I. BỐI CẢNH TÁC ĐỘNG:
Trên thế giới: những tháng đầu Quý IV, nền kinh tế thế giới nói chung và châu á nói riêng tiếp tục có những chuyển biến tích cực. Tại châu Âu, theo số liệu của Cơ quan thống kê châu Âu (Eurostat), 2 nền kinh tế đầu tầu của khu vực sử dụng đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) đã có 2 quý tăng trưởng liên tiếp. Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, sự phục hồicủa 2 nền kinh tế trụ cột là nguyên nhân chính giúp nền kinh tế khu vực châu Âu thoát khỏi giai đoạn đáy suy thoái, thể hiện ở mức tăng trưởng chung toàn khu vực đạt 0,4% trong Quý III. Tuy nhiên, trái với những tín hiệu tích cực từ châu Âu, nền kinh tế Mỹ và Nhật đang tiếp tục phải đối mặt với những thách thức không nhỏ. Trong lúc các quốc gia đang thực hiện nhiều biện pháp quyết liệt nhằm hạn chế nguy cơ lạm phát tăng cao thì trái lại, nền kinh tế Nhật Bản đang chứng kiến xu thế giảm phát. Đây là nguy cơ tiêu cực, phản ánh sự thiếu sức sống của nền kinh tế đứng thứ 2 thế giới này.
Trong nước: cho đến nay, có thể nói nền kinh tế trong nước đã đạt được những tiến bộ tích cực. Sau khi vượt qua giai đoạn khó khăn nhất của suy thoái, nền kinh tế tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá. Cùng với những biện pháp kích thích kinh tế tổng thể, quyết liệt, hoạt động sản xuất, thương mại đã lấy lại đà tăng trưởng. Đặc biệt, việc các tỉnh, thành phố lớn phối hợp với các doanh nghiệp phân phối thực hiện đồng loạt nhiều hình thức khuyến mại, giảm giá đã và đang tạo động lực giúp cầu tiêu dùng những tháng cuối năm tăng trưởng mạnh mẽ. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đáng khích lệ đã đạt được, những khó khăn đặt ra đối với nền kinh tế nói chung và ngành thương mại nói riêng trong thời gian tới là rất lớn. Đặc biệt, trong bối cảnh nền kinh tế thế giới còn nhiều biến động khó lường, trong khi đó năng lực nội tại của các ngành sản xuất trong nước còn hạn chế, những khó khăn vẫn chưa được giải quyết về căn bản, điều này đòi hỏi công tác điều hành vĩ mô nền kinh tế cần tiếp tục được thắt chặt, đảm bảo phát hiện và tháo gỡ kịp thời những vấn đề nảy sinh, giúp nền kinh tế có được sự tăng trưởng ổn định.
II. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN THÁNG 11 VÀ 11 THÁNG NĂM 2009
1. Phát triển các ngành dịch vụ:
1.1. Các chỉ tiêu chính:
a. Tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng:
Tháng 11 chứng kiến sự tăng trưởng mạnh mẽ của thị trường trong nước. Cùng với những dấu hiệu ấm dần của nền kinh tế, cầu tiêu dùng trong nước đã có những phục hồi đáng kể. Thêm vào đó, việc triển khai thực hiện “Tháng khuyến mại, giảm giá” tại các tỉnh, thành phố lớn là liều thuốc đặc hiệu, giúp kích thích việc mua sắm của mọi tầng lớp dân cư. Mặc dù mới thực hiện được nửa thời gian, song kết quả đạt được cho đến nay là rất đáng khích lệ.
Tổng mức bán lẻ tháng 11 dự kiến đạt khoảng 111.470 tỷ đồng, tăng 5,7% so với tháng trước. Đây là mức tăng trưởng kỷ lục kể từ đầu năm đến nay. Tính lũy kế sau 11 tháng, tổng mức bán lẻ trên cả nước ước đạt 1.069.744 tỷ đồng, tăng 18% so với cùng kỳ năm 2008.
Các lĩnh vực có tốc độ tăng trưởng cao, chiếm tỷ trọng lớn trong sự tăng trưởng chung vẫn là thương mại, khách sạn, nhà hàng và du lịch.
