I. Tình hình ĐTNN 10 tháng đầu năm 2008:
1. Tình hình vốn thực hiện và sản xuất-kinh doanh của doanh nghiệp:
Trong 10 tháng đầu năm 2008, ước các doanh nghiệp ĐTNN đã góp vốn đầu tư thực hiện đạt 9,1 tỷ USD, tăng 38,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó, bên Việt Nam chiếm từ 10-12%. Doanh thu của các doanh nghiệp ĐTNN trong 10 tháng đầu năm 2008 ước đạt 40,6 tỷ USD, tăng 29,6% so với cùng kỳ năm trước; trong đó giá trị xuất khẩu ước đạt 19,9 tỷ USD, tăng 25,3% so với cùng kỳ. Nhập khẩu ước đạt 23,8 tỷ USD, tăng 36,3% so với cùng kỳ năm trước, nộp ngân sách ước đạt 1,6 tỷ USD, tăng 28,2% so với cùng kỳ. Trong tháng 10 năm 2008, khối doanh nghiệp ĐTNN thu hút thêm khoảng 16.000 lao động, đưa tổng số lao động trong khu vực có vốn ĐTNN tính đến thời điểm này là 1,435 triệu lao động, tăng 15,5% so với cùng kỳ năm trước.
2. Cấp mới:
Trong tháng 10/2008, cả nước có 68 dự án được cấp Giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đầu tư đăng ký là 2,02 tỷ USD, đưa tổng số dự án cấp mới trong 10 tháng đầu năm 2008 lên 953 dự án với tổng vốn đầu tư đăng ký là 58,3 tỷ USD, bằng 83,3% về số dự án và tăng gần 6 lần về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước.
2.1. Về lĩnh vực đầu tư: Trong 10 tháng đầu năm 2008, vốn đăng ký mới tập trung chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng có 512 dự án với tổng vốn đăng ký 32,5 tỷ USD, chiếm 53,7% về số dự án và 55,7% về vốn đầu tư đăng ký; lĩnh vực dịch vụ có 400 dự án với tổng vốn đăng ký 25,5 tỷ USD, chiếm 42% về số dự án và 43,9% về vốn đầu tư đăng ký. Số còn lại thuộc lĩnh vực nông-lâm-ngư.
2.2. Về đối tác đầu tư: Trong 10 tháng đầu năm 2008 đã có 44 quốc gia và vùng lãnh thổ đăng ký đầu tư tại Việt Nam, trong đó có 11 quốc gia và vùng lãnh thổ đăng ký đầu tư vốn trên 1 tỷ USD. Malaysia đứng đầu với 40 dự án, vốn đăng ký 14,8 tỷ USD, chiếm 4,2% về số dự án và 25,5% về vốn đầu tư đăng ký. Đài Loan đứng thứ 2 có 122 dự án, vốn đầu tư 8,6 tỷ USD, chiếm 12,8% về số dự án và 14,8% về vốn đầu tư đăng ký. Nhật Bản đứng thứ 3 có 90 dự án , vốn đầu tư 7,2 tỷ USD, chiếm 9,4% về số dự án và 12,89% về vốn đầu tư đăng ký dự án. Brunei đứng thứ 4 có 15 dự án, vốn đầu tư 4,3 tỷ USD, chiếm 7,5% về vốn đầu tư đăng ký. Canada đứng thứ 5 có 7 dự án, vốn đầu tư 4,2 tỷ USD, chiếm 7,5% về vốn đầu tư đăng ký.
2.3. Về hình thức đầu tư: Các dự án ĐTNN trong 10 tháng đầu năm 2008 thực hiện chủ yếu theo hình thức 100% vốn nước ngoài (728 dự án, vốn đăng ký 29,9 tỷ USD), chiếm 76,4% về số dự án và 51,3% về vốn đăng ký. Số dự án theo Hình thức liên doanh có 168 dự án với vốn đăng ký 26,8 tỷ USD, chiếm 17,6% về số dự án và 46,1% về vốn đăng ký. Còn lại là các dự án theo hình thức khác.
2.4. Về cơ cấu vùng: trừ 7 dự án thăm dò, khai thác dầu khí (chiếm 18,1% tổng vốn đăng ký), trong 10 tháng đầu năm 2008 tỉnh Ninh Thuận đã vươn lên đứng đầu do có liên doanh sản xuất thép giữa tập đoàn Lion Malaysia với Vinashin tổng vốn đăng ký 9,79 tỷ USD, Bà Rịa-Vũng Tàu đứng thứ 2 trong số 43 địa phương của cả nước, có 4 dự án, tổng vốn đăng ký 9,3 tỷ USD, chiếm 16% tổng vốn đăng ký. Tiếp theo là Thành phố Hồ Chí Minh 8 tỷ USD, chiếm 13,7% tổng vốn đăng ký, Hà Tĩnh 7,8 tỷ USD, chiếm 13,5%. Thanh Hóa 6,2 tỷ USD, chiếm 10,6%; (5) Phú Yên 4,3 tỷ USD chiếm 7,5%; Kiên Giang 2,3 tỷ USD chiếm 5%; (7) Đồng Nai 1,78 tỷ USD chiếm 4%.
