Báo cáo số 163/BC-UBND của tỉnh Quảng Trị.
Phần thứ nhất
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN
KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2009
Thực hiện Nghị quyết của Tỉnh uỷ và của HĐND tỉnh về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2009; UBND tỉnh đã tập trung chỉ đạo các ngành, các cấp tích cực triển khai thực hiện bằng nhiều giải pháp quyết liệt, đồng bộ và hiệu quả. Qua kết quả thực hiện 11 tháng đầu năm và dự kiến cả năm, đánh giá tình hình kinh tế - xã hội năm 2009 của tỉnh như sau:
A. ĐÁNH GIÁ CHUNG
Mặc dù gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế thế giới, tình hình thiên tai, dịch bệnh và những khó khăn vốn có của nền kinh tế - xã hội tỉnh nhà nhưng trong 10 tháng đầu năm, nhờ tập trung chỉ đạo quyết liệt, triển khai thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội nên tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh phát triển ổn định. Kết quả thực hiện các chỉ tiêu chủ yếu như sau:
I. TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CÁC CHỈ TIÊU CHỦ YẾU:
1. Chỉ tiêu phát triển kinh tế:
- Tốc độ tăng trưởng GDP cả năm ước đạt 9,1%, thấp hơn kế hoạch năm 2009 đã đề ra (KH là 11-12%), trong đó khu vực nông - lâm - ngư nghiệp tăng 1,5% (KH là 4-4,5%), khu vực công nghiệp - xây dựng tăng 17,4% (KH là 22-23%), khu vực dịch vụ tăng 7,5% (KH là 7,5-8%).
- Kim ngạch xuất khẩu ước đạt 38/42 triệu USD, bằng 90,5% kế hoạch.
- Kim ngạch nhập khẩu ước đạt 45,9/37 triệu USD, vượt 24% kế hoạch.
- Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội ước đạt: 3.770 tỷ đồng (kế hoạch từ 3.700 - 3.800 tỷ đồng).
- Tổng thu ngân sách trên địa bàn ước đạt: 680/772 tỷ đồng, bằng 88% kế hoạch; trong đó thu nội địa: 520/507 tỷ đồng, đạt 102,5% kế hoạch; thu từ hoạt động xuất nhập khẩu: 160/265 tỷ đồng, bằng 60% kế hoạch.
- Tổng chi ngân sách địa phương ước thực hiện 2.867,2/2.170,7 tỷ đồng, đạt 132% kế hoạch.
- Sản lượng lương thực có hạt ước đạt 22,05/22,3 vạn tấn, bằng 98,9% kế hoạch.
- Diện tích trồng mới cây công nghiệp dài ngày ước đạt: 933,7/1.100 ha, bằng 84,9% kế hoạch.
- Trồng mới rừng tập trung ước đạt 4.884/4.500 ha, vượt 8,5% kế hoạch.
- Sản lượng thuỷ hải sản ước đạt 24.500/23.000 tấn, bằng 106,5% kế hoạch.
2. Chỉ tiêu phát triển xã hội:
- Tỷ lệ xã, phường, thị trấn đạt chuẩn phổ cập THCS là 100% (KH là 100%).
- Tạo việc làm mới ước đạt 8.500 lao động (kế hoạch là trên 8.500 lao động).
- Tỷ lệ lao động qua đào tạo so với tổng số lao động ước đạt 30% (kế hoạch là 30%); trong đó đào tạo nghề 21,5% (kế hoạch là 21,5%).
- Mức giảm tỷ suất sinh ước đạt 0,61%o (kế hoạch là trên 0,6%o).
- Tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn 14,9%; giảm 1,9% so với năm 2008 (kế hoạch là giảm từ 2,5% trở lên).
- Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi giảm còn 20,2% (KH là dưới 20,7%).
3. Chỉ tiêu về môi trường:
- Tỷ lệ độ che phủ rừng năm 2009 đạt 46,2%, bằng 104,5% kế hoạch.
- Tỷ lệ dân số thành thị sử dụng nước sạch 77,5%, đạt 100% kế hoạch.
- Tỷ lệ dân số nông thôn sử dụng nước hợp vệ sinh 80%, đạt 100% kế hoạch.
II. NHỮNG KẾT QUẢ NỔI BẬT TRONG NĂM 2009:
1. Mặc dù tăng trưởng kinh tế chưa đạt kế hoạch đề ra nhưng trong bối cảnh kinh tế thế giới suy thoái nghiêm trọng, kinh tế cả nước có mức tăng trưởng thấp [1] thì việc duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế (tính theo GDP) đạt 9,1% là một thành quả đáng khích lệ, thể hiện nổ lực rất lớn của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân trong toàn tỉnh.
Tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) theo giá hiện hành đạt 8.189 tỷ đồng; bình quân đầu người đạt 13,7 triệu đồng (803 USD), tăng 22,3% so với năm 2008. Cơ cấu kinh tế của tỉnh có sự chuyển dịch đáng kể theo hướng tăng tỷ trọng khu vực công nghiệp - xây dựng và khu vực dịch vụ, giảm tỷ trọng khu vực nông - lâm - ngư nghiệp[2].
2. Lĩnh vực Nông - lâm - ngư nghiệp, mặc dù gặp nhiều khó khăn nhưng sản xuất vẫn giữ được ổn định và cơ bản hoàn thành mục tiêu kế hoạch đề ra. Kinh tế nông thôn được chú trọng phát triển; kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn được quan tâm đầu tư; các chính sách phát triển nông nghiệp và nông thôn được chú trọng và thực hiện có hiệu quả.
3. Công nghiệp - Xây dựng, Dịch vụ là lĩnh vực chịu tác động mạnh và trực tiếp của suy thoái kinh tế nhưng vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng khá.
4. Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội ước tăng 13,9% so với năm 2008 (đạt kế hoạch đề ra). Đặc biệt, vốn đầu tư phát triển ngân sách địa phương quản lý đạt 210,3% so với kế hoạch được HĐND tỉnh giao đầu năm, thể hiện sự nỗ lực lớn của tỉnh và quan tâm hỗ trợ của Trung ương.
Các công trình trọng điểm của tỉnh đã được tập trung bố trí vốn, tiến độ thi công khá nhanh; nhiều công trình quan trọng khác đã hoàn thành hoặc đang được tích cực triển khai. Đặc biệt, tỉnh đã khởi công xây dựng 2 dự án lớn đề ra trong kế hoạch 5 năm 2006-2010 là Nhà máy xi măng 60 vạn tấn/năm và Nhà máy bia Hà Nội công suất 15 triệu lít/năm (giai đoạn 1).
5. Hoạt động xúc tiến đầu tư, phát triển doanh nghiệp tiếp tục đạt được nhiều tiến bộ. Từ đầu năm đến nay, có 35 dự án trong nước đã được cấp phép đầu tư, tổng vốn đăng ký trên 15.846 tỷ đồng (gấp hơn 3 lần so với cùng kỳ năm 2008). So với cùng kỳ năm 2008, số doanh nghiệp đăng ký chuyển đổi và thành lập mới tăng 43% với tổng vốn đăng ký là 10.272 tỷ đồng, tăng 13,8 lần.
6. Lĩnh vực văn hóa - xã hội đạt được những kết quả tích cực. Sự nghiệp Giáo dục - Đào tạo được tiếp tục quan tâm phát triển cả về quy mô và chất lượng. Mạng lưới y tế, cơ sở vật chất và trang thiết bị y tế được tiếp tục tăng cường đầu tư từng bước nâng cao chất lượng khám chữa bệnh cho nhân dân; hoạt động y tế dự phòng thực hiện có hiệu quả, đặc biệt là công tác phòng chống các dịch bệnh nguy hiểm. Đã tổ chức thành công nhiều hoạt động kỷ niệm các ngày lễ lớn của quê hương, đất nước và các lễ hội, các sự kiện quan trọng của tỉnh để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng bạn bè trong nước và quốc tế.
7. Bảo đảm an sinh xã hội, quan tâm chăm lo cho người nghèo, các đối tượng chính sách và những vùng khó khăn được đặc biệt coi trọng và thực hiện có hiệu quả, góp phần ổn định đời sống nhân dân là nét nổi bật trong năm 2009. Bên cạnh đó, một số lĩnh vực xã hội, môi trường đạt được những kết quả tích cực như: hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội vùng khó khăn, xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng, tăng độ che phủ rừng, giải quyết vấn đề nước sinh hoạt ở thành thị và nông thôn... Đã chủ động thực hiện tốt công tác phòng chống lụt bão; quyết liệt, kịp thời triển khai các biện pháp cứu trợ khẩn cấp và khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, nhất là do cơn bão số 9 gây ra.
8. Việc thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, phường được chuẩn bị tích cực, chu đáo và triển khai thực hiện có kết quả. Chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh, huyện được rà soát và kiện toàn. Lần đầu tiên tỉnh đã công khai bộ thủ tục hành chính 3 cấp của địa phương và đang chỉ đạo rà soát cắt bỏ những thủ tục hành chính rườm rà, không phù hợp. Thành phố Đông Hà và thị trấn Cửa Tùng đã được thành lập sẽ góp phần tạo ra động lực mới trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
9. Sức mạnh đoàn kết, thống nhất trong toàn Đảng, toàn dân; tinh thần tự lực, tự cường của các tầng lớp nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp đã được phát huy; xã hội đồng thuận; công tác chỉ đạo, điều hành của tỉnh được đổi mới tích cực với sự linh hoạt, nhạy bén, quyết liệt, kịp thời và có hiệu quả trong tổ chức thực hiện kế hoạch đã đề ra, nhất là thực hiện các giải pháp cấp bách của Chính phủ đã đưa nền kinh tế - xã hội của tỉnh nhà từng bước vượt qua giai đoạn đầy khó khăn, thách thức do suy giảm kinh tế và những thiệt hại nặng nề do thiên tai, dịch bệnh gây ra.
10. Quốc phòng - an ninh được giữ vững, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ổn định; khối đại đoàn kết dân tộc tiếp tục được củng cố và tăng cường.
III. NHỮNG KHÓ KHĂN, TRỞ NGẠI:
Bên cạnh những kết quả đạt được, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh trong năm 2009 còn có những khó khăn, hạn chế sau:
1. Về khách quan:
- Khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới đã ảnh hưởng sâu sắc đến kinh tế cả nước. Đối với tỉnh ta, suy giảm kinh tế đã làm cho thị trường bị thu hẹp, hoạt động xuất khẩu gặp khó khăn; giá trị sản xuất của toàn ngành công nghiệp tăng chậm so với những năm trước. Đầu tư của khu vực doanh nghiệp và dân cư, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) có mức tăng trưởng thấp, làm ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng tăng năng lực sản xuất, kinh doanh của các ngành kinh tế. Việc thực hiện các chính sách miễn, giảm, giãn thời hạn nộp thuế để kích cầu đầu tư đã làm giảm số thu ngân sách so với dự toán được giao năm 2009.