Xét theo cơ cấu thành phần kinh tế: kinh tế cá thể tiếp tục đóng vai trò chủ đạo với tỷ trọng lớn nhất (56,5%), tiếp đến là kinh tế tư nhân (30,7%), kinh thế nhà nước (9,2%), kinh tế tập thể (1%), kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (2,6%)
(Số liệu dự báo của Vụ Kinh tế dịch vụ)
b.Chỉ số giá tiêu dùng:
Kể từ giữa năm trở lại đây, tình hình giá cả các hàng hóa trên thị trường thế giới diễn biến khó lường, đặc biệt là giá dầu thô. Sự hồi phục của nền kinh tế thế giới cùng với sự tăng nhanh của nhu cầu tiêu thụ là nguyên nhân giúp dầu vững giá và có xu hướng tăng lên. Theo đánh giá của IEA, do sự tăng trưởng nhanh của kinh tế châu Á, nhu cầu dầu thế giới dự báo sẽ tăng lên với mức khoảng 170.000 thùng/ngày trong Quý IV và 1,1 triệu thùng/ngày trong năm 2010. Nếu tiếp tục xu hướng này, nhiều khả năng thế giới sẽ đứng trước nguy cơ khan hiếm nguồn cung, dẫn đến tăng giá.
Trong khi đó, tại thị trường trong nước, với sự hồi phục của nền kinh tế, hoạt động thương mại những tháng vừa qua tiếp tục tăng trưởng tích cực. Việc thực hiện các chương trình khuyến mại, giảm giá trong “Tháng khuyến mại” đã đạt những kết quả bước đầu với sự tăng nhanh của lượng tiêu thụ sản phẩm trên thị trường. Do lượng cầu tăng cao đã có những tác động khiến giá cả nhiều loại hàng hóa trên thị trường có xu hướng tăng, phản ánh đúng những diễn biến tích cực của thị trường và nền kinh tế, song vẫn nằm trong tầm kiểm soát.
Dự báo chỉ số giá (CPI) tháng 11 tăng 0,55%, đưa chỉ số số giá tiêu dùng từ đầu năm đến nay tăng lên mức 5,07% so với tháng 12/2008 và tăng 6,91% so với cùng kỳ năm 2008.
Những nhóm hàng có chỉ số giá tăng nhiều nhất là phương tiện đi lại, nhà ở, vật liệu xây dựng, thực phẩm, đồ uống và thuốc lá.
Với những diễn biến như hiện nay, nhiều khả năng chỉ số giá tiêu dùng sẽ tiếp tục tăng khá trong những tháng cuối năm 2009 và đầu năm 2010. Với những diễn biến khó dự báo của thị trường thế giới, đặc biệt là giá dầu, đòi hỏi Chính phủ tiếp tục phải có những điều hành kịp thời, hợp lý, đảm bảo kiềm chế giá hiệu quả, góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng bền vững của nền kinh tế.
(Số liệu Tổng cục Thống kê)
1.2. Tình hình phát triển ngành du lịch:
Trong tháng 11 đã diễn ra hai sự kiện văn hoá quốc tế quan trọng tại Việt Nam là Đại hội Thể thao Châu Á trong nhà lần thứ 3 và Hoa hậu Quý bà thế giới. Hai sự kiện này đã góp phần thúc đẩy hoạt động du lịch khởi sắc hơn trong tháng 11. Tại Bà Rịa, Vũng Tàu tàu du lịch Diamond Princess đã cập cảng PTSC huyện Tân Thành mang theo 2.648 khách du lịch quốc tế đến từ các nước Mỹ, Canada, Anh, Đức, Nga,…và hơn 1.000 thuỷ thủ đoàn. Bên cạnh việc đón khách Trung Quốc bằng giấy thông hành được mở trở lại từ tháng 4 đến nay cũng là một tín hiệu tích cực trong bối cảnh ảnh hưởng của suy thoái kinh tế và dịch bệnh trong nhiều tháng qua.
Công tác xúc tiến du lịch nhằm quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới trong những tháng qua tiếp tục được triển khai tích cực. Ngày 8/11/2009 tại Saint Peterburg, chi hội người Việt Nam tại Nga, Chi hội lưu học sinh và chi hội hữu nghịNga - Việt đã phối hợp tổ chức ngày “Văn hoá Việt Nam” với sự tham dự của gần 1.000 người Nga và người Việt đang sinh sống tại đất nước này. Đặc biệt, trong tháng 1/2010, Việt Nam sẽ quảng bá du lịch trên kênh truyền hình Pháp TV5 - kênh truyền hình truyền hình có uy tín lớn trong cộng đồng Pháp ngữ.