2.5. Quy mô dự án: đạt 61,1 triệu USD/dự án.
3.Tăng vốn đầu tư, mở rộng sản xuất:
Trong tháng 10 năm 2008 có 22 lượt dự án tăng vốn đầu tư với tổng vốn đầu tư là 169 triệu USD, đưa tổng dự án tăng vốn 10 tháng đầu năm 2008 là 247 lượt dự án với tổng vốn đầu tư đăng ký tăng thêm là 1,02 tỷ USD, bằng 76,3% về số lượt dự án tăng vốn và 52,7% tổng vốn tăng thêm so với cùng kỳ năm trước. Vốn đầu tư tăng thêm chủ yếu từ các nhà đầu tư Nhật Bản đứng đầu (265 triệu USD), chiếm 25,8% tổng vốn đầu tư tăng thêm; Hàn Quốc (201,6 triệu USD) chiếm 19,6%.
Tính chung cả vốn cấp mới và tăng thêm trong 10 tháng đầu năm 2008, cả nước đã thu hút được 59,31 tỷ USD vốn đầu tư đăng ký.
II. Nhận xét - kiến nghị:
2.1. Nhận xét:
- Trong bối cảnh nước ta chịu tác động tiêu cực của kinh tế toàn cầu dẫn tới chỉ số giá tiêu dùng tăng cao, mức nhập siêu lớn ... ảnh hưởng tới tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế và các mặt của đời sống xã hội, nhưng cộng đồng đầu tư quốc tế đánh giá cao các giải pháp và chính sách của Việt Nam trong kìm chế lạm phát giữ ổn định môi trường đầu tư-kinh doanh tại Việt Nam và coi Việt Nam là địa bàn đầu tư tin cậy.
- Các địa phương trong cả nước tích cực, chủ động trong thu hút và quản lý FDI bằng nhiều biện pháp theo hướng giảm thiểu thủ tục hành chính, hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho các dự án đầu tư đã được cấp phép nhanh chóng đi vào hoạt động kinh doanh hiệu quả, phát huy tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp. Chính vì vậy, nhiều dự án quy mô lớn khai trương, động thổ triển khai ngay sau khi được cấp Giấy chứng nhận đầu tư như dự án sản xuất gang thép Hưng nghiệp Formosa đầu tư 7,879 tỷ USD cấp phép và khởi công xây dựng trong tháng 7/2008, dự án xây dựng khu đô thị đại học Berjaya Leisure (Malaysia) do Công ty Berjaya Leisure đầu tư 3,5 tỷ USD tại thành phố Hồ Chí Minh,v.v...
- Chính phủ tiếp tục nỗ lực tạo môi trường đầu tư-kinh doanh hấp dẫn, cởi mở, minh bạch và thông thoáng hơn. Các Bộ, ngành và địa phương tích cực thực hiện các giải pháp chỉ đạo hữu hiệu của Thủ tướng Chính phủ về kìm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững bằng nhiều biện pháp. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã triển khai các đoàn công tác các địa phương thực hiện việc điều hành kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản và chi tiêu ngân sách năm 2008; các đoàn triển khai đề án thúc đẩy giải ngân vốn FDI. Công tác “hậu kiểm” được quan tâm thông qua việc kiểm tra đầu tư, quy hoạch sân golf ; rà soát tình hình giải ngân các dự án cấp giấy chứng nhận đầu tư.
- Đây là kết quả tổng hòa của mọi nỗ lực của các Bộ, ngành và địa phương trong hoạt động xúc tiến đầu tư, hỗ trợ các nhà đầu tư từ khi có ý định đầu tư đến khi hình thành dự án.
2.2. Kiến nghị:
Để hỗ trợ các dự án đã được cấp GCNĐT nhanh chóng đưa vốn thực hiện triển khai dự án, trong những tháng còn lại của năm 2008 và những năm tiếp theo cần tập trung vào một số nhóm giải pháp sau:
1. Về môi trường pháp lý:
- Tiếp tục hướng dẫn các cam kết về mở cửa thị trường cho các nhà ĐTNN trong lĩnh vực thương mại hàng hóa và thương mại dịch vụ theo đúng các cam kết của WTO. Công khai các văn bản pháp quy của các Bộ, ngành có liên quan về điều kiện đầu tư hoặc hành nghề của các doanh nghiệp nói chung để giúp các doanh nghiệp thực hiện đúng với các cam kết của Nhà nước ta.
- Điều chỉnh quy hoạch ngành cho phù hợp với các thỏa thuận và cam kết quốc tế trong quá trình hội nhập. Đặc biệt chú trọng công tác dự báo nhằm nâng cao chất lượng quy hoạch (quy hoạch phát triển ngành, sản phẩm, địa bàn...). Xoá bỏ quy định về việc yêu cầu các dự án đầu tư phải phù hợp với quy hoạch sản phẩm.
