoả, xe buýt.
Khi
kiềm chế được lạm phát sẽ áp dụng lộ trình thích hợp thực
hiện giá thị trường. Riêng về giá bán xăng dầu, trong trường
hợp giá dầu thế giới tăng đột biến, Chính phủ sẽ nghiên cứu
phương án tổng thể, thích hợp, với tinh thần Nhà nước, doanh
nghiệp và nhân dân cùng chia sẻ, gánh vác để vượt qua khó
khăn, giữ ổn định và phát triển[6].
Sản lượng
lương thực nước ta từ nhiều năm qua đã đủ bảo đảm tiêu dùng
thường xuyên cho cả nước với giá cả hợp lý và còn xuất khẩu
gạo đứng hàng thứ hai thế giới.
Để bảo đảm an
ninh lương thực quốc gia trong mọi tình huống, đồng thời bảo
đảm lợi ích của người trồng lúa, Chính phủ đã quy định lượng
xuất khẩu gạo cả năm 2008 ở khoảng 3,5 đến 4 triệu tấn với
tiến độ giao hàng thích hợp và đang nghiên cứu việc áp dụng
thuế xuất khẩu gạo.
Đã tăng
lượng dự trữ quốc gia ở mức cần thiết đối với lương thực và
một số mặt hàng thiết yếu. Yêu cầu Ủy ban nhân dân các cấp,
các cơ quan chức năng nắm chắc tình hình cung cầu và tổ chức
cung ứng lương thực kịp thời, không để xảy ra khan hiếm cục
bộ, đặc biệt là phải ngăn chặn bằng được tình trạng đầu cơ.
Quản lý
chặt chẽ việc thực hiện quy hoạch và kế hoạch khai thác, sử
dụng và xuất khẩu than; xử lý nghiêm các hành vi buôn lậu và
khai thác than trái phép; thực hiện tiết kiệm trong sử dụng
và giảm mạnh xuất khẩu than để bảo đảm an ninh năng lượng
trong nước cả trước mắt và lâu dài.
Chính phủ đã
giao nhiệm vụ cụ thể từng Bộ quản lý ngành phải tập trung
chỉ đạo và chịu trách nhiệm bảo đảm cung ứng đủ những mặt
hàng thiết yếu trong mọi tình huống với giá cả hợp lý.
Các Bộ cùng
các Hiệp hội ngành hàng và các doanh nghiệp kinh doanh các
mặt hàng thiết yếu, trước hết là các doanh nghiệp nhà nước
phối hợp thực hiện đồng bộ các biện pháp, đẩy mạnh sản xuất
kinh doanh, bảo đảm nguồn hàng và không để đầu cơ tăng giá.
Chính
phủ cũng yêu cầu và kêu gọi cộng đồng doanh nghiệp và mỗi
người dân tiết kiệm tối đa trong sản xuất, trong tiêu dùng
để góp phần cùng cả nước kiềm chế lạm phát.
Đồng
thời với các giải pháp về tài chính, tiền tệ, bảo đảm cân
đối cung cầu, cần tăng cường công tác quản lý thị trường và
kiểm soát việc chấp hành pháp luật về giá. Trước hết, phải
áp dụng các biện pháp kiểm soát, chống đầu cơ tích trữ và xử
lý kịp thời những trường hợp lợi dụng biến động trên thị
trường để nâng giá, nhất là các mặt hàng thiết yếu cho sản
xuất và đời sống.
Tăng
cường kiểm tra việc niêm yết giá và bán theo đúng giá niêm
yết. Xử phạt nghiêm, bao gồm cả việc truy thu hoặc buộc bồi
hoàn cho khách hàng đối với vi phạm quy định về giá, nhất là
các trường hợp tăng giá các mặt hàng thiết yếu. Khẩn trương
ban hành và triển khai thực hiện cơ chế doanh nghiệp sản
xuất, kinh doanh các mặt hàng thiết yếu cam kết giá bán ổn
định trong từng thời gian.