- Thiên tai, dịch bệnh, nhất là những thiệt hại nặng nề do cơn bão số 9 và lũ lớn vừa qua gây ra đã ảnh hưởng lớn đến tình hình sản xuất và đời sống của nhân dân; tác động tiêu cực đến việc thực hiện các chỉ tiêu về tăng trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghèo và phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội của tỉnh.
2. Về chủ quan:
- Tiến độ thực hiện và giải ngân kế hoạch vốn đầu tư XDCB có tiến bộ nhưng chưa đáp ứng yêu cầu và chưa phát huy hết các nguồn vốn kế hoạch để đóng góp nhiều hơn vào tăng trưởng kinh tế của tỉnh. Một số chủ đầu tư chưa thực hiện đầy đủ trách nhiệm của mình trong việc triển khai các nguồn vốn đã bố trí theo kế hoạch làm ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện và giải ngân vốn đầu tư của toàn tỉnh.
- Một số ngành và địa phương chưa phát huy hết tính chủ động, tích cực trong công tác chỉ đạo, điều hành thực hiện nhiệm vụ được giao cũng như thực hiện các giải pháp để kịp thời tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất phát triển.
- Chất lượng nguồn nhân lực chậm được nâng cao; chất lượng giáo dục của học sinh vùng dân tộc thiểu số và ngoài công lập còn thấp so với yêu cầu.
- Các vụ khiếu kiện tuy có giảm nhưng tính chất vẫn còn phức tạp. Hoạt động của các loại tội phạm diễn biến phức tạp, tính chất, hậu quả khá nghiêm trọng.
- Hiệu lực quản lý nhà nước đã được tăng cường nhưng chưa mạnh. Một số Sở, Ban ngành cấp tỉnh và UBND cấp huyện chưa chấp hành nghiêm chế độ thông tin, báo cáo theo quy định của UBND tỉnh, làm ảnh hưởng đến công tác chỉ đạo, điều hành và tổ chức thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2009.
B. KẾT QUẢ CỤ THỂ TRÊN TỪNG NGÀNH, LĨNH VỰC
I. VỀ THỰC HIỆN MỤC TIÊU NGĂN CHẶN SUY GIẢM KINH TẾ, DUY TRÌ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ HỢP LÝ, BỀN VỮNG:
1. Sản xuất nông, lâm, thủy sản và kinh tế nông thôn:
Để duy trì và phát huy những kết quả đạt được, tiếp tục tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn; ngay từ đầu năm, UBND tỉnh đã chỉ đạo ngành Nông nghiệp - PTNT và các địa phương quyết liệt triển khai đồng bộ nhiều biện pháp, nhất là các nhóm giải pháp cấp bách của Chính phủ nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội; đồng thời tích cực thực hiện Chương trình hành động số 72-CTHĐ/TU của Tỉnh ủy về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
Ngay từ đầu vụ Đông Xuân, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra rét đậm, rét hại kéo dài ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất; mưa lớn đã gây ngập úng một số diện tích lúa, phải gieo cấy lại nhưng nhờ triển khai thực hiện các biện pháp chỉ đạo và hỗ trợ kịp thời nên năng suất, sản lượng các loại cây trồng đều đạt và cao hơn vụ Đông Xuân năm trước. Tuy nhiên, tình hình thời tiết trong vụ Hè Thu diễn biến phức tạp, áp thấp nhiệt đới gây mưa với cường suất lớn vào thời điểm chính vụ đã làm ngập úng trên diện rộng một diện tích lớn lúa, hoa màu và nuôi trồng thủy sản bị thiệt hại nặng. Đặc biệt, cơn bão số 9 kèm theo mưa lũ lớn đã gây thiệt hại nặng nề cho sản xuất và đời sống của nhân dân. Bên cạnh đó, dịch bệnh cũng đã ảnh hưởng xấu đến chăn nuôi và trồng trọt.
Diện tích gieo trồng cây lương thực, cây rau đậu các loại và cây công nghiệp ngắn ngày đều tăng so với năm 20083 nhưng nhìn chung, năng suất các loại cây trồng chủ lực, có diện tích gieo trồng lớn như lúa, sắn đều giảm so với năm 2008[3]. Sản lượng lương thực có hạt ước chỉ đạt 22,05 vạn tấn, giảm gần 0,6 vạn tấn so với năm 2008 và bằng 98,9% kế hoạch4. Diện tích trồng mới cây công nghiệp dài ngày ước thực hiện 933,7 ha/1.100 ha, đạt 84,9% kế hoạch; ngoài sản lượng hồ tiêu tăng khá (12,8%) thì sản lượng cao su và cà phê đều giảm so với năm 20085
Tổng đàn trâu, bò giảm; trong lúc đó, tổng đàn lợn và gia cầm tăng khá so với năm 2008; các vật nuôi khác như: dê, hươu, ong phát triển tốt. Thịt hơi các loại đạt 22,8 nghìn tấn, tăng 2,7% so với năm 2008.
Chương trình 5 triệu ha rừng và các chương trình, dự án phát triển lâm nghiệp được chú trọng, diện tích trồng mới rừng tập trung ước đạt 4.884 ha, vượt 8,5% kế hoạch; ước trồng mới trên 1,9 triệu cây phân tán, độ che phủ rừng ước đạt 46,2%. Tình hình sản xuất lâm nghiệp phát triển khá ổn định và phát huy hiệu quả về kinh tế[4]. Công tác quản lý, bảo vệ, chăm sóc và phòng chống cháy rừng được quan tâm[5].
Với chủ trương duy trì và mở rộng diện tích nuôi tôm, nhất là diện tích tôm thẻ chân trắng nên diện tích nuôi trồng thủy sản ước thực hiện trên 2.602 ha, tăng 3,3% so với năm 2008[6]. Nhờ thực hiện tốt chính sách hỗ trợ cho các hộ ngư dân vay vốn để nâng cấp và mua sắm mới tàu thuyền, ngư cụ phù hợp với một số nghề đánh bắt mới; tổng công suất tàu đánh bắt xa bờ tăng 21,6% và thời tiết tương đối thuận lợi nên sản lượng đánh bắt thủy hải sản ước đạt 24.500 tấn, tăng 13,7% so với năm 2008 và đạt 106,5% kế hoạch đề ra[7].
Công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư được quan tâm; phòng chống dịch bệnh trên cây trồng và vật nuôi được chú trọng và thực hiện có hiệu quả; công tác giống cây trồng cơ bản đáp ứng được nhu cầu phục vụ sản xuất. Hệ thống đê bao vùng trũng, kè chống xói lở bờ sông, Chương trình kiên cố hoá kênh mương, kiên cố hóa giao thông nông thôn được quan tâm đầu tư và thực hiện có hiệu quả; các công trình thủy lợi được nâng cấp và xây dựng[8] đã chủ động được nguồn nước phục vụ sản xuất nông nghiệp[9]. Các chương trình, dự án phát triển nông nghiệp, nông thôn được triển khai thực hiện tốt.
2. Sản xuất Công nghiệp - Xây dựng:
Trong quý I/2009, sản xuất công nghiệp chịu ảnh hưởng nặng nề của tình hình suy giảm kinh tế thế giới và trong nước nhưng nhờ tỉnh đã triển khai kịp thời và thực hiện có hiệu quả các nhóm giải pháp kích cầu của Chính phủ nên quý II và quý III/2009 tình hình được cải thiện, một số doanh nghiệp không chỉ phục hồi được sản xuất mà còn tăng mạnh về năng suất, chất lượng sản phẩm. Tuy vậy, tính chung cả năm 2009 giá trị sản xuất của toàn ngành công nghiệp vẫn tăng chậm và thấp nhất trong những năm qua.
Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2009 (giá cố định 1994) ước thực hiện 1.491 tỷ đồng, tăng 14,5% so với năm 2008. Trong đó: khu vực Nhà nước ước thực hiện 513 tỷ đồng, tăng 11,5%; khu vực ngoài Nhà nước ước thực hiện 859 tỷ đồng, tăng 22,8% và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài ước thực hiện 119 tỷ đồng, giảm 6%. Mặc dù tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp năm 2009 ở mức thấp nhất trong vòng 3 năm lại đây nhưng đó vẫn là kết quả đáng khích lệ trong bối cảnh hiện nay.
Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu tăng khá so với năm 2008 như: ván gỗ MDF, điện thương phẩm, điện sản xuất, gạch xây dựng, nước máy, săm xe máy, xi măng; một số sản phẩm như đá khai thác, quặng titan, thuỷ sản đông lạnh, lốp xe máy giảm so với năm 2008[10].
Trong năm, tỉnh đã khởi công xây dựng 2 dự án lớn đề ra trong kế hoạch 5 năm 2006-2010 của tỉnh là Nhà máy xi măng 60 vạn tấn/năm và Nhà máy bia Hà Nội công suất 15 triệu lít/năm (giai đoạn 1). Bên cạnh đó, một số dự án đang được tiếp tục triển khai như: thuỷ điện La La, thuỷ điện hạ Rào Quán (đã hoàn thành 70% khối lượng), thủy điện Đakrông 4, Dự án chế biến gỗ xuất khẩu, Nhà máy chế biến cát và sản xuất đá ốp lát cao cấp, Nhà máy que hàn Xuyên Á... Một số dự án đang đẩy nhanh tiến độ để sớm đưa vào hoạt động trong năm như: Nhà máy nghiền xi măng 25 vạn tấn/năm, Dây chuyền nghiền zircol 4.500 tấn/năm của Nhà máy hoàn nguyên Inmenite và 10 chuyền của Nhà máy may Phong Phú sẽ đưa vào hoạt động cuối năm 2009. Kết cấu hạ tầng các khu công nghiệp Nam Đông Hà, Quán Ngang, các cụm công nghiệp, làng nghề được tập trung hoàn thiện và tích cực thu hút đầu tư[11].
Đã triển khai lập quy hoạch mới thị trấn Cửa Tùng, quy hoạch điều chỉnh thị trấn Hồ Xá, quy hoạch chi tiết các khu chức năng của tỉnh, quy hoạch xây dựng nông thôn tỉnh giai đoạn 2009 - 2015 có tính đến năm 2020. Tổ chức thẩm định kinh tế - kỹ thuật thiết kế cơ sở các dự án đầu tư với tổng dự toán trình duyệt trên 1.700 tỷ đồng, trong đó đã cắt giảm khoảng 3% tổng vốn trình duyệt. Phối hợp với Tập đoàn cấp nước Vùng Frensch - Cộng hoà Pháp chuẩn bị dự án đầu tư hệ thống cấp nước vùng Đông Hà - Cam Lộ; phối hợp với Tổ chức UN-HABITAT và ADB chuẩn bị dự án đầu tư cải tạo, nâng cấp hệ thống cấp nước cho 4 đô thị trên tuyến hành lang kinh tế Đông - Tây. Hỗ trợ các nhà đầu tư trong tỉnh thực hiện dự án xây dựng 03 nhà máy sản xuất gạch tuy nel với tổng công suất 50 triệu viên/năm. Thực hiện dự án cấp nước thị trấn Gio Linh, thị trấn Cửa Việt và hoàn thành, đưa vào khai thác hệ thống cấp nước Cam Lộ và thị trấn Bến Quan.