Một sự kiện đặc biệt khác là 3 khu nghỉ mát của Việt Nam vừa được tạp chí du lịch Conde Nast Traveler bình chọn vào danh sách 25 khu nghỉ mát tốt nhất ở khu vực châu Á. Đây là một kết quả tốt khẳng định chất lượng dịch vụ của Việt Nam đang ngày càng phát triển.
Với những hoạt động du lịch trên đã góp phần thúc đẩy lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam.
Lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam trong tháng 11 ước đạt 387.871 lượt khách, tăng 70,2% sovới tháng trước và bằng 138,6 % so với cùng kỳ năm ngoái. Tổng số khách du lịch quốc tế trong 11 tháng ước đạt trên 3,4 triệu lượt khách, giảm 12,3 % so cùng kỳ năm trước. Khách du lịch quốc đến Việt Nam trong tháng 11 chủ yếu từ một số thị trường như: Mỹ 187,2%, Đài Loan 173,6%, Úc 160,4 %, Pháp 240,3%, Canada 224,9%, Trung Quốc 118,7% so với tháng trước.
Xét theo phương tiện đi lại, số lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam trong tháng 11 chủ yếu vẫn bằng đường hàng không đạt 307.871 lượt khách, bằng 195% so với tháng trước, khách du lịch đi bằng đường bộ đạt 76.000 lượt bằng 113,4%, khách du lịch đi bằng đường biển ước đạt 4.000 lượt bằng 133,3% so với tháng trước.
Xét theo mục đích chuyến đi, số lượng khách du lịch đi theo mục đích nghỉ ngơi, du lịch tăng 73,5% so với tháng trước, khách du lịch đi theo mục đích công việc tăng 56,1% so với tháng trước, khách du lịch đi theo mục đích thăm thân nhân tăng 81,9% và theo mục đích khác tăng 84,5%.
2. Xuất, nhập khẩu hàng hoá:
2.1. Xuất khẩu
Ước thực hiện xuất khẩu tháng 11 năm 2009 đạt 4,8 tỷ USD, giảm 4,5% so với tháng trước; trong đó, xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) ước đạt 2,25 tỷ USD.
11 tháng đầu năm 2009, tổng kim ngạch xuất khẩu ước đạt khoảng 51,4 tỷ USD, giảm 11,4% so với cùng kỳ năm ngoái, trong đó xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) ước đạt 21,25 tỷ USD, giảm 3,7%.
Xuất khẩu của một số mặt hàng chủ yếu so với cùng kỳ năm trước: dầu thô ước đạt 12,67 triệu tấn, tăng 3,1% về lượng nhưng giảm 41,7% về kim ngạch; dệt may 8,17 tỷ USD, giảm 1,3% so với cùng kỳ; giày dép 3,57 tỷ USD, giảm 15,9%; gỗ và sản phẩm gỗ 2,3 tỷ USD, giảm 11,1%; linh kiện điện tử 2,5 tỷ USD, tăng 1%; thuỷ sản 3,93 tỷ USD, giảm 6,1%; gạo 5,7 triệu tấn, tăng khoảng 32% về lượng nhưng giảm 6,5% về kim ngạch; dây điện và cáp điện 773 triệu USD, giảm 17,8%; cao su 637 nghìn tấn, tăng 8,7% về lượng nhưng giảm 32,35% về giá trị....
Ảnh hưởng bởi khủng hoảng kinh tế-tài chính thế giới, giá bình quân đa số các mặt hàng đều giảm so với 11 tháng đầu năm 2008. Cụ thể: giá dầu thô giảm 43,5%, giá than đá giảm 25,35%, giá cà phê giảm 28,4%, giá hạt điều giảm 15,65%, giá hạt tiêu giảm 26,5%, giá gạo giảm 29,4%, giá cao su giảm 37,8%... Tính riêng do giảm giá các mặt hàng này, kim ngạch xuất khẩu giảm 7,4 tỷ USD.