Trong
quá trình thực hiện chuyển sang giá thị trường, có thực
trạng là giá một số mặt hàng ở nước ta, do còn được bù giá
nên thấp hơn giá trên thị trường thế giới và khu vực[7], vì
vậy phải chú trọng thực hiện các biện pháp đủ mạnh để chống
buôn lậu, gian lận thương mại, đặc biệt là buôn lậu xăng
dầu, than và một số loại hàng hoá khác. Kiểm soát việc cung
ứng và giá bán các loại hàng hoá và dịch vụ độc quyền kinh
doanh.
Có
chính sách khuyến khích xây dựng và phát triển mạng lưới bán
buôn, bán lẻ để bảo đảm cung ứng hàng hoá với giá cả hợp lý,
nhất là hàng tiêu dùng thiết yếu và vùng có điều kiện kinh
tế - xã hội khó khăn.
Ủy ban
nhân dân các tỉnh, thành phố phải trực tiếp chịu trách nhiệm
chỉ đạo rà soát cân đối cung cầu các mặt hàng thiết yếu trên
địa bàn; tăng cường công tác chống đầu cơ, buôn lậu và kiểm
tra, kiểm soát giá cả thị trường; kịp thời xử lý những biến
động bất lợi của cung cầu và giá cả, nhất thiết không để xảy
ra thiếu hàng, sốt giá đối với các loại hàng thiết yếu. Phát
huy vai trò của các Hiệp hội ngành hàng, Hiệp hội người tiêu
dùng và cộng đồng dân cư trong việc giám sát, quản lý thị
trường, giá cả.
4. Thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội
Giá cả tăng
cao và thiên tai, dịch bệnh đang có những tác động mạnh,
trực tiếp đến đời sống và sinh hoạt của nhân dân, nhất là
người nghèo, người lao động có thu nhập thấp, đồng bào vùng
bị thiên tai, dịch bệnh.
Cùng
với việc tập trung chỉ đạo thực hiện đồng bộ các biện pháp
nhằm kiềm chế tăng giá đối với hàng hoá thiết yếu phục vụ
sinh hoạt và đời sống nhân dân, Chính phủ chủ trương đẩy
mạnh việc thực hiện có hiệu quả các chính sách an sinh xã
hội đã ban hành; đồng thời mở rộng thêm và thực hiện ngay
một số chính sách mới cấp bách.
Ngay từ đầu
năm, đã quy định tăng 20% mức lương tối thiểu cho người lao
động thuộc khối cơ quan nhà nước, lực lượng vũ trang, tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội; quy định về điều
chỉnh tăng mức lương tối thiểu của người lao động Việt Nam
làm việc cho tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài hoạt
động tại Việt Nam.
Riêng
đối với người lao động đã qua học nghề, mức lương tối thiểu
quy định cao hơn ít nhất 7% so với mức lương tối thiểu vùng;
điều chỉnh tăng lương 20% cho người hưởng lương hưu và người
hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội; điều chỉnh trợ cấp tăng lên
20% so với mức chuẩn hiện hành đối với người có công.
Đang chuẩn bị
các điều kiện cần thiết để điều chỉnh thích hợp lộ trình
tăng lương theo đề án cho cán bộ, công nhân viên khu vực
hành chính sự nghiệp, cán bộ, chiến sĩ các lực lượng vũ
trang và người lao động làm việc trong các doanh nghiệp.
Đã chỉ
đạo các Bộ, ngành, địa phương triển khai thực hiện chế độ
trợ cấp mới cho các đối tượng là người già, người tàn tật,
trẻ em có hoàn cảnh khó khăn; đồng thời nghiên cứu các điều
kiện để điều chỉnh chế độ trợ cấp xã hội vào những năm tới.
Tiếp tục xuất gạo dự trữ quốc gia để cấp không thu tiền cho
hộ đồng bào bị thiên tai, thiếu đói[8].
Đã quyết định
giữ ổn định mức thu học phí, viện phí và tiếp tục cho sinh
viên, học sinh đại học, cao đẳng, học nghề có hoàn cảnh khó
khăn được vay ưu đãi để học tập.