3. Giao thông - Vận tải:
Hoạt động kinh doanh vận tải trong năm 2009 cơ bản đáp ứng nhu cầu sản xuất và đi lại của nhân dân; doanh thu vận tải ước thực hiện 398 tỷ đồng, tăng 4,9% so với năm 2008. Khối lượng vận chuyển hành khách và hàng hóa tăng cao nhưng khối lượng luân chuyển hành khách và hàng hóa giảm so với năm 2008[12].
Hệ thống giao thông được quan tâm đầu tư xây dựng và nâng cấp. Trong năm 2009, đã có nhiều công trình giao thông được hoàn thành và đưa vào sử dụng[13]; một số công trình đang được đẩy nhanh tiến độ, phấn đấu hoàn thành trong năm[14]; một số công trình lớn đang chuẩn bị đầu tư[15]. Quy hoạch xây dựng cảng biển Mỹ Thủy và quy hoạch xây dựng cảng hàng không - sân bay Quảng Trị đã được UBND tỉnh phê duyệt, hiện đang trình đề nghị Chính phủ bổ sung vào hệ thống quy hoạch sân bay, cảng biển của Quốc gia[16].
Một số tuyến đường lớn như: Mở rộng Quốc lộ 1A đoạn thành phố Đông Hà - thị xã Quảng Trị; mở rộng Quốc lộ 9 đoạn Sòng - Cửa Việt; đường Trần Nguyên Hãn (TP Đông Hà); đường tránh lũ, cứu hộ, cứu nạn và phát triển kinh tế, bảo đảm an ninh quốc phòng vùng ven biển phía Nam tỉnh Quảng Trị, đường Tà Rụt - La Lay (vào xã A Ngo)... đã và đang được triển khai thực hiện.
*Tình hình tai nạn giao thông (từ đầu năm đến 10/10/2009):
Tai nạn giao thông năm 2009 có giảm về số người chết, người bị thương nhưng tăng về số vụ so cùng kỳ năm 2008. Toàn tỉnh xảy ra 133 vụ, tăng 10 vụ (+8,13%); làm chết 111 người, giảm 5 người (-4,31%); bị thương 97 người, bằng cùng kỳ năm 2008; tài sản thiệt hại 461 triệu đồng, giảm 25,4%.
4. Thương mại - Dịch vụ:
Hoạt động thương mại - dịch vụ chịu ảnh hưởng của tình hình suy giảm kinh tế, thiên tai bão lụt và dịch bệnh (nhất là dịch H1N1) nhưng nhờ triển khai kịp thời các biện pháp kích cầu của Chính phủ về đầu tư, tiêu dùng và nổ lực lớn của các cấp, các ngành, các doanh nghiệp nên vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng 7,5% so với năm 2008 và đạt kế hoạch đề ra.
Hoạt động kinh doanh thương mại trên địa bàn tỉnh tương đối ổn định, lưu thông hàng hoá đáp ứng được nhu cầu sản xuất, tiêu dùng của nhân dân. Ước tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ năm 2009 là 7.296 tỷ đồng, vượt 8,9% kế hoạch và tăng 28,3% so với năm 2008. Các trung tâm thương mại Lao Bảo, Đông Hà, các chợ huyện, chợ nông thôn tiếp tục được đầu tư phát triển và phát huy hiệu quả. Chính sách trợ giá các mặt hàng thiết yếu miền núi được triển khai tích cực phục vụ kịp thời hàng thiết yếu cho miền núi. Công tác quản lý thị trường, chống buôn lậu, gian lận thương mại và đầu cơ được thực hiện quyết liệt; công tác quản lý chất lượng hàng hóa và bảo vệ lợi ích người tiêu dùng được quan tâm hơn. Giá cả có xu hướng tăng dần về những tháng cuối năm, tính chung chỉ số giá 10 tháng đầu năm tăng 5,94%; ước tính chỉ số giá năm 2009 là 8%.
Hoạt động xuất khẩu của tỉnh gặp khó khăn do thị trường bị thu hẹp, sức mua giảm; giá một số mặt hàng nông, lâm sản giảm so với năm trước; mặt khác, sản phẩm xuất khẩu của tỉnh chưa đa dạng, quy mô sản xuất nhỏ, sức cạnh tranh thấp. Mặc dù tỉnh đã áp dụng một số chủ trương, biện pháp để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu, nhưng vẫn chưa khởi sắc. Kim ngạch xuất khẩu ước đạt 38/42 triệu USD, tăng 5% so với năm 2008 và đạt 90,5% kế hoạch năm 2009. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu vẫn là mủ cao su, cà phê, tinh bột sắn, nông sản các loại, thực phẩm chế biến… Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là sữa và các sản phẩm sữa, thực phẩm chế biến, gỗ xẻ các loại, hàng điện tử và máy móc, thiết bị phụ tùng khác. Do một số công ty đầu tư công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh nên việc nhập khẩu máy móc, thiết bị tăng mạnh trong năm 2009.
Khu KT-TM đặc biệt Lao Bảo tiếp tục được đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ nhu cầu dân sinh và thu hút đầu tư; công tác quy hoạch và điều chỉnh quy hoạch đã được quan tâm nhằm tạo sự phát triển mạnh mẽ hơn nữa trong giai đoạn mới. Tính đến nay, đã thu hút được 50 dự án với tổng số vốn đăng ký là 3.670 tỷ đồng[17]; giải quyết việc làm cho hơn 2.500 lao động tại địa phương, góp phần cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân.
5. Phát triển doanh nghiệp và Kinh tế hợp tác:
Công tác cải cách thủ tục hành chính và thực hiện quy chế phối hợp liên thông giữa các cơ quan chắc năng tiếp tục được quan tâm thực hiện tốt đã tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và nhân dân trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Tính đến ngày 23/11/2009, có 360 doanh nghiệp đăng ký chuyển đổi và thành lập mới (tăng 43%) với tổng vốn đăng ký là 10.272 tỷ đồng (tăng 13,8 lần) so với cùng kỳ năm 2008. Ước đến 31/12/2009, trên địa bàn tỉnh có 1.500 doanh nghiệp và 330 chi nhánh, văn phòng đại diện với tổng vốn đăng ký trên 15.000 tỷ đồng, giải quyết việc làm cho trên 25.000 lao động. Đã cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho 907 hộ kinh doanh cá thể với số vốn trên 155 tỷ đồng nâng tổng số hộ kinh doanh cá thể toàn tỉnh lên 30.868 hộ với số vốn đăng ký trên 1.500 tỷ đồng, giải quyết việc làm cho trên 43.000 lao động.
Kế hoạch hỗ trợ thành lập mới, bồi dưỡng, đào tạo cán bộ HTX theo Nghị định số 88/2005/NĐ-CP ngày 11/7/2005 của Chính phủ; công tác đầu tư hỗ trợ phát triển kinh tế HTX; quản lý và hỗ trợ HTX nông nghiệp được quan tâm thực hiện. Hoạt động của các HTX từng bước được củng cố và ổn định, năng lực quản lý HTX được nâng lên; có trên 50% HTX làm ăn có lãi, hiệu quả sản xuất kinh doanh tăng; các loại hình dịch vụ hỗ trợ cho kinh tế hộ xã viên ngày càng đa dạng hơn.
6. Hoạt động đối ngoại, kinh tế đối ngoại và xúc tiến đầu tư:
Đã tổ chức thực hiện tốt công tác lễ tân ngoại giao, công tác lãnh sự, công tác biên giới, hoạt động hữu nghị và đối ngoại nhân dân... Phối hợp tốt với các đơn vị bạn Lào triển khai tốt dự án tăng dày, tôn tạo mốc quốc giới đảm bảo tiến độ theo yêu cầu.
Hoạt động kinh tế đối ngoại và xúc tiến đầu tư tiếp tục đạt được những kết quả khả quan. Tỉnh đã tích cực vận động một số dự án lớn như: Dự án Chia Sẻ giai đoạn 2; Dự án xây dựng và cải tạo hệ thống thoát nước - xử lý nước thải thị xã Quảng Trị; Dự án phát triển toàn diện KT-XH thành phố Đông Hà; Dự án cấp nước và vệ sinh môi trường, dự án phát triển du lịch tiểu vùng sông Mêkông (GMS); Dự án bệnh viện vệ tinh Bệnh viện TW Huế.
Trong 11 tháng, đã có 02 dự án ODA[18]với tổng vốn đầu tư 2,2 triệu USD được phê duyệt và khởi động, 01 dự án ODA (UN-HABITAT) được ký kết Biên bản ghi nhớ với tổng vốn đầu tư 2,55 triệu USD, 04 dự án ODA được Thủ tướng Chính phủ đồng ý đưa vào danh mục tài trợ và đang chuẩn bị thủ tục để ký kết Văn bản thoả thuận với tổng vốn tài trợ khoảng 430 tỷ đồng[19].Tính đến nay, trên địa bàn tỉnh có 17 chương trình, dự án ODA với tổng số vốn đầu tư khoảng 1.911 tỷ đồng; có 22 tổ chức phi Chính phủ (NGO) đang viện trợ với tổng giá trị dự án cam kết khoảng 97,8 tỷ đồng. Hầu hết các chương trình, dự án đang được triển khai có hiệu quả, đúng tiến độ, góp phần tích cực vào xoá đói giảm nghèo, phát triển cơ sở hạ tầng, nâng cao năng lực và cải thiện môi trường.
Việc ban hành một số chính sách ưu đãi và hỗ trợ đầu tư trên địa bàn tỉnh; đẩy mạnh cải cách hành chính về cấp phép đầu tư; đẩy mạnh đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, nhất là tại các Khu công nghiệp, Khu du lịch, Khu kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo đã thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư. Chương trình hợp tác với 2 tỉnh Savanakhet, Salavan (Lào), hợp tác 3 tỉnh Quảng Trị, Savannakhet, Mục Đa Hán (Thái Lan) và hợp tác với thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục được tăng cường.
Trong 11 tháng, đã cấp phép đầu tư 35 dự án trong nước với tổng vốn đầu tư trên 15.846 tỷ đồng, trong đó có 12 dự án đã triển khai hoạt động[20] nâng tổng số dự án đầu tư trong nước trên địa bàn tỉnh lên 136 dự án với số vốn đầu tư đăng ký trên 23.418 tỷ đồng[21].
