Thủ tướng
Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng
PHẤN
ĐẤU KIỀM CHẾ LẠM PHÁT, ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ,
BẢO
ĐẢM AN SINH XÃ HỘI VÀ TĂNG TRƯỞNG BỀN VỮNG
Nguyễn Tấn Dũng, Ủy viên Bộ Chính trị
Thủ
tướng Chính phủ
I
Đất nước ta bước vào thực
hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2008 trong bối
cảnh kinh tế thế giới có nhiều biến động phức tạp và rất khó
lường. Kinh tế Mỹ suy giảm nghiêm trọng: GDP quý IV năm 2007
chỉ tăng 0,6%, thấp hơn rất nhiều so với các quý trước đó.
Theo nhiều dự báo, kinh tế Mỹ cả năm 2008 chỉ tăng 1,5%.
Thậm chí, có những nhận định cho rằng, kinh tế Mỹ đã bước
vào giai đoạn suy thoái. Đồng Đôla Mỹ (USD) giảm giá so với
nhiều đồng tiền khác, giá cả của hầu hết các mặt hàng trên
thị trường thế giới tăng cao (1), sự suy giảm của kinh tế Mỹ,
nền kinh tế chiếm khoảng 25% tổng GDP toàn cầu và trên 15%
tổng giá trị nhập khẩu hàng hoá thế giới, đã tác động mạnh
và kéo theo sự suy giảm của nhiều nền kinh tế. Giá tăng cao
ở hầu hết các nước, kể cả ở các nước có nền kinh tế mạnh và
đã duy trì được mức giá thấp trong nhiều năm (2). Nhiều quốc
gia đã phải điều chỉnh giảm mục tiêu tăng trưởng từ 1 đến 2%
(3). Nếu kinh tế Mỹ rơi vào chu kỳ suy thoái, tình hình có
thể còn phức tạp hơn.
Đến nay, kinh tế nước ta đã
hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới, độ mở của nền
kinh tế là rất lớn với tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu tương
đương khoảng 160% GDP, trong đó, nhập khẩu gần 90% GDP, thì
những biến động bất lợi ngoài tầm dự đoán như vừa qua của
kinh tế toàn cầu và giá cả thị trường thế giới đã tác động
tiêu cực đến tăng trưởng và đến mặt bằng giá trong nước với
mức độ mạnh hơn nhiều so với trước đây và so với nhiều nước
khác.
Trong nước, hai năm 2006 -
2007, thiên tai, dịch bệnh gây thiệt hại rất nặng nề (thiệt
hại kinh tế khoảng 33.600 tỷ đồng) chưa được khắc phục thì
đầu năm nay, đợt rét đậm, rét hại lịch sử kéo dài ở miền Bắc
và Bắc Trung bộ đã gây tổn thất lớn về vật chất cho nhân dân
và tác động bất lợi đến sản xuất nông nghiệp (4).
Bối cảnh quốc tế, trong nước
nêu trên đã làm cho những yếu kém của nền kinh tế và trong
cơ cấu kinh tế của nước ta bộc lộ sâu sắc hơn trong điều
kiện hội nhập kinh tế quốc tế, tạo ra những thách thức gay
gắt cho việc quản lý và điều hành phát triển kinh tế. Trước
tình hình này, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cộng đồng
doanh nghiệp nước ta đã nỗ lực phấn đấu, phát huy mọi tiềm
năng lợi thế, đối phó và vượt qua những khó khăn thách thức,
giữ vững ổn định chính trị - xã hội, cải thiện môi trường
đầu tư kinh doanh, tạo ra những cơ sở để tăng trưởng cao
trong trung và dài hạn, đã duy trì được tốc độ tăng trưởng
GDP trong quý I đạt 7,4%. Đây là những cố gắng lớn của cả
nước.