Hỗ trợ
tiền dầu thắp sáng cho các hộ đồng bào dân tộc thiểu số, hộ
thuộc diện chính sách và hộ nghèo ở những nơi chưa có điện
lưới; điều chỉnh tăng mức hỗ trợ mua bảo hiểm y tế cho người
nghèo và hỗ trợ giá thẻ bảo hiểm y tế đối với người cận
nghèo tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện; hỗ trợ ngư dân về
mua sắm, đóng mới, hiện đại hoá tàu thuyền, bảo hiểm thân
tàu và tai nạn cho thuyền viên; hỗ trợ về nhiên liệu trực
tiếp cho ngư dân[9].
Tiếp tục đẩy
mạnh việc thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, các
chương trình, dự án và các giải pháp, chính sách khác đã ban
hành để hỗ trợ phát triển sản xuất, ổn định đời sống đối với
người nghèo, vùng nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số khó khăn,
vùng bị thiên tai như: hỗ trợ về đất ở, nhà ở, đất sản xuất,
nước sinh hoạt, phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu, vay vốn,
hỗ trợ về y tế, giáo dục, việc làm, trợ giúp pháp lý, sắp
xếp ổn định dân cư, giao khoán rừng và cung cấp lương
thực...
Thực hiện tốt
các chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội đối với
các địa phương thuộc các vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền
Trung, Tây Nguyên, đồng bằng sông Cửu Long, trung du và miền
núi Bắc Bộ.
Để bảo
đảm việc thực hiện các chính sách an sinh xã hội đã ban
hành, Chính phủ đã yêu cầu các Bộ, ngành liên quan, Ủy ban
nhân dân các tỉnh, thành phố ưu tiên bố trí đủ nguồn vốn và
tăng dự trữ, dự phòng; đồng thời xây dựng cơ chế thực thi và
chỉ đạo kiểm tra chặt chẽ việc thực hiện, bảo đảm nguồn hỗ
trợ của Nhà nước kịp thời, đúng đối tượng, không để thất
thoát, lãng phí.
Đẩy nhanh
việc nghiên cứu hoàn thiện các chính sách hỗ trợ có tính
chất cơ bản, lâu dài về an sinh xã hội; triển khai thực hiện
bảo hiểm xã hội tự nguyện, chỉ đạo tổng kết việc thực hiện
chế độ hưu của nông dân ở một số địa phương để có thể chuyển
sang hình thức bảo hiểm xã hội tự nguyện; khẩn trương chuẩn
bị các điều kiện để thực hiện chính sách bảo hiểm thất
nghiệp.
Thí
điểm việc thực hiện thoả ước lao động ngành; tiến hành đồng
bộ các giải pháp để xây dựng quan hệ lao động lành mạnh bền
vững; khuyến khích doanh nghiệp hỗ trợ thiết thực cải thiện
đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động, nhất là ở
các khu công nghiệp tập trung.
Hoàn thiện cơ
chế chính sách để thực hiện chương trình quốc gia về nhà ở.
Đẩy mạnh Chương trình phát triển nhà ở xã hội để phục vụ nhu
cầu của các đối tượng có thu nhập thấp tại khu vực đô thị.
Phát triển nhà ở công vụ cho giáo viên.
Triển khai
Chương trình hỗ trợ về nhà ở cho hộ nghèo ở khu vực nông
thôn và miền núi. Tiếp tục thực hiện giai đoạn 2 Chương
trình xây dựng cụm tuyến dân cư và nhà ở vùng ngập lũ đồng
bằng sông Cửu Long. Xây dựng Chương trình phát triển cơ sở
hạ tầng và nhà ở vùng thường bị bão lũ miền Trung.
Sửa đổi
chính sách tín dụng ưu đãi của Nhà nước theo hướng chuyển
mạnh sang hỗ trợ các dự án thuộc lĩnh vực xã hội và hỗ trợ
trực tiếp cho các đối tượng thụ hưởng chính sách. Bổ sung
chính sách trợ giúp thích hợp để giảm nghèo bền vững ở 58
huyện khó khăn nhất của cả nước. Tiếp tục rà soát, cắt giảm
các loại phí thu từ nông dân. Nghiên cứu để có quy định mới
phù hợp về chuẩn hộ nghèo.