Thu hút đầu tư FDI đang chững lại do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế, trong 9 tháng đầu năm chỉ có 01 dự án FDI mới được cấp phép[22]; các dự án đã cấp phép trước đây hoạt động bình thường mặc dù thị trường đang gặp khó khăn. Tính đến nay, đã có 08 dự án được cấp phép với tổng vốn đầu tư trên 609 tỷ đồng (trên 35,8 triệu USD), trong đó có 6 dự án đã đi vào sản xuất, kinh doanh hiệu quả.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác thu hút đầu tư của tỉnh vẫn còn nhiều khó khăn, hạn chế: Suy thoái kinh tế thế giới và trong nước đã làm cho một số dự án triển khai chậm tiến độ hoặc không triển khai được do nhà đầu tư thiếu vốn. Môi trường đầu tư của tỉnh chưa thực sự hấp dẫn, nguồn nhân lực, lao động có tay nghề còn hạn chế, tài nguyên khoáng sản không nhiều, thời tiết khí hậu khắc nghiệt. Ngân sách dành cho công tác xúc tiến đầu tư còn rất hạn chế nên tỉnh gặp khó khăn trong việc tổ chức quảng bá, giới thiệu tiềm năng và kêu gọi, xúc tiến đầu tư ở trong và ngoài nước. Đội ngũ cán bộ làm xúc tiến đầu tư còn thiếu, nhất là những cán bộ có năng lực và kinh nghiệm.
II. VỀ TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG VÀ HUY ĐỘNG VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN:
1. Về lĩnh vực tài chính:
- Thu ngân sách: Trong điều kiện khó khăn do suy giảm kinh tế nhưng nhờ thực hiện tốt các chính sách kích cầu của Chính phủ như: hỗ trợ lãi suất, miễn, giảm, giãn thuế... đã tạo được nguồn vốn cho các doanh nghiệp và hộ kinh doanh hoạt động, sức mua trên thị trường từng bước được phục hồi, hiệu quả sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế được cải thiện; đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được chú trọng, công tác quản lý thuế được đổi mới... nên thu ngân sách đạt khá. Tổng thu ngân sách trên địa bàn ước đạt: 680/772 tỷ đồng, bằng 88% kế hoạch; trong đó thu nội địa: 520/507 tỷ đồng, đạt 102,5% kế hoạch và tăng 4% so với năm 2008; thu từ hoạt động xuất nhập khẩu: 160/265 tỷ đồng, đạt 60% kế hoạch và bằng 65% so với năm 2008. Tuy nhiên, suy thoái kinh tế toàn cầu đã tác động tiêu cực đến nhiệm vụ thu ngân sách năm 2009, do đó số thu ngân sách địa phương được hưởng không đạt kế hoạch; dự kiến số hụt thu để cân đối so với dự toán HĐND tỉnh giao trên 50 tỷ đồng, trong đó hụt thu do chính sách miễn, giảm, giãn thuế là 21 tỷ đồng.
- Chi ngân sách: Tổng chi ngân sách địa phương ước thực hiện 2.867,2/2.170,7 tỷ đồng, đạt 132% kế hoạch, trong đó: chi đầu tư phát triển: 423,2 tỷ đồng; chi thường xuyên: 1.507,2 tỷ đồng và chi thực hiện các chương trình mục tiêu, nhiệm vụ: 776 tỷ đồng. Mặc dù thu ngân sách cả năm gặp khó khăn nhưng nhờ bám sát các giải pháp chỉ đạo của tỉnh nên các nguồn chi vẫn được đảm bảo và chủ động, đáp ứng được yêu cầu và nhiệm vụ chuyên môn của các ngành, các cấp.
2. Về lĩnh vực ngân hàng:
Mặc dù gặp nhiều khó khăn nhưng hệ thống ngân hàng đã triển khai thực hiện kịp thời, có hiệu quả chính sách tiền tệ của Chính phủ; duy trì hoạt động ổn định và có mức tăng trưởng khá, đáp ứng nhu cầu vốn vay cho nền kinh tế. Đến cuối tháng 10/2009, huy động tiền gửi đạt 4.653 tỷ đồng, tăng 32,7%, ước cả năm đạt 5.000 tỷ đồng, tăng 42,5% so với cuối năm 2008. Tổng dư nợ cho vay đến cuối tháng 10/2009 là 5.795 tỷ đồng, tăng 36,7% so với cuối năm 2008, ước cả năm đạt 6.000 tỷ đồng, tăng 41,5% so với cuối năm 2008. Tổng số nợ xấu là 63 tỷ đồng, chiếm 1,09% tổng dư nợ.
Cho vay hỗ trợ lãi suất được xác định là một công tác trọng tâm để thực hiện chủ trương kích cầu của Chính phủ, góp phần ngăn chặn suy giảm kinh tế nên đã được tỉnh tập trung chỉ đạo quyết liệt, khẩn trương và phát huy hiệu quả tốt. Đến 30/10/2009, các Ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh đã tổ chức cho vay hỗ trợ lãi suất với tổng mức dư nợ là 1.645 tỷ đồng[23]; dự kiến đến 31/12/2009 đạt dư nợ đạt 2.000 tỷ đồng. Các giải pháp kích cầu của Chính phủ trong lĩnh vực tiền tệ đã giúp các doanh nghiệp, các hộ sản xuất kinh doanh có điều kiện ổn định và mở rộng sản xuất kinh doanh, giảm chi phí vay vốn, hạ giá thành sản phẩm, tạo thêm việc làm cho người lao động. Qua kết quả tự kiểm tra của các tổ chức tín dụng và kiểm tra của Thanh tra Ngân hàng nhà nước, phần lớn đã cho vay đúng đối tượng, khách hàng sử dụng vốn đúng mục đích.
3. Vốn đầu tư phát triển:
Mặc dù suy giảm kinh tế làm cho đầu tư của khu vực tư nhân và doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, nhưng nhờ nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước tăng, cùng với các chính sách kích cầu đầu tư của Chính phủ nên tỉnh đã duy trì được tốc độ tăng trưởng về huy động vốn đầu tư phát triển trên địa bàn.
Tổng vốn đầu tư toàn xã hội năm 2009 ước đạt 3.770 tỷ đồng, tăng 13,9% so với năm 2008, trong đó nguồn vốn nhà nước do địa phương quản lý tăng 7,4% so năm 2008. Nguồn vốn ngân sách nhà nước thực hiện: 1.599 tỷ đồng, tăng 34,3% so với năm 2008 và chiếm 74,9%; vốn vay 245 tỷ đồng, giảm 17,3% so với năm 2008 và chiếm 11,5%; vốn tự có của DNNN 130 tỷ đồng, giảm 12,6% so với năm 2008 và chiếm 6,1%; nguồn vốn khác 160 tỷ đồng, giảm 54,5%, chiếm 7,5%.
III. VỀ BẢO ĐẢM AN SINH XÃ HỘI VÀ CÁC LĨNH VỰC XÃ HỘI KHÁC:
1. Về bảo đảm an sinh xã hội:
Tỉnh đã đặc biệt coi trọng an sinh xã hội và quan tâm chăm lo cho người nghèo, các đối tượng chính sách và những vùng khó khăn là nét nổi bật trong năm 2009. Bên cạnh việc thực hiện tốt các chính sách đã có, tỉnh đã tích cực triển khai có hiệu quả nhiều chính sách an sinh xã hội mới như: hỗ trợ người nghèo ăn Tết[24]; trợ cấp khó khăn cho cán bộ công chức có thu nhập thấp trong 4 tháng đầu năm; hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo; Chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững tại huyện Đakrông; hỗ trợ khuyến nông, khuyến ngư ở địa bàn khó khăn; xây dựng các công trình cấp nước ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số; hỗ trợ lãi suất vay mua vật liệu xây dựng nhà ở khu vực nông thôn; xây dựng dự án nhà ở cho công nhân lao động tại các khu công nghiệp tập trung, người có thu nhập thấp ở đô thị... Đời sống các tầng lớp dân cư trong tỉnh về cơ bản là ổn định. Ước tính đến cuối năm 2009, tỷ lệ hộ nghèo còn khoảng 14,9%, giảm 1,9% so với năm 2008, tuy nhiên, nhiều gia đình bị thiệt hại lớn về người, nhà cửa, tài sản, tư liệu sản xuất trong cơn bão số 9 và lụt lớn vừa qua nên dự báo số hộ nghèo sẽ tăng trở lại trong thời gian tới.
Trong điều kiện suy giảm kinh tế, tỉnh đã tích cực triển khai nhiều biện pháp tạo việc làm cho người lao động, năm 2009 đã tạo thêm 8.500 việc làm mới, đạt 100% kế hoạch. Tỉnh đã triển khai thực hiện tốt Quyết định số 71/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về hỗ trợ huyện nghèo đẩy mạnh xuất khẩu lao động[25].
Thực hiện Nghị quyết 07 của HĐND tỉnh về phát triển nguồn nhân lực (trọng tâm là công tác đào tạo nghề cho người lao động giai đoạn 2007-2015), hệ thống các trường dạy nghề trên địa bàn tỉnh đã làm tốt công tác tuyển sinh đào tạo nghề, dự kiến cả năm 2009 đạt 121% kế hoạch. Dự án “Tăng cường năng lực đào tạo nghề” thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia Giáo dục - Đào tạo năm 2009 có nhiều chuyển biến tích cực. Tỷ lệ lao động qua đào tạo ước đạt 30%, trong đó tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề đạt khoảng 21,5% (đạt 100% KH).
Tỉnh đã quan tâm chăm lo và thực hiện tốt các chế độ, chính sách đối với người có công, thương bệnh binh, gia đình liệt sỹ; nâng cấp, tôn tạo các nghĩa trang liệt sĩ. Quỹ “Đền ơn đáp nghĩa” tiếp tục được duy trì; trong 11 tháng, đã vận động được gần 4,5 tỷ đồng để thực hiện các hoạt động đến ơn đáp nghĩa, trong đó xây dựng mới 112 căn nhà tình nghĩa với số tiền trên 3,9 tỷ đồng. Công tác bảo trợ xã hội, phòng chống tệ nạn xã hội; bảo vệ chăm sóc, giáo dục trẻ em, nhất là đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được quan tâm thực hiện tốt[26].
* Công tác phòng chống bão lụt và chỉ đạo khắc phục hậu quả cơn bão số 9:
Trong năm 2009, trước tình hình thời tiết có nhiều diễn biến phức tạp, UBND tỉnh tập trung chỉ đạo các cấp, các ngành tích cực, chủ động triển khai thực hiện công tác phòng chống bão lụt nhằm giảm thiểu thiệt hại do thiên tai gây ra.
Trước và trong cơn bão số 9, tỉnh đã triển khai khẩn cấp các biện pháp chủ động phòng chống lụt, bão[27]; các Sở, ban, ngành, đơn vị, địa phương về cơ bản đã quán triệt và triển khai nghiêm túc chỉ đạo của TW, của tỉnh với tinh thần trách nhiệm cao. Tuy nhiên, do bão to, gió lớn, nước biển dâng cao kết hợp mưa lớn sau bão nên đã gây thiệt hại rất nặng nề đối với tỉnh ta (có 17 người chết, 107 người bị thương; tổng giá trị thiệt hại là 2.468 tỷ đồng), ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất và đời sống của nhân dân cũng như kết cấu hạ tầng và hoạt động kinh tế, xã hội của tỉnh.