Trong 11 tháng đầu năm, Hoa Kỳ tiếp tục là đối tác nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với trên 10 tỷ USD, chiếm khoảng 20% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam và giảm gần 7% so với cùng kỳ năm trước (riêng mặt hàng dầu thô giảm hơn 500 triệu USD). Tiếp theo là EU, kim ngạch nhập khẩu từ Việt Nam đạt hơn 8 tỷ USD, giảm khoảng 15% (tức khoảng gần 1,4 tỷ USD, chủ yếu là giày dép, đồ gỗ); và ASEAN gần 8 tỷ USD, giảm hơn 20% (tức kim ngạch giảm hơn 2 tỷ USD, bao gồm các mặt hàng như dầu thô, sắt thép, gạo, cà phê, máy vi tính và linh kiện…)
2.2. Nhập khẩu
Kim ngạch nhập khẩu tháng 11 năm 2009 ước đạt 6,55 tỷ USD, giảm 1,13% so với tháng trước. Nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt khoảng 2,45 tỷ USD.
11 tháng đầu năm 2009, tổng kim ngạch nhập khẩu ước đạt 61,6 tỷ USD, giảm 17,92% so với cùng kỳ năm trước, trong đó kim ngạch nhập khẩu của doanh nghiệp đầu tư nước ngoài ước đạt 22,4 tỷ USD, giảm 13,2%.
Tình hình nhập khẩu một số mặt hàng chủ yếu 11 tháng đầu năm 2009 so với cùng kỳ năm ngoái: xăng dầu 11,86 triệu tấn (tăng 0,62% về lượng và giảm 45,3% về kim ngạch), phân bón 3,9 triệu tấn (tăng 35,2% về lượng và giảm 14,9% về kim ngạch), sắt thép 9 triệu tấn (giảm 16,25% về lượng và giảm 24,4% về kim ngạch), bông 278 nghìn tấn (tăng 4,5% về lượng và 15,34% về kim ngạch), máy móc thiết bị dụng cụ phụ tùng (giảm 10,3%), vải (giảm 6,9%), gỗ và nguyên phụ liệu gỗ (giảm 21,92%), sản phẩm hóa chất (giảm 6,63%), nguyên phụ liệu dệt may da (giảm 20,81%)...
Hết tháng 11/2009, trong 10 đối tác cung cấp hàng hóa lớn nhất cho Việt Nam thì có tới 6 đối tác có mức kim ngạch giảm mạnh hơn so với mức giảm kim ngạch nhập khẩu của cả nước. Đài Loan là đối tác có mức giảm mạnh nhất về tuyệt đối, khoảng trên 2,5 tỷ USD còn Singapore là đối tác có mức giảm mạnh nhất về tương đối, khoảng 40% (tức khoảng hơn 2 tỷ USD). Kim ngạch xuất khẩu của các quốc gia này vào Việt Nam giảm chủ yếu là do sự sụt giảm kim ngạch của mặt hàng xăng dầu. Trung Quốc tiếp tục là đối tác cung cấp hàng hóa lớn nhất cho Việt Nam với trị giá khoảng trên 14 tỷ USD, giảm hơn 2 tỷ USD so với cùng kỳ năm ngoái (chủ yếu là mặt hàng sắt thép).
11 tháng đầu năm, tổng nhập siêu lên tới 10,2 tỷ USD, chiếm 19,84% tổng kim ngạch xuất khẩu.
3. Phát triển thị trường trong nước:
3.1. Đánh giá chung:
Tháng 11, thị trường thế giới và trong nước chứng kiến những biến động trái chiều, phức tạp. Tại thị trường châu Âu, sự hồi phục tích cực của các nền kinh tế lớn là động lực giúp thị trường có những tăng trưởng đáng khích lệ, đặc biệt trong Quý III và đầu Quý IV. Trái lại, thị trường Nhật Bản tiếp tục trong bầu không khí trầm lắng, nhu cầu tiêu dùng trên thị trường chưa có những cải thiện đáng kể.
Trong số các mặt hàng trọng yếu, thị trường dầu mỏ tiếp tục chứng kiến những biến động. Việc dầu vững giá như hiện nay được đánh giá là tín hiệu tốt, phản ánh sự hồi phục của nền kinh tế thế giới, tuy nhiên, cần nghiên cứu những biện pháp trung và dài hạn nhằm đối phó với nguy cơ thiếu nguồn cung được dự báo là có khả năng xảy ra trong một vài năm tới.