Tuy nhiên, do những tác động
của kinh tế thế giới và những bất cập, yếu kém trong quản
lý, điều hành kết hợp với các nguyên nhân nội sinh từ nền
kinh tế đã làm cho tình hình kinh tế quý I năm 2008 có những
diễn biến bất lợi như: Lạm phát cao, giá tiêu dùng tháng 3
đã tăng 9,19% so với tháng 12 năm 2007; nhập khẩu tăng mạnh,
chênh lệch xuất - nhập khẩu lên tới hơn 7 tỷ USD và bằng
56,5% kim ngạch xuất khẩu. Tình hình đó đã ảnh hưởng tiêu
cực đến phát triển sản xuất và đời sống của các tầng lớp
nhân dân, nhất là những người làm công ăn lương và người
nghèo, đe doạ đến ổn định vĩ mô, tác động không thuận đến
môi trường đầu tư, kinh doanh.
II
Trong phiên họp thường kỳ
cuối tháng 3 năm 2008, qua thảo luận nghiêm túc và cân nhắc
thận trọng trên các mặt, Chính phủ đã thống nhất xác định
nhiệm vụ trọng tâm trong tình hình hiện nay là: Phấn đấu
kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã
hội và tăng trưởng bền vững. Trong đó, kiềm chế
lạm phát là mục tiêu ưu tiên hàng đầu. Bởi lẽ,
nếu không kiềm chế được lạm phát, chẳng những sẽ ảnh hưởng
đến phát triển sản xuất và đời sống của nhân dân, đến ổn
định kinh tế vĩ mô mà còn ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế
trong trung và dài hạn, việc làm cũng giảm sút, môi trường
đầu tư kinh doanh cũng sẽ trở nên xấu hơn. Nói kiềm chế lạm
phát là mục tiêu ưu tiên hàng đầu, có nghĩa là
không chạy theo chỉ tiêu tăng trưởng đã đặt ra từ cuối năm
2007 mà phải tập trung sức để kiềm chế bằng được lạm phát,
phấn đấu bảo đảm tốc độ tăng giá giảm dần.
Theo tinh thần đó, Chính phủ dự kiến sẽ trình Quốc hội xem
xét giảm chỉ tiêu tăng trưởng và điều chỉnh lại chỉ tiêu lạm
phát cho phù họp với tình hình thực tế. Sự điều chỉnh này là
cần thiết nhằm hướng các giải pháp vào mục tiêu ưu tiên hàng
đầu, bảo đảm tiền đề cho tăng trưởng cao và bền vững những
năm tiếp theo. Chính phủ đã và đang tập trung chỉ đạo điều
hành để thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm và mục tiêu ưu tiên
hàng đầu này.
Để đạt được những nhiệm vụ và
mục tiêu nêu trên, Chính phủ đã thống nhất chỉ đạo thực hiện
quyết liệt và đồng bộ các giải pháp chủ yếu sau đây:
Một là, thực hiện
chính sách tiền tệ thắt chặt. Cho dù do nhiều nguyên nhân,
nhưng lạm phát luôn có nguyên nhân tiền tệ. Mức cung tiền
trong lưu thông và dư nợ tín dụng tăng liên tục từ năm 2004
qua các năm và tăng cao trong năm 2007 là nguyên nhân quan
trọng gây lạm phát. Nhận thức được tình hình đó, Chính phủ
chủ trương kiểm soát chặt chẽ tổng phương tiện thanh toán và
tổng dư nợ tín dụng ngay từ đầu năm. Ngân hàng nhà nước,
thông qua việc chủ động, linh hoạt sử dụng hợp lý các công
cụ chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường để thực
hiện bằng được yêu cầu này. Điều cần nhấn mạnh là trong khi
kiên quyết thắt chặt tiền tệ, cần bảo đảm tính thanh khoản
của nền kinh tế và hoạt động của các ngân hàng, tổ chức tín
dụng, tạo điều kiện cho sản xuất hàng hoá và xuất khẩu phát
triển.