Ngay sau khi bão tan, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, lãnh đạo HĐND tỉnh, UBND tỉnh và lãnh đạo các Sở, Ban ngành, các huyện, thị xã, thành phố đã tổ chức các đoàn trực tiếp kiểm tra, chỉ đạo khắc phục hậu quả, động viên nhân dân, thăm các gia đình và nạn nhân bị thiệt hại do bão, lụt gây ra; đồng thời quyết liệt, khẩn trương chỉ đạo triển khai công tác cứu trợ khẩn cấp và tập trung khắc phục hậu quả bão lụt; tổ chức tiếp nhận, phân bổ, cấp phát kịp thời, đầy đủ kinh phí, gạo từ nguồn hỗ trợ của TW và các nguồn hỗ trợ khác[28]. Bên cạnh những biện pháp trước mắt nhằm ổn định đời sống nhân dân và khôi phục sản xuất tỉnh đã và đang tích cực chỉ đạo tập trung sửa chữa các trường học, các cơ sở y tế, các công trình giao thông và thủy lợi trọng yếu; đề nghị TW hỗ trợ kịp thời giống cây trồng, vật nuôi phục vụ sản xuất vụ Đông và vụ Đông Xuân, xin TW cho thực hiện một số chính sách hỗ trợ như: khoanh nợ, giãn nợ, vay có hỗ trợ lãi suất... tạo điều kiện khôi phục và phát triển đối với cây cao su, hồ tiêu và cà phê.v.v.
2. Y tế và Dân số - Kế hoạch hóa gia đình:
Cơ sở vật chất và mạng lưới của ngành Y tế không ngừng được mở rộng. UBND tỉnh đã chỉ đạo thực hiện tích cực Chương trình mục tiêu quốc gia về y tế, Đề án đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp bệnh viện đa khoa tuyến huyện và bệnh viện đa khoa khu vực, bệnh viện Đa khoa tỉnh sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2008-2010; Đề án nâng cấp hệ y tế dự phòng, trạm y tế xã theo Nghị quyết 18/2008/NQ-QH12 của Quốc hội. Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý bổ sung vốn trái phiếu Chính phủ trong năm 2009 để xây dựng Bệnh viện Đa khoa tỉnh 500 giường tại địa điểm mới. Đến nay, phần lớn các công trình bệnh viện tuyến huyện đã được triển khai thực hiện, trong đó có một số công trình đã hoàn thành đưa vào sử dụng32 . Hệ thống y tế cơ sở được quan tâm phát triển33. Chính sách thu hút, đào tạo, đãi ngộ đối với bác sỹ, dược sỹ đại học và cán bộ y tế cơ sở đã được HĐND tỉnh ban hành là điều kiện tốt để xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ y tế đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh cho nhân dân trong thời gian tới.
Công tác bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ nhân dân được chú trọng, đặc biệt là chính sách khám chữa bệnh cho trẻ em dưới 6 tuổi, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, người dân vùng đặc biệt khó khăn, đối tượng chính sách. Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi ước giảm còn 20,2% (KH: 20,7%).
Công tác y tế dự phòng thực hiện có hiệu quả, nhất là việc phòng chống dịch bệnh nguy hiểm. Việc khắc phục, xử lý môi trường ở những vùng bị ngập lụt đã được chú trọng. Công tác tuyên truyền, quản lý, kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm được tăng cường; Chi cục vệ sinh an toàn thực phẩm đã được thành lập. Tuy nhiên, dịch cúm A (H1N1) đã có biểu hiện bùng phát mạnh, mặc dù chưa có trường hợp tử vong nhưng điều đáng lo ngại là dịch đã bùng phát ở một số trường học[29]. Tỉnh đã tập trung chỉ đạo thực hiện đồng bộ, khẩn trương các biện pháp phòng chống dịch theo quy định của TW. Một số bệnh vẫn xuất hiện rãi rác như sởi, tiêu chảy, lỵ trực trùng, thủy đậu, quai bị, cúm, sốt rét...
Tỉnh đã chỉ đạo thực hiện hoàn thành tổng điều tra về Dân số và Nhà ở (01/04/2009). Hoạt động Dân số - KHHGĐ từng bước đi vào hoạt động ổn định; số người mới sử dụng các biện pháp tránh thai tăng 13,6%, tỷ lệ người sinh con thứ 3 trở lên giảm 2%, tỷ suất sinh ước giảm 0,61%o so với năm 2008.
3. Văn hoá - Thể thao - Du lịch và Thông tin - Truyền thông:
UBND tỉnh đã chỉ đạo các cấp, các ngành tổ chức thành công hoạt động kỷ niệm các ngày lễ lớn, các lễ hội và chào mừng các sự kiện quan trọng của tỉnh và các địa phương[30]tạo không khí phấn khởi, vui tươi và lành mạnh; để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng bạn bè trong nước và quốc tế.
Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá cơ sở” và cuộc vận động ”Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” tiếp tục được đẩy mạnh. Nhiều công trình văn hoá được đầu tư nâng cấp[31]; một số công trình đã hoàn thành và đưa vào sử dụng từng bước đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hoá của nhân dân. Quản lý nhà nước về lĩnh vực văn hóa, thông tin - truyền thông được chấn chỉnh và tăng cường. Chủ trương xã hội hóa trong lĩnh vực văn hóa, thể dục, thể thao đang được đẩy mạnh, nhất là huy động sức dân xây dựng các thiết chế văn hóa cơ sở và thực hiện Nghị định 43/NĐ-CP của Chính phủ về tự chủ tài chính của các đơn vị sự nghiệp.
Phong trào thể thao quần chúng diễn ra sôi nổi; Đại hội TDTT cấp xã và một số huyện đã hoàn thành và đạt kết quả tốt. Công tác giáo dục thể chất học đường tiếp tục được quan tâm; thể thao thành tích cao và công tác đào tạo vận động viên được chú trọng[32]. Tỉnh đã đăng cai tổ chức thành công 4 giải thể thao toàn quốc, trong đó tại Hội thi thể thao người khuyết tật toàn quốc Đoàn thể thao của tỉnh đã xếp thứ 3 toàn đoàn[33]; tại Giải đua thuyền truyền thống vô địch quốc gia, Đoàn Quảng Trị lần đầu tiên đạt giải nhất toàn đoàn[34], được Bộ VH-TT&DL cử đi tham gia Giải đua thuyền quốc tế tổ chức tại Thái Lan. Các Đoàn vận động viên của tỉnh cũng đã tham gia 23 giải thi đấu quốc gia, khu vực và quốc tế, đạt 252 huy chương các loại[35]. Đã hoàn thành và đưa vào sử dụng công trình sân vận động Đông Hà (giai đoạn 2).
Việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng Khu dịch vụ du lịch Cửa Việt, Khu dịch vụ du lịch Cửa Tùng đã được tỉnh quan tâm chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ. Triển khai lập kế hoạch hành động 2009-2013 và kế hoạch tài chính để thực hiện Dự án phát triển du lịch tiểu vùng sông Mêkông mở rộng (dự án ODA). Hoạt động du lịch tuy có gặp khó khăn nhưng doanh thu toàn xã hội về du lịch vẫn đạt khá, trong 11 tháng đầu năm ước đạt 614 tỷ đồng, đạt 89% kế hoạch năm 2009. Số dự án đăng ký đầu tư về du lịch trên địa bàn tỉnh tiếp tục tăng.
Công tác quy hoạch phát triển thông tin - truyền thông được chú trọng. Các lĩnh vực báo chí, phát thanh truyền hình, bưu chính viễn thông, internet phát triển ngày càng đa dạng, đổi mới và nâng cao về chất lượng và nội dung đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của tỉnh và nhu cầu hưởng thụ của nhân dân. Công tác quản lý nhà nước về báo chí, xuất bản được chú trọng. Các cơ quan báo chí hoạt động trên địa bàn tỉnh đã chấp hành nghiêm túc quy định của pháp luật, bám sát thông tin tuyên truyền theo định hướng; phản ánh kịp thời các vấn đề dư luận quan tâm. Hạ tầng viễn thông, internet phát triển nhanh[36]. Việc ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong quản lý nhà nước được chú trọng, được TW đánh giá đạt yêu cầu theo Quyết định 43/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về ứng dụng CNTT. Hạ tầng CNTT được quan tâm phát triển[37], doanh thu trong lĩnh vực CNTT năm 2009 ước đạt 150 tỷ đồng.
4. Thực hiện bình đẳng giới, nâng cao vị thế phụ nữ và công tác thanh niên:
Phong trào phát triển làng thanh niên lập nghiệp; phong trào thanh niên tình nguyện về công tác tại vùng sâu, vùng xa; nhân rộng các mô hình làm ăn hiệu quả của thanh niên tiếp tục được đẩy mạnh.
Việc nâng cao chất lượng hoạt động của Trung tâm thanh thiếu nhi Quảng Trị và xây dựng Trung tâm văn hoá thanh thiếu nhi ở một số huyện, thị xã được quan tâm. Đến nay, có 47% thanh niên khu vực miền núi và 75% thanh niên khu vực đồng bằng được phổ cập THPT, 87% thanh niên khu vực đồng bằng và 65% thanh niên khu vực miền núi được tiếp cận các chương trình hướng nghiệp, dạy nghề, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật, tin học, ngoại ngữ.
Tỉnh đã tiếp tục triển khai thực hiện Chỉ thị số 11/CT-TU của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ trong thời kỳ CNH-HĐH đất nước; Chương trình hành động số 43/CTHĐ-TU của Tỉnh ủy và Kế hoạch hành động Vì sự tiến bộ của phụ nữ tỉnh đến năm 2010. Đẩy mạnh tuyên truyền Luật Bình đẳng giới, Luật phòng chống bạo lực gia đình; tỷ lệ phụ nữ được giải quyết việc làm mới chiếm 40% trong tổng số lao động được tạo việc làm mới; tỷ lệ phụ nữ được tiếp cận với dịch vụ y tế đạt 95%; tỷ lệ đảng viên nữ được kết nạp chiếm 40% trong tổng số đảng viên mới.
5. Chính sách Dân tộc - Miền núi và công tác Tôn giáo:
Đời sống đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi nhìn chung có cải thiện. Tỉnh đã ưu tiên thực hiện nhiều chương trình, chính sách hỗ trợ đầu tư vào địa bàn miền núi, đặc biệt là vùng đồng bào dân tộc thiểu số như các chương trình 135, chương trình 134, chính sách trợ giá, trợ cước hàng thiết yếu miền núi, hỗ trợ đào tạo nghề cho đồng bào dân tộc thiểu số; hỗ trợ về y tế, giáo dục cho các xã đặc biệt khó khăn và đồng bào dân tộc thiểu số. Triển khai thực hiện Đề án Giảm nghèo nhanh và bền vững tại huyện Đakrông. Các dự án ODA, NGO cũng được tập trung vào địa bàn miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số để hỗ trợ phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo và đã thu được những kết quả tích cực. Đã tiến hành tổ chức Đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số huyện Hướng Hóa và huyện Đakrông; đồng thời đang tích cực chuẩn bị tổ chức Đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số tỉnh.