Khẩn
trương rà soát sửa đổi bổ sung để hoàn chỉnh các quy định
pháp luật về đất đai. Thực hiện tốt việc bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư, bảo đảm cuộc sống của người dân ngày càng tốt
hơn khi nhà nước thu hồi đất. Ủy ban nhân dân các cấp phải
đặc biệt quan tâm giải quyết các khiếu kiện của công dân
theo đúng pháp luật, phù hợp với tình hình thực tế của từng
địa phương, của từng vụ việc, bảo vệ lợi ích chính đáng của
người dân và không để khiếu kiện kéo dài.
Tập
trung làm tốt công tác phòng, chống dịch bệnh cho người,
nhất là dịch cúm A (H5N1), dịch tiêu chảy cấp và các dịch
bệnh nguy hiểm khác. Tuy dịch bệnh đã cơ bản được kiểm soát
nhưng vẫn tiềm ẩn nguy cơ tái bùng phát rất cao. Cần thực
hiện đồng bộ và có hiệu quả các biện pháp phòng, chống dịch
bệnh, không để dịch bệnh tái bùng phát và lây lan trên diện
rộng.
Theo
nhiều dự báo năm nay thiên tai có thể xảy ra nhiều hơn và
diễn biến phức tạp hơn. Trên cơ sở kinh nghiệm về phòng,
chống, khắc phục hậu quả thiên tai trong những năm gần đây,
Chính phủ đã yêu cầu các cơ quan chức năng, các địa phương
lập phương án cụ thể về phòng, chống thiên tai và tìm kiếm
cứu nạn, phấn đấu giảm đến mức thấp nhất thiệt hại về người
và tài sản của nhân dân.
III. TIẾP TỤC TẠO LẬP CÁC CƠ SỞ, CÁC TIỀN ĐỀ CHO SỰ
PHÁT TRIỂN NHANH VÀ BỀN VỮNG
Tình hình
hiện nay đòi hỏi chúng ta phải tập trung mọi nỗ lực để ưu
tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an
sinh xã hội. Khó khăn hiện nay là khó khăn trước mắt và là
khó khăn trong quá trình phát triển.
Sau hơn
20 năm đổi mới, thế và lực của đất nước đã lớn mạnh nhiều
hơn, tiềm năng tăng trưởng của nền kinh tế còn rất lớn và
nền kinh tế nước ta vẫn đang trong thời kỳ phát triển với
tốc độ khá cao. Việt Nam đã là thành viên của Tổ chức thương
mại thế giới, thị trường được mở rộng, đầu tư trong nước và
đầu tư nước ngoài tiếp tục tăng mạnh. Vì vậy, cùng với việc
thực hiện các nhiệm vụ cấp bách nêu trên, cần tiếp tục tạo
lập các cơ sở, các tiền đề cho sự phát triển nhanh và bền
vững trong những năm sau.
Trên cơ
sở thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ cơ bản mà Nghị quyết của
Quốc hội và của Chính phủ đã đề ra từ đầu năm, cần hướng
trọng tâm vào việc thực hiện Chương trình hành động của
Chính phủ nhằm thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư của
Ban Chấp hành Trung ương về một số chủ trương, chính sách
lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam
là thành viên của Tổ chức thương mại thế giới và Nghị quyết
Hội nghị lần thứ sáu của Ban Chấp hành Trung ương về tiếp
tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Trong đó cần kiên trì triển khai thực hiện có
hiệu quả các công việc sau đây:
Thứ nhất, khẩn trương hoàn thiện hệ thống
pháp luật, hình thành nhanh và đồng bộ thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục đẩy mạnh cải
cách hành chính, trọng tâm là thủ tục hành chính, bảo đảm
cho nhiệm vụ quan trọng và là khâu đột phá này có bước tiến
mới về chất, tạo ra chuẩn mực mới cho nền hành chính quốc
gia. Nâng cao vai trò và hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước
trong nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế
ngày càng sâu rộng.
Thứ hai, nâng cao chất lượng công tác quy
hoạch; chuyển mạnh việc xây dựng và thực hiện kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội theo hướng coi trọng hơn nữa các chỉ
tiêu chất lượng, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và phát triển
bền vững.
Thứ ba, đẩy nhanh việc xây dựng kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội thiết yếu, nhất là những công trình
giao thông quan trọng ở những vùng có dung lượng hàng hoá
lớn, có tính kết nối vận tải cao nhằm giải tỏa ách tắc, tăng
khả năng lưu thông hàng hoá, tiết kiệm chi phí vận tải, tăng
sức cạnh tranh của doanh nghiệp và của cả nền kinh tế.