Hai là, cắt giảm đầu
tư công và chi phí thường xuyên của các cơ quan sử dụng ngân
sách, kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp nhà
nước, cố gắng giảm tỷ lệ thâm hụt ngân sách. Đầu tư từ nguồn
ngân sách nhà nước và đầu tư của doanh nghiệp nhà nước hiện
chiếm khoảng 45% tổng đầu tư xã hội. Cắt giảm nguồn đầu tư
này sẽ làm giảm áp lực về cầu, giảm nhập siêu, góp phần nâng
cao hiệu quả của nền kinh tế. Chính phủ sẽ quy định cụ thể
tỷ lệ vốn đầu tư và chi phí hành chính phải cắt giảm và yêu
cầu các Bộ, địa phương xác định các công trình kém hiệu quả,
các công trình chưa thực sự cần thiết để có sự điều chỉnh
thích hợp. Điều này sẽ được thực hiện một cách kiên quyết
ngay trong việc phân bổ lại và cân đối nguồn vốn. Cũng trên
tinh thần đó, Chính phủ yêu cầu các Bộ trưởng, Chủ tịch UBND
các tỉnh, thành phố với tư cách là đại diện chủ sở hữu nhà
nước, rà soát chặt chẽ các hạng mục đầu tư của doanh nghiệp
nhà nước, kiên quyết cắt bỏ các công trình đầu tư kém hiệu
quả. Đồng thời, tạo điều kiện và tập trung vốn cho những
công trình sắp hoàn thành, những công trình đầu tư sản xuất
hàng hoá thuộc mọi thành phần kinh tế đẩy nhanh tiến độ, sớm
đưa vào sản xuất.
Ba là, tập trung sức
phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, khắc phục
nhanh hậu quả của thời tiết và dịch bệnh để tăng sản lượng
lương thực, thực phẩm. Hiện nay, tiềm năng tăng trưởng của
nước ta còn rất lớn, nhất là khi Việt Nam đã là thành viên
đầy đủ của Tổ chức Thương mại thế giới, đầu tư nước ngoài và
đầu tư tư nhân tăng mạnh, thị trường xuất khẩu được mở rộng,
vì vậy, phát triển sản xuất là giải pháp gốc, tạo hiệu quả
nhiều mặt, vừa tăng nguồn cung cho thị trường trong nước và
xuất khẩu, góp phần kiềm chế lạm phát, giảm nhập siêu, vừa
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, lại không gây phản ứng phụ. Để
thực hiện yêu cầu này, Chính phủ đã giao nhiệm vụ cho các Bộ
trưởng, Chủ tịch UBND các tỉnh và thành phố chỉ đạo quyết
liệt, kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc về vốn, về
thị trường, về thủ tục hành chính, thúc đẩy sản xuất phát
triển.
Bốn là, bảo đảm cân
đối cung cầu về hàng hoá, đẩy mạnh xuất khẩu, giảm nhập
siêu. Cân đối cung cầu về hàng hoá, nhất là các mặt hàng
thiết yếu cho sản xuất và đời sống nhân dân là tiền đề quyết
định để không gây ra đột biến về giá, ngăn chặn đầu cơ. Thủ
tướng Chính phủ, các Bộ trưởng đã và sẽ tiếp tục làm việc
với các Hiệp hội ngành hàng, các doanh nghiệp kinh doanh các
mặt hàng thiết yếu, như: lương thực, thực phẩm, thuốc chữa
bệnh, xăng dầu, sắt thép, vật liệu xây dựng, phân bón...
giao nhiệm vụ cho các đơn vị này phải bảo đảm nguồn hàng,
đồng thời có trách nhiệm cùng Chính phủ kiềm giữ giá cả.
Trong khi kiên trì chủ trương
thực hiện cơ chế giá thị trường, xoá bỏ bao cấp qua giá,
nhưng trong tình hình hiện nay, mặc dầu giá thế giới tăng
cao, Chính phủ đã quyết định: từ nay cho đến hết tháng 6,
chưa tăng giá điện, giá than, giá xăng dầu; giữ ổn định giá
ximăng, phân bón, nước sạch, thuốc bệnh, vé máy bay, tàu
hoả; giao Bộ Tài chính rà soát để cắt, giảm các loại phí thu
từ nông dân...
Để bảo đảm nguồn cung trên
thị trường nội địa, giữ vững an ninh lương thực và kiềm chế
sự tăng giá quá mức của nhóm hàng này, Chính phủ quy định
lượng xuất khẩu gạo năm nay ở mức 4 triệu tấn và từ nay đến
hết quý 3 không quá 3,2 triệu tấn. Chính phủ cũng đã giao Bộ
Tài chính đề xuất phương án nâng thuế xuất khẩu than, dầu
thô và nghiên cứu khả năng áp dụng thuế xuất khẩu gạo.