UBND tỉnh đã ban hành 16 văn bản chỉ đạo và giải quyết các vấn đề về lĩnh vực tôn giáo. Tổ chức thăm hỏi, động viên các Tăng, Ni tiêu biểu và bà con Phật tử là gia đình chính sách, người có công với nước nhân dịp Lễ Phật đản 2009. Tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tôn giáo trên địa bàn tỉnh hoạt động phù hợp với quy định của pháp luật.
IV. VỀ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO VÀ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ:
1. Giáo dục - Đào tạo:
Các chủ đề trọng tâm năm học, các cuộc vận động và phong trào do Bộ Giáo dục - Đào tạo phát động đã được triển khai tích cực góp phần nâng cao chất lượng và giữ vững kỷ cương, nền nếp giáo dục. Chương trình kiên cố hóa trường, lớp học và Chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục - đào tạo đã được tỉnh chỉ đạo thực hiện có hiệu quả; có 420 phòng học được xây mới; cơ sở vật chất phục vụ dạy và học được tăng cường[38]. Công tác xã hội hoá trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo được quan tâm. Các chế độ, chính sách hỗ trợ của nhà nước đối với học sinh nghèo, học sinh con em đồng bào dân tộc thiểu số, học sinh vùng đặc biệt khó khăn, vùng bị thiên tai được quan tâm thực hiện tốt.
Sự nghiệp Giáo dục - Đào tạo được tỉnh quan tâm phát triển cả về quy mô, nội dung, chất lượng và cơ cấu đào tạo. Mạng lưới trường lớp phát triển từng bước phù hợp với các vùng, miền; toàn tỉnh hiện có 158 trường mầm non, mẫu giáo, 328 trường phổ thông; số trường đạt chuẩn quốc gia ngày càng tăng[39]. Chất lượng dạy và học không ngừng được nâng cao. Tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn ở các bậc học phổ thông chiếm tỷ lệ cao[40]trong đó tỷ lệ đạt trên chuẩn ngày càng nhiều. Chất lượng giáo dục toàn diện và giáo dục mũi nhọn chuyển biến tích cực; tỷ lệ học sinh yếu, kém giảm so với năm học 2007-2008. Tỷ lệ học sinh được công nhận tốt nghiệp THCS đạt 98,46%; tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THPT đạt 82,7%, tốt nghiệp bổ túc THPT đạt 62,8%; tỷ lệ học sinh thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng đạt 22,6%. Thành quả phổ cập giáo dục tiếp tục được củng cố và duy trì; 100% xã, phường, thị trấn giữ vững phổ cập giáo dục tiểu học - chống mù chữ và hoàn thành phổ cập giáo dục THCS; 140/141 xã, phường, thị trấn đạt phổ cập giáo dục đúng độ tuổi; từng bước thực hiện phổ cập giáo dục Trung học. Năm học 2008-2009, toàn tỉnh có 1.353 học sinh bỏ học, tỷ lệ chung là 0,96%, giảm so với năm trước. Công tác quản lý nhà nước về giáo dục ngày càng được thực hiện tốt hơn.
2. Khoa học - Công nghệ:
Chiến lược khoa học và công nghệ tỉnh đến năm 2020 đã được tập trung xây dựng. Công tác quản lý các đề tài, dự án KH-CN được triển khai đúng quy trình và tiến độ đề ra. Công tác quản lý nhà nước về Tiêu chuẩn - Đo lường - Chất lượng, công nghệ, sở hữu trí tuệ, an toàn bức xạ được triển khai đồng bộ. Công tác thanh tra, kiểm tra, tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp luật về KH-CN trong sản xuất, kinh doanh được quan tâm. Chương trình hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng suất, chất lượng trong giai đoạn hội nhập tiếp tục được triển khai đạt kết quả thiết thực. Công tác tư vấn hướng dẫn cho các cơ sở, doanh nghiệp về đăng ký xác lập nhãn hiệu hàng hóa; đăng ký bảo hộ sử hữu công nghiệp; xây dựng chỉ dẫn địa lý cho một số sản phẩm của tỉnh được chú trọng. Hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001:2008 đã được áp dụng tại 15 cơ quan hành chính cấp tỉnh và UBND 9 huyện, thành phố, thị xã; trong đó 7 cơ quan đã được Tổng cục TCĐLCL cấp giấy chứng nhận.
V. VỀ TÀI NGUYÊN, MÔI TRƯỜNG VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG:
Công tác quản lý đất đai đáp ứng nhu cầu giao đất, thuê đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của các tổ chức và cá nhân[41]. Đã triển khai lập quy hoạch sử dụng đất tỉnh Quảng Trị giai đoạn 2011-2020; rà soát tình hình quản lý, sử dụng đất của một số đơn vị TW đóng trên địa bàn. Việc đo đạc, lập bản đồ địa chính, hồ sơ địa chính trên địa bàn tỉnh đã cơ bản được phủ kín. Công tác quản lý nhà nước, thanh tra, kiểm tra các hoạt động khai thác khoáng sản trên địa bàn được tăng cường. Công tác truyền thông, giám sát, quan trắc môi trường được đẩy mạnh. Đã lập danh sách 25 cơ sở gây ô nhiễm và ô nhiễm môi trường nghiêm trọng trên địa bàn tỉnh để có biện pháp xử lý.
VI. XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN VÀ THỰC THI PHÁP LUẬT:
1. Công tác tổ chức, xây dựng chính quyền và cải cách hành chính:
Việc thí điểm không tổ chức HĐND tại 7 huyện, 13 phường và nhất thể hóa Bí thư cấp ủy đồng thời là Chủ tịch UBND cùng cấp tại 11 đơn vị (01 huyện, 10 xã, phường, thị trấn) được chuẩn bị tích cực, thực hiện và tổ chức kiểm tra theo đúng kế hoạch đề ra;
Công tác xây dựng chính quyền cơ sở, thực hiện quy chế dân chủ và chuẩn hóa đội ngũ cán bộ công chức cấp xã được chú trọng. Tổ chức bộ máy và các tổ chức hội tiếp tục được kiện toàn[42]. Tiếp tục thực hiện Nghị định số 13, 14/2008/NĐ-CP của Chính phủ. Công tác tuyển dụng, đào tạo và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức được chú trọng[43].
Hoàn chỉnh và tổ chức thực hiện chính sách khuyến khích đào tạo, thu hút và sử dụng cán bộ; chính sách thu hút, đào tạo, đãi ngộ đối với bác sỹ, dược sỹ đại học và cán bộ y tế cơ sở.
Đã công bố bộ thủ tục hành chính cấp xã (160 thủ tục), cấp huyện (273 thủ tục) và của các Sở, Ban ngành cấp tỉnh (1.338 thủ tục) và đang chỉ đạo cắt bỏ các thủ tục hành chính không còn phù hợp. Mô hình “một cửa”, “một cửa liên thông”, ứng dụng công nghệ thông tin và tiêu chuẩn ISO trong giải quyết thủ tục hành chính đang được tích cực triển khai tại các cơ quan hành chính nhà nước. Đến nay toàn tỉnh có 15 đơn vị cấp tỉnh; 9 huyện, thành phố, thị xã; 100% xã, phường, thị trấn thực hiện cơ chế “một cửa”.
Công tác thi đua khen thưởng có sự chuyển biến tích cực. Đã tổ chức các Hội nghị sơ kết, Hội nghị điển hình tôn vinh tập thể, cá nhân xuất sắc trong phong trào thi đua ái quốc. Đã phối hợp với tỉnh Thanh Hóa tổ chức trao Kỷ niệm chương Thành cổ Quảng Trị cho 169 cá nhân của tỉnh Thanh Hoá và các tỉnh, thành phố trên cả nước tham gia chiến đấu trong chiến dịch 81 ngày đêm tại Thành Cổ. Tham mưu Ban Thường vụ Tỉnh uỷ ban hành Chỉ thị số 19/CT-TU về việc đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước chào mừng Kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội, các sự kiện, các ngày lễ lớn trong 2 năm 2009 - 2010 và Đại hội thi đua yêu nước tỉnh Quảng Trị lần thứ III.
2. Công tác tư pháp:
Các hoạt động trong lĩnh vực tư pháp tiếp tục đạt được những kết quả tích cực. Công tác xây dựng, thẩm định, kiểm tra và rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật được chú trọng: đã tham gia góp ý đối với 41 dự thảo văn bản và thẩm định 30 văn bản của các cơ quan cấp tỉnh; tự kiểm tra 31 văn bản do HĐND, UBND tỉnh ban hành; kiểm tra 87 văn bản do HĐND, UBND các huyện, thị xã gửi đến; trực tiếp kiểm tra 733 văn bản và quy ước thôn tại 6 huyện, đã kiến nghị xử lý 43 văn bản có vi phạm. Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đã được quan tâm đẩy mạnh, góp phần quan trọng vào việc nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ và nhân dân. Công tác hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp được chú trọng. Cải cách thủ tục hành chính và ứng dụng công nghệ thông tin được triển khai tích cực nhằm tạo ra bước phát triển có tính đột phá trong quá trình thực hiện cải cách tư pháp. Đội ngũ cán bộ làm công tác thi hành án dân sự được củng cố và nâng cao chất lượng; kết quả thi hành án đạt tiêu chuẩn qui định, tỷ lệ thi hành án về việc đạt tỷ lệ 85%, về tiền đạt 76%. Công tác trợ giúp pháp lý đã được quan tâm; đã thực hiện 3.913 vụ việc tư vấn pháp luật miễn phí cho 3.915 người là đối tượng chính sách, người nghèo (tăng 23,4% so với cùng kỳ năm 2008).
3. Công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại tố cáo và tiếp công dân; Phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm và chống lãng phí:
Công tác thanh tra được tiếp tục đẩy mạnh và có nhiều chuyển biến tích cực, góp phần tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong công tác quản lý nhà nước, giữ vững ổn định tình hình.
Năm 2009, đã tiến hành 71 cuộc thanh tra, 654 cuộc kiểm tra và 1 cuộc phúc tra; Kết thúc 65 cuộc thanh tra và 544 cuộc kiểm tra, 1 cuộc phúc tra; Số đơn vị được thanh tra, kiểm tra: 888; số đơn vị có sai phạm: 748. Tổng số tiền phát hiện sai phạm: 3.117,753 triệu đồng, 542.074 m2 đất, 129,6 ha đất lâm nghiệp. Nội dung sai phạm chủ yếu do: Chi sai chế độ 916,437 triệu đồng; Thu không đúng quy định của pháp luật: 311,778 triệu đồng; Sai phạm về thuế: 143,1 triệu đồng; Chiếm dụng quỹ tiền mặt: 101,404 triệu đồng; Sai phạm khác: 1.645,334 triệu đồng.
Kiến nghị thu hồi: 2.437,888 triệu đồng, 387.086 m2 đất và 129,6 ha đất lâm nghiệp; Đã có quyết định thu hồi vào ngân sách: 764,494 triệu đồng. Xử lý kỷ luật 8 người; Phạt cảnh cáo 56 trường hợp, lập biên bản xử phạt 473 trường hợp; Tổng số tiền xử phạt hành chính: 658,75 triệu đồng.