2. Về thủ tục hành chính:
- Tiếp tục tập trung hoàn thiện cơ chế ‘liên thông-một cửa’ ở các cơ quan cấp giấy chứng nhận đầu tư và quản lý đầu tư. Tăng cường năng lực quản lý ĐTNN của các cơ quan chức năng và cơ chế phối hợp, giám sát và kiểm tra hoạt động đầu tư; giải quyết kịp thời các thủ tục về đất đai, thuế, xuất nhập khẩu, hải quan,... Đồng thời, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ban hành các văn bản về quản lý ĐTNN trên địa bàn theo hướng minh bạch, rõ ràng về đầu mối, thời gian giải quyết hồ sơ, đầu mục hồ sơ cấp GCNĐT... từng bước công khai hoá các bước của quá trình cấp Giấy chứng nhận đầu tư lên mạng nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động ĐTNN, qua đó tăng thêm sức hấp dẫn của môi trường đầu tư Việt Nam.
3. Về quản lý nhà nước trong hoạt động ĐTNN:
- Tiếp tục huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước đầu tư nâng cấp các công trình giao thông, cảng biển, dịch vụ viễn thông, cung cấp điện nước, phấn đấu không để xảy ra tình trạng thiếu điện cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Rà soát/kiểm tra/điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất một cách hiệu quả, nhất là đối với các địa phương ven biển nhằm đảm bảo phát triển kinh tế và môi trường bền vững.
- Tập trung vào việc thực hiện các hoạt động giải ngân vốn ĐTNN đã được quy định tại Quyết định số 505/QĐ-BKH ngày 25/4/2008 của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư nhằm giảm khoảng cách giữa vốn đăng ký và vốn thực hiện : Phối hợp hỗ trợ, thúc đẩy nhanh việc giải ngân vốn đăng ký của các dự án đã được cấp GCNĐT, đặc biệt chú trọng thúc đẩy triển khai các dự án quy mô vốn đầu tư lớn được cấp GCNĐT trong năm 2006 và năm 2007 (tạo điều kiện thuận lợi về thủ tục hành chính, về giải phóng mặt bằng...). Hỗ trợ/giám sát các dự án đã/đang cấp GCNĐT triển khai đúng tiến độ đề ra.
- Ban hành chế độ báo cáo thống kê áp dụng cho các doanh nghiệp có vốn ĐTNN và bên hợp doanh nước ngoài thay thế Thông tư số 01/LB ngày 31/3/1997 để làm căn cứ cho các cơ quan quản lý ĐTNN địa phương và doanh nghiệp thực hiện. Triển khai thực hiện Quyết định số 305/2005/QĐ-TTg ngày 24/11/2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia của các doanh nghiệp ĐTNN.
- Phối hợp triển khai tốt việc xây dựng hệ thống quản lý thông tin ĐTNN theo Quyết định số 43/2008/QĐ-TTg ngày 24/3/2008 của Thủ tướng Chính phủ.
4. Về xúc tiến đầu tư:
- Triển khai Chương trình XTĐT quốc gia 2008 ban hành kèm theo Quyết định số 505/QĐ-BKH ngày 25/4/2008 của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư theo tiến độ và kinh phí được cấp.
- Tăng cường công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ làm công tác XTĐT nói riêng và quản lý đầu tư nói chung. Vận động và phối hợp với các tổ chức quốc tế hỗ trợ mở các lớp đào tạo về xúc tiến và quản lý ĐTNN.
- Tiếp tục kết hợp các hoạt động XTĐT với các chuyến thăm và làm việc tại các nước của lãnh đạo cấp cao Đảng, Quốc hội, Chính phủ nhằm quảng bá môi trường đầu tư Việt Nam. Phối hợp chặt chẽ và nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến đầu tư - thương mại - du lịch.
- Khẩn trương triển khai việc thành lập các bộ phận xúc tiến đầu tư tại các địa bàn trọng điểm theo kế hoạch.
- Tiếp tục bảo trì, nâng cấp trang thông tin website giới thiệu về ĐTNN (ngoài tiếng Anh bổ sung thêm tiếng Nhật).
5. Một số vấn đề khác:
- Tiếp tục xây dựng và thực hiện chương trình Sáng kiến chung Việt Nam-Nhật Bản giai đoạn III; Cơ chế hợp tác giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Việt Nam) và Cơ quan Phát triển kinh tế - EDB (Singapore) phù hợp với tình hình mới.
- Duy trì cơ chế đối thoại thường xuyên giữa lãnh đạo Chính phủ, các Bộ, ngành , địa phương với các nhà đầu tư, đặc biệt là các doanh nghiệp xử dụng nhiều lao động để xử lý kịp thời các khó khăn, vướng mắc của các dự án trong quá trình thực hiện chính sách và phát luật hiện hành, đảm bảo các dự án hoạt động đúng tiến độ và hiệu quả, nhằm tiếp tục củng cố lòng tin của các nhà đầu tư đối với môi trường đầu tu kinh doanh tại Việt Nam, tạo hiệu ứng lan tỏa và tác động tích cực tới nhà đầu tư mới.
- Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan nhà nước với các hiệp hội doanh nghiệp thông qua các hoạt động của Nhóm M&D, Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam bán /thường niên cũng như các hoạt động liên quan khác.