Trong nước, thị trường hàng hóa tiếp tục diễn biến khá sôi động. Giá một số mặt hàng phụ thuộc nguyên liệu nhập khẩu như xăng dầu, sắt thép có xu hướng tăng do tác động của giá thế giới. Tuy nhiên những điều chỉnh này vẫn nằm trong tầm kiểm soát và không gây những ảnh hưởng lớn tới mặt bằng giá các hàng hóa và dịch vụ khác trên thị trường.
Trong khi đó, trên thị trường tài chính, giá vàng tiếp tục tăng mạnh. Tuy nhiên bên cạnh nguyên nhân do sự tăng giá vàng trên thị trường thế giới, yếu tố tâm lý và sự đầu cơ cũng là tác nhân khiến thị trường này biến động phức tạp trong thời gian qua.
3.2. Kết quả thực hiện của một số ngành hàng trọng yếu:
a. Xăng dầu:
Giá dầu thô thế giới tháng 11 có nhiều biến động tuy nhiên vẫn giữ ở mức giá bình quân thấp hơn tháng 10. Tính đến ngày 23/11 tại Singapore, giá dầu thô ngọt nhẹ của Mỹ giao tháng 1/2010 tăng lên 78,41 USD/thùng và giá dầu Brent Biển bắc giao cùng kỳ hạn tăng 98 Uscent lên 78,18 USD/thùng. Tại thị trường giao dịch New York, giá dầu thô ngọt của Mỹ giao tháng 1/2010 đóng cửa ở mức 77,56 USD/thùng, tại thị trường giao dịch London, giá dầu Brent Biển Bắc giao tháng 1/2010 cũng tăng lên mức 77,46 USD/thùng, và được giao dịch từ 77,12 – 79,58 USD/thùng. Theo các chuyên gia phân tích,giá dầu thô sẽ biến động trên biên độ 70-80 USD/thùng từ nay cho đến hết năm.
Về công tác điều hành thị trường xăng dầu trong nước, hiện nay Bộ Tài Chính đang xây dựng Dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính Phủ về việc ban hành quy chế quản lý Xăng dầu dự trữ nhà nước (bao gồm xăng dùng cho các loại động cơ, dầu diesel, nhiên liệu dùng cho máy bay dân dụng nhiên liệu dùng cho máy bay quân sự..)
Theo thông tin từ Tập đoàn dầu khí quốc gia Việt Nam (PVN), tính đến 17/11/2009, nhà máy lọc dầu Dung Quất đã nhập 18 chuyến dầu thô với tổng khối lượng 1.447.830 tấn và sản xuất được tổng cộng 935.938 tấn sản phẩm. Trong đó có 82.952 tấn LPG, 6.944 tấn Propylen, 45.256 tấn xăng A95, 382.117 tấn xăng A92, 58.724 tấn dầu hỏa, 337.288 tấn dầu diesel, 22.657 tấn dầu đốt. Trên cơ sở đó, Dung Quất đã thực hiện bán được 803.387 tấn sản phẩm các loại ra thị trường.
Lượng xăng dầu nhập khẩu tháng 11 ước thực hiện đạt 900 nghìn tấn, bằng 94% so với tháng trước, lũy kế đạt 98% kế hoạch năn 2009; Xuất khẩu tháng 11 ước thực hiện đạt 675 nghìn tấn, bằng 60% so với lượng xuất khẩu tháng 10, lũy kế từ đầu năm đến nay đạt trên 103% kế hoạch xuất khẩu năm 2009.
b. Sắt thép:
Mặc dù nhu cầu về thép tăng nhanh do những chuyển biến tích cực của nền kinh tế, song do nguồn cung đảm bảo, đặc biệt là từ các quốc gia sản xuất lớn như Trung Quốc, Nga, Ukraina đã khiến giá thép trên thị trường thế giới được giữ ổn định. Hiện giá chào phôi thép trên thế giới dao động ở mức 390 – 400USD/tấn FOB Biển Đen và 475 – 490USD/tấn CFR Đông Nam Á
Trong nước:
Dự kiến lượng thép sản xuất trong tháng 11 đạt 390.000 tấn, tăng gần 6% so với tháng 10. Lũy kế sau 11 tháng, tổng lượng thép sản xuất trong nước ước đạt 3,717 triệu tấn, tăng khoảng 22% so với cùng kỳ năm 2008.