Công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại tố cáo đúng trình tự qui định của pháp luật. Có 428 lượt/613 công dân đến Phòng tiếp dân của tỉnh và các cơ quan hành chính để khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh (có 22 đoàn đông người với tổng số 147 người) với nội dung chủ yếu là về vấn đề đất đai, bồi thường giải toả, chính sách kinh tế, chính sách xã hội, quyết định hành chính và một số nội dung khác mà công dân quan tâm. Các cơ quan hành chính đã nhận 726 đơn (177 đơn khiếu nại, 78 đơn tố cáo, 471 đơn kiến nghị phản ánh). Trong số 177 đơn khiếu nại, có 96 đơn thuộc thẩm quyền các cấp giải quyết; đến nay có 64/96 đơn đã giải quyết xong, 32 đơn đang giải quyết. Trong số 78 đơn tố cáo, có 40 đơn thuộc thuộc thẩm quyền các cấp giải quyết; đến nay đã giải quyết 33 đơn, đạt 82,5%, 7 đơn đang giải quyết.
Nhìn chung, công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân trong năm có những chuyển biến, tiến bộ, nhiều vụ việc được giải quyết dứt điểm, tạo sự đồng thuận trong nhân dân, hạn chế khiếu nại vượt cấp, phát sinh điểm nóng. Việc tiếp nhận, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị phản ánh tại Phòng tiếp dân của tỉnh và các cơ quan hành chính đều tuân thủ nội quy, quy định của Nhà nước, không xảy ra tình trạng quá khích, gây mất trật tự nơi tiếp công dân. Tuy nhiên, số vụ việc giải quyết chưa dứt điểm vẫn còn kéo dài, một số địa phương, đơn vị chưa tập trung chỉ đạo để giải quyết KNTC theo đúng quy định của pháp luật.
Công tác phòng chống tham nhũng tiếp tục được đẩy mạnh và đã đạt được những kết quả đáng kể, nhất là việc tuyên truyền, quán triệt các văn bản của Đảng và Nhà nước về phòng chống tham nhũng và triển khai các hoạt động phòng ngừa tham nhũng, do đó chưa có vụ, việc tham nhũng lớn xảy ra. Việc xem xét, xử lý, giải quyết đơn thư tố cáo kịp thời, đúng qui định và không còn tồn đọng những đơn thư phức tạp.
VII. QUỐC PHÒNG - AN NINH:
Công tác quốc phòng và an ninh tiếp tục được coi trọng; an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Nền quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân được xây dựng ngày càng vững chắc; gắn kết chặt chẽ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng - an ninh.
Công tác quân sự - quốc phòng địa phương đã được triển khai và hoàn thành đúng kế hoạch, chất lượng đạt khá trở lên. Đã hoàn thành nhiệm vụ diễn tập KVPT huyện Đakrông, diễn tập PCLB huyện Vĩnh Linh, diễn tập động viên cho Trung đoàn 842, diễn tập chỉ huy cơ quan 1 bên 1 cấp trên bản đồ đúng theo kế hoạch và đạt kết quả cao. Công tác tuyển quân huấn luyện, kiểm tra sẵn sàng động viên và bồi dưỡng kiến thức quốc phòng cho các đối tượng được thực hiện tốt, bảo đảm chỉ tiêu, chất lượng và hiệu quả. Công tác củng cố lực lượng dân quân biển, điều động tàu thuyền dân sự tham gia bảo vệ chủ quyền biển đảo được triển khai thực hiện tốt. Nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia; hoạt động tuần tra, quản lý, bảo vệ đường biên, cột mốc; phong trào ”tự quản đường biên, cột mốc, giữ gìn trật tự thôn bản”; công tác nắm tình hình trên các tuyến, lĩnh vực và địa bàn trọng điểm... được quan tâm thực hiện tốt.
Phong trào phòng chống tội phạm, toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc được triển khai sâu rộng; kịp thời biểu dương các điển hình tiêu biểu ở cơ sở. Công tác tham mưu xử lý tốt vụ việc ở Cang Gián và nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự trong các dịp diễn ra các sự kiện chính trị quan trọng, kỷ niệm các ngày lễ lớn và các lễ hội được đảo đảm. Cuộc vận động ”Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh - Công an nhân dân vì nước quên thân, vì dân phục vụ” tiếp tục đạt kết quả tốt.
Lực lượng vụ trang tỉnh đã tham gia tích cực có hiệu quả công tác phòng chống, khác phục hậu quả bão lụt cơn bão số 9, tạo được lòng tin của nhân dân trên địa bàn.
Phần thứ hai
KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2010
Năm 2010 là năm có ý nghĩa quyết định đối với việc hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra trong Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV và Nghị quyết HĐND tỉnh về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010.
Về cơ bản, tình hình kinh tế - xã hội năm 2010 của tỉnh có thuận lợi hơn so với năm 2009. Tình hình suy thoái kinh tế thế giới đã thoát đáy và có dấu hiệu phục hồi. Các nguồn lực đầu tư được bổ sung, các công trình, dự án được xây dựng trong năm 2009 và những năm qua sẽ phát huy tác dụng. Các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước nhằm tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, nâng cao sức cạnh tranh, các Nghị quyết của HĐND tỉnh về phát triển kinh tế - xã hội mới ban hành[44] sẽ tạo điều kiện kích thích sự phát triển kinh tế - xã hội tỉnh trong năm 2010.
Năm 2010 cũng là năm nước ta diễn ra nhiều sự kiện chính trị, ngoại giao, lịch sử, văn hoá trọng đại. Việc tổ chức thành công Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội Đảng toàn toàn quốc lần thứ XI, Đại lễ kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội và các ngày lễ lớn của quê hương, đất nước sẽ là động lực tinh thần to lớn để chúng ta vượt qua khó khăn thách thức, thực hiện thắng lợi kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2010.
Bên cạnh những thuận lợi cơ bản đó, tình hình kinh tế thế giới và trong nước tiếp tục có nhiều khó khăn. Mặc dù kinh tế thế giới sẽ có chuyển biến tích cực hơn nhưng tín hiệu phục hồi vẫn còn yếu, biến động phức tạp và tiềm ẩn nhiều rủi ro, khó lường. Cùng với những khó khăn chung của cả nước; thì nền kinh tế của tỉnh ta, với những yếu kém vốn có và những tác động tiêu cực của tình hình suy giảm kinh tế trong thời gian qua sẽ còn ảnh hưởng nhiều mặt đến sản xuất và đời sống; hậu quả nặng nề của cơn bão số 9 vừa qua và diễn biến phức tạp của tình hình thiên tai, dịch bệnh trong thời gian tới sẽ ảnh hưởng bất lợi đến Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2010.
A. MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ CÁC CHỈ TIÊU CHỦ YẾU:
I. MỤC TIÊU CHUNG:
Tập trung mọi nổ lực để phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn năm 2009, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về sức cạnh tranh và hiệu quả sản xuất, kinh doanh của các thành phần kinh tế. Đẩy mạnh phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng nhằm cải thiện điều kiện thu hút đầu tư và đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Chủ động khai thác các lợi thế, đặc biệt là lợi thế của hành lang kinh tế Đông - Tây. Từng bước triển khai thực hiện các chủ trương theo kết luận của Chính phủ và các Bộ, Ngành TW về các chương trình, dự án lớn của tỉnh để tạo động lực cho sự phát triển. Bảo đảm an sinh xã hội, đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo và giải quyết tốt các vấn đề xã hội. Quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy chính quyền các cấp; đẩy mạnh cải cách hành chính, thực hành tiết kiệm chống lãng phí, phòng chống tham nhũng. Giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội.
II. CÁC CHỈ TIÊU CHỦ YẾU:
1. Các chỉ tiêu kinh tế:
- Tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) tăng 11-12% so với năm 2009, trong đó nông - lâm - ngư nghiệp tăng 3-3,5%, công nghiệp - xây dựng tăng 18-20%, dịch vụ tăng 8,5-9%.
- Kim ngạch xuất khẩu đạt 50 triệu USD, tăng 31,6% so với ước TH 2009.
- Kim ngạch nhập khẩu đạt 45 triệu USD, bằng 98% so với ước TH 2009.
- Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội khoảng 4.200 - 4.300 tỷ đồng, tăng khoảng 11,4 - 14% so với ước thực hiện năm 2009.
- Tổng thu NSNN trên địa bàn: 730 tỷ đồng, tăng 7,4% so với ước thực hiện năm 2009; trong đó thu nội địa: 545 tỷ đồng; thu thuế XNK: 185 tỷ đồng.
- Tổng chi NS địa phương: 2.592,9 tỷ đồng, bằng 90,4% so với ước TH 2009.
- Sản lượng lương thực có hạt 22,6 vạn tấn, tăng 2,7% so với ước TH 2009.
- Trồng mới rừng tập trung: 4.500 ha, bằng 100% so với KH năm 2009.
- Trồng mới cây công nghiệp dài ngày: 1.010 ha, tăng 8,2% so với ước thực hiện năm 2009 (trong đó cao su: 800 ha, cà phê: 150 ha, hồ tiêu: 60 ha).
- Sản lượng thuỷ hải sản: 27.000 tấn, tăng 10,2% so với ước TH năm 2009.
2. Các chỉ tiêu xã hội:
- Giữ vững chuẩn phổ cập THCS tại 100% xã, phường, thị trấn; tiếp tục triển khai đề án phổ cập THPT trên địa bàn tỉnh.
- Tạo việc làm mới cho trên 8.500 lao động, bằng ước thực hiện năm 2009.
- Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 32% (tăng 2%), trong đó đào tạo nghề 23,5% (tăng 2%) so với ước thực hiện năm 2009.
- Mức giảm tỷ lệ sinh trên 0,6%o so với năm 2009.
- Giảm tỷ lệ hộ nghèo 2% so với năm 2009.
- Giảm tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng dưới 20%.
3. Các chỉ tiêu môi trường:
- Tỷ lệ độ che phủ rừng đến cuối năm 2010 đạt trên 47% (tăng 0,8%).
- Tỷ lệ dân cư thành thị sử dụng nước sạch 78,5% (tăng 1%).
- Tỷ lệ dân cư nông thôn sử dụng nước hợp vệ sinh trên 81% (tăng 1% so với ước thực hiện năm 2009).