Trong điều kiện đồng Đôla Mỹ
giảm giá so với đồng tiền các nước là thị trường xuất khẩu
lớn của nước ta, việc neo giữ quá lâu tỷ giá hối đoái giữa
đồng tiền Việt Nam và đồng Đôla Mỹ không phản ánh đúng quan
hệ thực trên thị trường ngoại tệ. Vì vậy, Chính phủ chủ
trương áp dụng tỷ giá linh hoạt với biên độ thích hợp, phản
ánh quan hệ cung cầu trên thị trường, giúp cho việc kiềm chế
lạm phát nhưng không ảnh hưởng lớn đến xuất khẩu, bảo đảm
việc mua bán, chuyển đổi ngoại tệ diễn ra thuận lợi.
Cán cân thương mại là một chỉ
tiêu vĩ mô rất quan trọng. Nhập siêu tăng trong năm 2007 và
tăng cao hơn trong quý 1 năm nay, đã đe doạ đến cân đối vĩ
mô, đòi hỏi phải áp dụng các biện pháp kiên quyết để hạn chế
tình trạng này trên cơ sở đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát nhập
khẩu. Để làm việc này, Chính phủ đang chỉ đạo quyết liệt
thực hiện nhiều giải pháp: Ngân hàng Nhà nước bảo đảm đủ vốn
và mua hết ngoại tệ cho các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu,
xử lý ngay các ách tắc về tín dụng xuất khẩu cho từng trường
hợp cụ thể; tăng cường hỗ trợ công tác xúc tiến thương mại
đối với hàng xuất khẩu; cải cách mạnh thủ tục hành chính
liên quan đến hoạt động xuất khẩu để giảm chi phí cho doanh
nghiệp, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng xuất
khẩu Việt Nam đi đôi với việc áp dụng các hàng rào kỹ thuật
và các biện pháp khác phù hợp với các cam kết quốc tế của
nước ta để giảm nhập siêu, kể cả việc tăng thuế nhập khẩu
những mặt hàng không thiết yếu.
Năm là, triệt để
tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng. Hiện nay, tình trạng
lãng phí trong sản xuất và tiêu dùng diễn ra khá phổ biến ở
các cơ quan, đơn vị. Tiềm năng tiết kiệm trong sản xuất và
tiêu dùng là rất lớn. Vì vậy, Chính phủ yêu cầu các cơ quan
nhà nước cắt giảm 10% chi tiêu hành chính, các doanh nghiệp
phải rà soát tất cả các khoản chi nhằm hạ giá thành và phí
lưu thông. Chính phủ kêu gọi mọi người, mọi nhà triệt để
tiết kiệm tiêu dùng, nhất là nhiên liệu, năng lượng. Đây là
giải pháp vừa có tác dụng giảm sức ép về cầu, giảm nhập
siêu, vừa góp phần nâng cao hiệu quả của cả nền sản xuất xã
hội.
Sáu là, tăng cường
công tác quản lý thị trường, kiểm soát việc chấp hành pháp
luật nhà nước về giá. Kiên quyết không để xảy ra tình trạng
lạm dụng các biến động trên thị trường để đầu cơ, nâng giá,
nhất là các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và tiêu dùng,
như: xăng dầu, sắt thép, xi măng, thuốc chữa bệnh, lương
thực, thực phẩm…; ngăn chặn tình trạng buôn lậu qua biên
giới, đặc biệt là buôn lậu xăng dầu, khoáng sản. Các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phải thường xuyên kiểm
tra giá bán tại các mạng lưới bán lẻ và các đại lý bán lẻ
của doanh nghiệp mình. Chính phủ đã chỉ đạo các Tổng công ty
nhà nước phải gương mẫu đi đầu trong việc thực hiện yêu cầu
này và chịu trách nhiệm trước Chính phủ về hoạt động của hệ
thống bán lẻ và đại lý bán lẻ của doanh nghiệp. Chính phủ
cũng yêu cầu các Hiệp hội ngành hàng tham gia tích cực, ủng
hộ các chủ trương và giải pháp bình ổn thị trường, giá cả.