Thứ tư, chú trọng phát triển nhanh nguồn
nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển, nhất là nguồn nhân lực
có chất lượng để thu hút mạnh các dự án đầu tư có trình độ
công nghệ cao, có giá trị gia tăng lớn, thúc đẩy chuyển dịch
nhanh cơ cấu kinh tế và cơ cấu hàng xuất khẩu.
Thứ năm, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho sự
phát triển của các loại hình doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế. Tiếp tục cải cách doanh nghiệp nhà nước, trọng
tâm là cổ phần hoá; sơ kết hoạt động của các tập đoàn kinh
tế và làm rõ hơn vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền
kinh tế thị trường; hoàn thiện thể chế luật pháp và cơ chế
quản lý để xây dựng các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty
nhà nước mạnh, hoạt động sản xuất kinh doanh bình đẳng, hiệu
quả trong cơ chế thị trường, góp phần quan trọng bảo đảm các
yêu cầu thiết yếu cho sự ổn định và phát triển của nền kinh
tế.
Thứ sáu, đồng thời với việc chuẩn bị Đề án
trình Ban Chấp hành Trung ương Đảng về chiến lược phát triển
bền vững nông nghiệp, nông thôn, nông dân, cần khẩn trương
xây dựng Chương trình mục tiêu quốc gia về đối phó với biến
đổi khí hậu toàn cầu và nước biển dâng để giảm thiểu tối đa
những hiểm họa có thể xảy ra, nhất là đối với sản xuất nông
nghiệp và đời sống nông dân.
Thứ bảy, tiếp tục hoàn thiện chính sách và
mở rộng mạng lưới an sinh xã hội nhằm hỗ trợ thiết thực
những đối tượng dễ bị tổn thương trong quá trình phát triển,
nhất là những người làm công ăn lương; thực hiện giảm nghèo
bền vững, bảo đảm cho người nghèo được thụ hưởng hợp lý
thành quả của sự tăng trưởng.
Thứ tám, tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh
chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm, gắn với
cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Chủ
tịch Hồ Chí Minh.
Thứ chín, tăng cường công tác đối ngoại và
quốc phòng, an ninh; giữ vững chủ quyền quốc gia và toàn vẹn
lãnh thổ; bảo đảm vững chắc an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội; tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho sự
phát triển bền vững của đất nước.
Thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Thưa đồng chí, đồng bào,
Kinh tế
thế giới đang còn diễn biến rất phức tạp và khó lường. Trong
quá trình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội,
chúng ta phải thường xuyên theo dõi tình hình, cập nhật đầy
đủ thông tin, bình tĩnh, thận trọng phân tích, dự báo để có
phản ứng chính sách kịp thời, chính xác nhằm hạn chế tối đa
những tác động tiêu cực do những khó khăn khách quan mới nẩy
sinh; mặt khác, phải nhanh nhạy tận dụng có hiệu quả những
thời cơ mới xuất hiện để phát huy tốt nhất tiềm năng phát
triển của đất nước.
Nhiệm
vụ đặt ra cho năm 2008 là rất nặng nề; những khó khăn, thách
thức, yếu kém trong quá trình phát triển và hội nhập có mặt
rất gay gắt; nhưng thời cơ, thuận lợi là rất lớn và rất cơ
bản. Cần làm tốt hơn nữa công tác thông tin, tuyên truyền,
xây dựng niềm tin, ý chí, tinh thần trách nhiệm cao trước
đất nước trong cả hệ thống chính trị, trong mỗi cán bộ đảng
viên và trong mỗi người dân, tạo sự đồng thuận cao và sức
mạnh tổng hợp của cả dân tộc, phát huy thuận lợi, vượt qua
khó khăn đưa nền kinh tế nước ta tiếp tục phát triển nhanh
và bền vững.
Nhận rõ
trách nhiệm trước đất nước, trước nhân dân, Chính phủ đã
nghiêm túc đánh giá thực trạng tình hình, khẩn trương xác
định và tổ chức hành động quyết liệt để thực hiện có kết quả
trên thực tế các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra.