Do yêu cầu về hoàn thành các công trình xây dựng cuối năm, nhu cầu về thép xây dựng hiện nay đang có xu hướng tăng. Dự kiến lượng thép tiêu thụtháng 11 ước đạt 360.000 tấn, tăng khoảng 9% so với tháng 10, đưa tổng lượng tiêu thụ thép sau 11 tháng đạt khoảng 3,689 triệu tấn, tăng khoảng 30% so với cùng kỳ năm 2008.
Về giá cả: Do nhu cầu thép tăng nhanh, giá bán tại các thị trường đang có xu hướng tăng. Hiện giá bán thép dao động ở mức 11,3 – 11,7 triệu đồng/tấn (Phía Bắc) và 11,5 – 11,9 triệu đồng/tấn (Phía Nam). Dự kiến giá thép sẽ tiếp tục tăng nhẹ đến đầu Quý I/2010.
c. Xi măng:
Tháng 11/2009, nhu cầu tiêu thụ xi măng bắt đầu tăng trở lại, ước đạt 3,6 triệu tấn, tăng 0,4 triệu tấn so với tháng 10. Giá bán xi măng trên thị trường tăng nhẹ do chịu ảnh hưởng của giá than tăng, ở phía Bắc ở mức 900.000-1.150.000 đồng/tấn, ở phía Nam từ 1.090.000-1.400.000 đồng/tấn.
Tháng còn lại của năm, dự báo nhu cầu tiêu thụ xi măng tiếp tục tăng trước yêu cầu đẩy nhanh tiến độ hoàn thành các dự án. Tuy nhiên, do nguồn cung dồi dào nên khả năng giá bán xi măng tiếp tục ổn định.
Dự báo trong năm 2010, khi nhiều nhà máy mới đi vào hoạt động, thị trường xi măng sẽ đứng trước nguy cơ cung vượt cầu. Do đó, đề nghị các đơn vị liên quan nghiên cứu việc chủ động chuẩn bị tìm thị trường xuất khẩu cho mặt hàng này.
d. Phân bón:
Tháng 11/2009, giá chào phân bón trên thị trường thế giới tăng nhẹ so với tháng 10, ở mức 240-250 USD/tấn FOB, nguồn cung dồi dào. Trong nước, do nhu cầu tiêu thụ thấp, tồn kho còn nhiều nên giá bán lẻ urê giảm nhẹ, urê nhập khẩu phổ biến ở mức 6.100-6.300 đồng/kg, giá bán lẻ urê Phú Mỹ phổ biến ở mức 5.900-6.000 đồng/kg.Tháng 11/2009, lượng phân urê nhập khẩu ước đạt 85 nghìn tấn, bằng 83,33% so với tháng 10. Tính chung 11 tháng, lượng nhập khẩu đạt 1.271 nghìn tấn, tăng 80% so với cùng kỳ năm trước.
Dự báo thời gian tới, cùng với việc bỏ hạn ngạch xuất khẩu phân bón, Trung Quốc tăng thuế xuất khẩu trở lại, nhu cầu tiêu thụ trong nước bắt đầu tăng sẽ nâng đỡ giá phân bón, tuy nhiên do nguồn cung dồi dào và sự ổn định của giá thế giới nên giá phân bón trong nước sẽ ổn định hoặc tăng nhẹ.
III. KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP ĐIỀU HÀNH NHỮNG THÁNG CUỐI NĂM
1. Về phát triển ngành du lịch
- Đẩy mạnh quảng bá tại các thị trường chính, tích cực chuẩn bị các sự kiện du lịch có liên quan đến sự kiến 1000 năm Thăng Long - Hà Nội.
- Đẩy nhanh tiến độ hoàn thành các điểm du lịch có quy mô vừa và nhỏ nhằm sớm đưa vào khai thác, hoạt động.
- Khuyến khích phát triển các sản phẩm du lịch mới, đa dạng, khai thác tiềm năng, đặc thù của từng vùng, miền. Tập trung hỗ trợ, phát triển hạ tầng du lịch cấp tỉnh.
- Tăng cường phối hợp giữa trung ương và địa phương trong hợp tác quốc tế, xúc tiến quảng bá du lịch Việt Nam trên các phương tiện truyền thông quốc tế nhằm cạnh tranh với các nước khác trong khu vực.