Bảy là, mở rộng việc
thực hiện các chính sách về an sinh xã hội.
Trước tình hình giá cả tăng
cao, ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân, nhất là vùng
nghèo, hộ nghèo, vùng bị thiên tai, người lao động có thu
nhập thấp, Chính phủ đã chủ trương mở rộng các chính sách về
an sinh xã hội.
Chính phủ đã quyết định tăng
20% mức lương tối thiểu cho những người lao động thuộc khối
cơ quan nhà nước, lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị - xã hội từ ngày 01 tháng 01 năm 2008. Chính
phủ cũng quy định điều chỉnh mức lương tối thiểu theo hướng
tăng lên đối với lao động Việt Nam làm việc cho doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài, cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ
chức quốc tế và cá nhân người nước ngoài tại Việt Nam, lao
động làm việc ở công ty, doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp
tác, trang trại, hộ gia đình, cá nhân và các tổ chức khác
của Việt Nam có thuê mướn lao động. Riêng với người lao động
đã qua học nghề (kể cả lao động do doanh nghiệp tự dạy
nghề), mức lương tối thiểu quy định cao hơn ít nhất 7% so
với mức lương tối thiểu vùng. Ngoài ra, khoảng 1,8 triệu
người về hưu và người hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội đã được
tăng lương 20%, hơn 1,5 triệu người có công đã được điều
chỉnh trợ cấp lên 20% so với mức chuẩn hiện hành.
Mới đây, Thủ tướng Chính phủ
đã ban hành quyết định số 289/QĐ-TTg về một số chính sách hỗ
trợ đồng bào dân tộc thiểu số, hộ thuộc diện chính sách, hộ
nghèo, hộ cận nghèo và ngư dân. Theo đó, thực hiện cấp bằng
tiền tương đương 5 lít dầu hoả/năm (dầu thắp sáng) cho các
hộ là đồng bào dân tộc thiểu số, hộ thuộc diện chính sách và
hộ nghèo ở những nơi chưa có điện lưới; điều chỉnh mức hỗ
trợ mua bảo hiểm y tế cho người nghèo từ 80.000 đồng/người/năm
lên 130.000 đồng/người/năm; hỗ trợ 50% mệnh giá thẻ bảo hiểm
y tế đối với thành viên thuộc hộ cận nghèo tham gia bảo hiểm
y tế tự nguyện; hỗ trợ ngư dân mua mới, đóng mới tàu đánh
bắt hải sản, tàu cung ứng dịch vụ cho hoạt động khai thác
hải sản; hỗ trợ ngư dân để thay máy tàu sang loại máy mới
tiêu hao ít nhiên liệu hơn; hỗ trợ về kinh phí bảo hiểm thân
tàu cho tàu đánh bắt hải sản, tàu dịch vụ phục vụ hoạt động
khai thác hải sản và bảo hiểm tai nạn cho thuyền viên làm
việc theo hợp đồng lao động trên các tàu cá, tàu dịch vụ; hỗ
trợ về dầu cho ngư dân là chủ sở hữu tàu đánh bắt hải sản
hoặc tàu cung ứng dịch vụ cho hoạt động khai thác hải sản.
Chính phủ đã quyết định giữ
ổn định mức thu học phí, viện phí và tiếp tục cho sinh viên,
học sinh đại học, cao đẳng, học nghề có hoàn cảnh khó khăn
được vay ưu đãi để học tập. Tiếp tục xuất gạo dự trữ quốc
gia để cấp không thu tiền cho hộ đồng bào bị thiên tai,
thiếu đói (5). Đồng thời, tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện
các chương trình mục tiêu quốc gia, các giải pháp hỗ trợ
khác đối với các vùng khó khăn, vùng bị thiên tai. Điều quan
trọng cần chú ý là phải xây dựng cơ chế và kiểm tra việc
thực thi, bảo đảm nguồn hỗ trợ của Nhà nước đến đúng đối
tượng, không bị thất thoát, tham nhũng.