Chính phủ rất mong có sự giám sát, phối hợp và ủng hộ của
Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân
và toàn thể đồng chí, đồng bào.
Dưới sự
lãnh đạo của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng và
với sự quyết tâm, chung sức, chung lòng của toàn Đảng, toàn
quân, toàn dân, chúng ta hoàn toàn tin tưởng sẽ kiềm chế
được lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội
và tăng trưởng bền vững; thực hiện thắng lợi nhiệm vụ kế
hoạch 5 năm 2006 - 2010 mà Đại hội toàn quốc lần thứ X của
Đảng đã đề ra.
Xin cám
ơn các vị đại biểu Quốc hội, đồng chí, đồng bào và các bạn.
****
[1] Có 4/23 chỉ tiêu chưa đạt kế hoạch là:
(1) Giá trị tăng thêm của ngành nông, lâm, ngư nghiệp tăng
3,4% (kế hoạch 3,5% -3,8%); (2) Tổng kim ngạch nhập khẩu
tăng 39,6% (kế hoạch 15,5%); (3) Giá tiêu dùng tăng 12,63%
(kế hoạch là thấp hơn tốc độ tăng GDP); (4) Tỷ lệ giảm sinh
đạt 0,25%o (kế hoạch là 0,3%o).
[2] Giá tiêu dùng quý IV năm 2007 tăng 5%.
Số liệu
báo cáo Quốc hội tại kỳ họp thứ 2: kim ngạch nhập khẩu năm
2007 ước đạt 57 tỷ đô la Mỹ, tăng 27%. Nhập siêu 9 tỷ đô la
Mỹ, tỷ lệ nhập siêu là 18,75%.
[3] Giá tiêu dùng tháng 1 tăng 2,38%; tháng
2 tăng 3,56%; tháng 3 tăng 2,99%; tháng 4 tăng 2,2%.
[4] Năm 2007, tổng phương tiện thanh toán
tăng 43,7%, tổng dư nợ tín dụng tăng 53,9%. Số liệu tương
ứng của các năm trước là: năm 2003: 23,9% và 28,8%; năm
2004: 20,6% và 27,2%; năm 2005: 24,4% và 20,6%; năm 2006:
29,7% và 24,8%.
[5] Kế hoạch đầu năm là 20 - 22%
[6] Theo dự báo từ cuối tháng 3/2008, với
mức giá dầu thô thế giới khoảng 100 đến 110 USD/thùng, Chính
phủ đã chỉ đạo ổn định giá bán xăng dầu trong nước đến hết
tháng 6 năm 2008 và dự kiến ngân sách sẽ phải bù lỗ khoảng
12.000 tỷ đồng cả năm, tương đương mức bù lỗ năm 2006. Nếu
giá dầu thô thế giới tăng trên mức 110 USD/thùng, để giữ
nguyên giá bán xăng dầu trong nước như hiện nay, thì ngân
sách sẽ phải bù lỗ lớn hơn và cũng rất khó có khả năng cân
đối.
[7] Hiện nay, giá than bán bình thường
trong nước chỉ bằng khoảng 70 - 80% giá than xuất khẩu.
Riêng giá than bán cho sản xuất xi măng, giấy, phân bón chỉ
bằng 80% giá bán bình thường trong nước và bằng dưới 50% giá
than xuất khẩu cùng loại. Giá than bán cho sản xuất điện
hiện nay chỉ bằng 65% giá thành sản xuất, bằng 55% giá bán
bình thường trong nước và bằng 45% giá than xuất khẩu cùng
loại.
Giá bán
lẻ xăng dầu trong nước bằng 80 - 90% giá khu vực.
[8] Năm 2007 và 4 tháng đầu năm 2008 đã
xuất gạo dự trữ quốc gia cấp không thu tiền cho hộ thiếu đói
và bị thiên tai khoảng 80.000 tấn, là số lượng cao nhất từ
trước đến nay.
[9]
Các chính sách hỗ trợ nêu trên được quy định cụ thể trong
Quyết định số 289/QĐ-TTg ngày 18 tháng 3 năm 2008 của Thủ
tướng Chính phủ. |