2. Về xuất, nhập khẩu hàng hóa:
Đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến và quảng bá thương hiệu Việt Nam tại các nước mà hàng Việt Nam đã thâm nhập được vào thị trường để củng cố vị trí sản phẩm, củng cố thương hiệu, từ đó phát triển bền vững sang các thị trường khác. Các cơ quan xúc tiến thương mại cần hoạt động hiệu quả hơn, trợ giúp các doanh nghiệp một cách thiết thực hơn bằng cách gửi thông tin miễn phí hằng tuần, hằng tháng về các nghiên cứu, đặc thù của từng thị trường, các thông tin về hội chợ, triển lãm... đến các doanh nghiệp hoặc có những hình thức hỗ trợ thực sự hiệu quả khác.
Giảm chi phí kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ. Đánh giá lại khả năng cung cấp dịch vụ và mức giá dịch vụ để có hướng giảm bớt chi phí sản xuất nhằm tạo môi trường thuận lợi và giảm chi phí đầu vào, chi phí trung gian cho doanh nghiệp, trước hết là giảm giá các hàng hóa và dịch vụ công có tác động làm tăng chi phí sản xuất của hàng hóa và dịch vụ như giá điện, nước, bưu chính viễn thông, năng lượng, cước phí vận tải, phí dịch vụ bến cảng, sân bay, dịch vụ hành chính.
Hoàn thiện và xây dựng hệ thống tiêu chuẩn đối với hàng nhập khẩu, sử dụng các tiêu chuẩn về môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm, các tiêu chuẩn ISO để hạn chế nhập khẩu công nghệ lạc hậu, công nghệ cũ, hàng hóa không sạch. Cần tăng cường bảo hộ nhập khẩu hàng hóa theo tiêu chuẩn và kỹ thuật (được WTO thừa nhận) nhằm hạn chế máy móc thiết bị cũ kỹ, lạc hậu, có tác động không nhỏ đến hiệu quả vay nợ nước ngoài và tính cạnh tranh ngành và sản phẩm hàng hóa Việt Nam.
Quản lý chặt chẽ hàng nhập khẩu, không khuyến khích tiêu dùng hàng xa xỉ thông qua việc hạn chế các ngân hàng thương mại cho vay tiêu dùng những mặt hàng này; quản lý thông qua thuế, phí và các thủ tục nhập khẩu.
Bên cạnh các biện pháp thúc đẩy xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, để quản lý nhập siêu cần phối hợp đồng bộ các chính sách khác như: cải thiện môi trường đầu tư và dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hóa, công nghiệp hóa; đầu tư phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ; phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế…
3. Về phát triển thị trường trong nước:
3.1. Giải pháp chung:
- Tăng cường công tác quản lý thị trường, đặc biệt là kiểm tra an toàn vệ sinh thực phẩm và hàng hóa nhập khẩu, tránh hiện tượng nhập lậu qua biên giới trong những thời điểm cuối năm.
- Thắt chặt công tác quản lý việc thực hiện các quy định về niêm yết giá, phát hiện và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, lợi dụng việc tăng giá xăng dầu để tăng giá bất hợp lý, trục lợi, các hiện tượng đầu cơ, găm hàng,…
- Bộ Công Thương cần phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành và địa phương chủ động xây dựng các phương án đảm bảo nguồn hàng thiết yếu phục vụ nhu cầu nhân dân trong dịp Tết Nguyên đán.
3.2. Giải pháp cụ thể với các mặt hàng trọng yếu:
a. Xăng dầu:
- Theo dõi chặt diễn biến tình hình thị trường thế giới để có những điều hành linh hoạt, phù hợp (cả về mức thuế và giá).
b. Sắt thép:
- Tăng cường quản lý thị trường, xử lý nghiêm những trường hợp nhập lậu đặc biệt trong những tháng cuối năm, gây biến động thị trường, ảnh hưởng đến ngành sản xuất thép trong nước.
c. Xi măng:
- Theo dõi chặt chẽ thị trường, đảm bảo đủ nguồn clinker để sản xuất, sẵn sàng đáp ứng tốt nhất nhu cầu xây dựng cuối năm tại các khu vực trong cả nước.
d. Phân bón:
- Theo dõi những biến động của giá phân bón thế giới để có những điều hành cung – cầu phù hợp, đảm bảo đủ nguồn cungcho sản xuất./.
File đính kèm: BCKinhteDichvuT11.09.pdf
Vụ Kinh tế Dịch vụ - Bộ Kế hoạch và Đầu tư