III
Chống lạm phát là một nhiệm
vụ phức tạp, đòi hỏi sự trả giá và đánh đổi. Để chống lạm
phát đạt kết quả, sự trả giá và đánh đổi là thấp nhất, nhất
thiết phải có sự phối hợp đồng bộ của các cơ quan quản lý
nhà nước, sự chấp hành và tổ chức, triển khai thực hiện
nghiêm túc của các cấp chính quyền. Hơn nữa, thị trường thế
giới đang biến động, phải theo dõi sát tình hình, cập nhật
đầy đủ thông tin để có các giải pháp phản ứng kịp thời,
chính xác, nhằm một mặt, hạn chế các tác động xấu do những
khó khăn khách quan mới nẩy sinh; mặt khác, tận dụng được
thời cơ mới xuất hiện để phát huy tiềm năng tăng trưởng của
đất nước, thúc đẩy kinh tế phát triển cao hơn khi điều kiện
thuận lợi.
Chính phủ nhận thức đầy đủ
trách nhiệm của mình trước toàn Đảng, toàn dân về kiềm chế
lạm phát. Nhưng, công cuộc này chỉ có thể đạt được kết quả
khi có sự ủng hộ và đồng tâm, hiệp lực của cả hệ thống chính
trị, của cộng đồng doanh nghiệp, của các cơ quan thông tin
đại chúng và của toàn thể nhân dân cả nước.
Nhiệm vụ đặt ra là rất nặng
nề, khó khăn thách thức trong quá trình phát triển đi lên có
mặt cũng rất gay gắt, nhưng thời cơ thuận lợi và tiềm năng
tăng trưởng của nền kinh tế nước ta còn rất lớn và rất cơ
bản. Chúng ta hoàn toàn tin tưởng rằng, dưới sự lãnh đạo của
Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng và với sự quyết
tâm, chung sức chung lòng của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân,
chúng ta sẽ kiềm chế được lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô,
bảo đảm an sinh xã hội và tiếp tục đưa nền kinh tế nước ta
phát triển bền vững, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ kế hoạch 5
năm 2006 - 2010 mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã đề ra.
(1) Giá dầu thô quý 1 năm
2008 tăng gần 40% so với giá bình quân năm 2007 và dự báo
tiếp tục ở mức cao như hiện nay. Thậm chí có dự báo cao hơn,
lên đến 150USD/ thùng. Giá phôi thép đầu năm 2008 đã tăng
45,1% so với cuối năm 2007, hiện giá chào đã lên đến 900USD/tấn.
Giá phân urê, giá bột mỳ, gạo tháng 3 năm 2008 đã tăng hơn
gấp đôi so với năm 2007.
(2) Giá tiêu dùng ở Trung
Quốc tháng 2 năm 2008 tăng 8,7% so với cùng kỳ, trong khi đó,
tháng 2 năm 2007 chỉ tăng 2,7% so với tháng 2 năm 2006. Thái
Lan tương ứng là 5,41% so với 2,32%; Philippin là 5,36% so
với 2,64%; Khu vực đồng Euro là 3,2% so với 1,84%.
(3) Năm 2008, nhiều quốc
gia đã phải thực hiện điều chỉnh giảm mục tiêu tăng trưởng
để đối phó với tình hình này: Mỹ 1,5% (năm trước là 2,7%);
Khu vực đồng tiền chung Châu Âu 1,6% (năm trước là 2,6%);
Nhật 1,5% (năm trước là 1,9%); Trung Quốc 8% (năm trước là
11,4%).
(4) Tính riêng trong đợt
rét đậm, rét hại đầu năm 2008, có khoảng 200 nghìn ha lúa,
18 nghìn ha mạ, 25 nghìn ha rau màu bị hỏng hoàn toàn, 180
nghìn trâu bò bị chết rét... Tổng thiệt hại ước tính khoảng
1.000 tỷ đồng.
(5) Năm 2007 và 3 tháng
đầu năm 2008 đã xuất gạo dự trữ quốc gia cấp không thu tiền
cho hộ thiếu đói và bị thiên tai gần 80.000 tấn.