B. NHIỆM VỤ PHÁT TRIỂN CÁC NGÀNH, LĨNH VỰC
I. VỀ KINH TẾ:
1. Phát triển nông, lâm, thủy sản và kinh tế nông thôn:
Duy trì tốc độ tăng trưởng ổn định và bền vững của ngành nông, lâm, ngư nghiệp; phấn đấu giá trị gia tăng toàn ngành tăng 3-3,5% so với năm 2009. Tiếp tục triển khai thực hiện tốt Chương trình hành động số 72-CTHĐ/TU của Tỉnh ủy về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Tập trung vào các nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
- Ổn định diện tích lúa nước hiện có và mở rộng diện tích ở những nơi có điều kiện của khu vực miền núi. Tập trung đẩy mạnh thâm canh, sử dụng giống mới có năng suất, chất lượng cao và khả năng kháng bệnh. Mở rộng diện tích lúa chất lượng cao; phấn đấu đạt sản lượng lương thực có hạt 22,6 vạn tấn. Diện tích trồng lạc tăng 11,4%, phấn đấu đạt sản lượng 10.000 tấn, tăng 5,7%; phổ biến các giống ngô mới có năng suất cao, đạt sản lượng 7.980 tấn, tăng 5,6%; diện tích trồng sắn 10.100 ha, đạt sản lượng 180.000 tấn, tăng 9,9%. Tích cực chuyển đổi cơ cấu cây trồng hợp lý, nâng cao hiệu quả canh tác.
- Tiếp tục mở rộng diện tích cây công nghiệp dài ngày, phấn đấu trồng mới 800 ha cao su, 150 ha cà phê, 60 ha hồ tiêu. Chuyển đổi một số diện tích rừng nghèo kiệt sang trồng cao su, rừng trồng phòng hộ sang rừng kinh tế, rừng đặc dụng theo quy hoạch 3 loại rừng đã được phê duyệt.
- Tập trung khôi phục và phát triển chăn nuôi; phấn đấu đạt sản lượng thịt hơi các loại khoảng 25.000 tấn, tăng 9,6% so với ước thực hiện năm 2009. Tổ chức thực hiện Đề án về tổ chức mạng lưới thú y cơ sở; phát triển một số giống cây trồng, vật nuôi và giống thủy sản chủ lực giai đoạn 2010-2015 và phát triển chăn nuôi tỉnh Quảng Trị giai đoạn 2010-2015, định hướng đến năm 2020,
- Đẩy mạnh trồng rừng kinh tế; tăng cường bảo vệ rừng, phòng chống cháy rừng; đẩy mạnh giao đất, khoán rừng, khuyến khích phát triển các trang trại rừng. Phấn đấu năm 2010 trồng mới 4.500 ha rừng tập trung; 2-2,5 triệu cây phân tán, tăng 3,4-29,3%; tỷ lệ che phủ rừng đạt 47%.
- Đẩy mạnh khai thác hải sản xa bờ hiệu quả và nâng cao giá trị hải sản khai thác; mở rộng diện tích nuôi thuỷ sản theo đúng quy hoạch và chú trọng đầu tư thâm canh tăng năng suất. Phấn đấu sản lượng thuỷ hải sản năm 2010 đạt 27.000 tấn, tăng 10,2% so với ước thực hiện năm 2009.
- Tăng cường đầu tư kết cấu hạ tầng nông thôn, nhất là vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; tập trung ưu tiên vào các lĩnh vực giao thông, cấp điện, nước sinh hoạt, thuỷ lợi, bưu chính viễn thông, trường học, trạm y tế, các thiết chế văn hoá cơ sở... Chú trọng phát triển ngành nghề ở nông thôn, các dịch vụ khuyến nông, khuyến lâm, thuỷ nông, thú y, tiêu thụ nông sản...
- Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ sinh học vào sản xuất; tập trung chỉ đạo sản xuất đảm bảo lịch thời vụ. Ưu tiên bố trí vốn, đẩy nhanh tiến độ thực hiện các công trình, dự án trong lĩnh vực nông nghiệp - PTNT từ các ngồn vốn thuộc chương trình mục tiêu quốc gia, vốn ODA, vốn TPCP, các dự án thuỷ lợi... Thực hiện tốt công tác chuẩn bị đầu tư để triển khai Dự án Đê kè bờ biển, bờ sông nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu. Sử dụng có hiệu quả các nguồn nước để tưới, tiêu chủ động phục vụ sản xuất; chỉ đạo thực hiện tích cực các biện pháp chống hạn, ngăn mặn, kiểm tra và tu bổ các công trình thuỷ lợi trước lũ đảm bảo vận hành an toàn. Thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ đối với nông dân và ngư dân theo chủ trương của Chính phủ.
2. Phát triển Công nghiệp và Xây dựng:
- Mở rộng sản xuất gắn liền nâng cao chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh doanh, tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp địa phương. Tích cực quảng bá và thu hút đầu tư vào các KCN, cụm công nghiệp, làng nghề của tỉnh để nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp của địa phương.
- Phát triển mạnh các ngành công nghiệp có lợi thế và tạo được nhiều việc làm, nhất là công nghiệp chế biến nông - lâm - thuỷ sản, thực phẩm, vật liệu xây dựng, thuỷ điện, may mặc, khai thác và chế biến khoáng sản... Chú trọng các ngành và sản phẩm có thị trường, hiệu quả và sức cạnh tranh cao đáp ứng yêu cầu tiêu dùng nội địa và xuất khẩu.
- Tiếp tục tập trung chỉ đạo, đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án quan trọng của ngành công nghiệp như: sản xuất xi măng, sản xuất bia, xây dựng các nhà máy thủy điện nhỏ, kết cấu hạ tầng các khu công nghiệp, cụm công nghiệp làng nghề, Khu kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo để thu hút đầu tư.
- Tích cực kêu gọi đầu tư các dự án công nghiệp trong khu kinh tế Đông Nam tỉnh theo qui hoạch được phê duyệt, các dự án phong điện khi có điều kiện v.v...
- Hoàn thiện đề án quy hoạch phát triển CN-TTCN giai đoạn 2010-2020, đề án phát triển các sản phẩm công nghiệp chủ lực của tỉnh đến năm 2015, quy hoạch chế biến nông-lâm-thuỷ sản, quy hoạch vùng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến
- Tiếp tục thực hiện Nghị quyết 13 của Tỉnh uỷ về phát triển công nghiệp và Nghị quyết 12b của HĐND tỉnh về khuyến khích phát triển tiểu thủ công nghiệp và ngành nghề nông thôn. Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác khuyến công.
- Tích cực đào tạo và có chính sách hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực cho ngành công nghiệp.
- Xây dựng quy hoạch điều chỉnh, bổ sung thị trấn Hồ Xá và thị xã Quảng Trị; quy hoạch chi tiết các đô thị (2.000 ha); quy hoạch xây dựng nông thôn (05 xã); quy hoạch tuyến, cụm điểm dân cư dọc theo đường kinh tế - quốc phòng ven biển Cửa Việt - Mỹ Thuỷ. Triển khai dự án xây dựng nhà ở sinh viên. Quan tâm đúng mức đến việc chỉnh trang đô thị.
3. Giao thông - Vận tải:
- Tập trung nâng cao năng lực và chất lượng dịch vụ vận tải, bảo đảm nhu cầu vận tải hành khách và hàng hoá; mở thêm một số tuyến vận tải chất lượng cao: Đông Hà - thành phố Hồ Chí Minh, Lao Bảo - Pakxế; một số tuyến vận tải mới đến vùng miền núi: Lìa, Pa Tầng, Hướng Phùng và tuyến du lịch đến đảo Cồn Cỏ.
- Ưu tiên bố trí vốn để đẩy nhanh tiến độ các công trình giao thông trọng yếu và các công trình giao thông thuộc nguồn vốn TPCP, vốn ngân sách tập trung, TW hỗ trợ có mục tiêu và vốn WB3...
- Huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn ODA, vốn hỗ trợ của TW, vốn đóng góp của nhân dân để thực hiện các công trình, dự án về giao thông.
- Đẩy mạnh thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm đảm bảo trật tự an toàn giao thông, kiềm chế tai nạn giao thông theo tinh thần Nghị quyết 32/2007/NQ-CP của Chính phủ.
- Tích cực kêu gọi đầu tư các dự án giao thông trọng điểm như sân bay, cảng Mỹ Thuỷ, đường cao tốc Đông Hà - Lao Bảo khi có điều kiện.
4. Phát triển Thương mại - Dịch vụ và Xuất nhập khẩu:
- Đẩy mạnh phát triển đa dạng các ngành dịch vụ gắn với việc nâng cao chất lượng và hiệu quả kinh doanh. Đảm bảo lưu thông hàng hóa thông suốt, phục vụ nhu cầu sản xuất và đời sống nhân dân, nhất là ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa; không để xảy ra khan hiếm hàng hóa cục bộ, góp phần bình ổn giá cả thị trường. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ phấn đấu đạt 7.700 tỷ đồng. Khai thác tốt lợi thế của hành lang kinh tế Đông - Tây để tạo bước tăng trưởng nhanh trong các ngành: thương mại trong nước, xuất khẩu, vận tải kho bãi, bưu chính viễn thông và du lịch.
- Tiếp tục thực hiện chính sách trợ giá, trợ cước để đảm bảo cung ứng đầy đủ, kịp thời hàng thiết yếu cho miền núi. Tăng cường các biện pháp quản lý thị trường, bình ổn giá cả, chống buôn lậu, chống gian lận thương mại và trốn thuế...
- Nâng cao hiệu quả kinh doanh của hệ thống các trung tâm thương mại, siêu thị đã được đầu tư xây dựng ở Lao Bảo, Đông Hà và các khu vực thị trấn, thị tứ; tiếp tục phát triển hệ thống chợ các huyện lỵ, chợ nông thôn. Triển khai thực hiện tốt Nghị định 02/NĐ-CP của Chính phủ về xã hội hoá công tác đầu tư xây dựng chợ nhằm thúc đẩy phát triển sản xuất, tăng sức mua và trao đổi hàng hóa trên thị trường. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng các siêu thị, trung tâm thương mại theo quy hoạch đã được phê duyệt.
- Đẩy mạnh thực hiện chính sách khuyến khích xuất khẩu, khai thác tốt lợi thế về chất lượng và đặc trưng của các sản phẩm địa phương như: cà phê, cao su, hồ tiêu, lạc nhân, thuỷ sản, một số sản phẩm công nghiệp địa phương (tinh bột sắn, MDF). Nâng cao hiệu quả xúc tiến thương mại và đẩy mạnh nghiên cứu mở rộng thị trường xuất khẩu. Tiếp tục cải tiến thủ tục, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan liên quan tạo điều kiện thuận lợi cho lưu thông hàng hóa tại Khu kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo.
- Tập trung đầu tư hoàn thành từng bước hệ thống kết cấu hạ tầng kết hợp thu hút đầu tư vào khu dịch vụ du lịch Cửa Việt - Cửa Tùng, khu thương mại đặc biệt Lao Bảo; hoàn thành quy hoạch đảo du lịch Cồn Cỏ, khu du lịch Rào Quán, các bãi tắm biển để thu hút đầu tư.
5. Tài chính, ngân hàng:
- Tổng thu ngân sách trên địa bàn năm 2010 dự kiến đạt 730 tỷ đồng, tăng 7,4% so với ước thực hiện năm 2009, trong đó: thu nội địa 545 tỷ đồng, tăng 4,8%; thu thuế xuất nhập khẩu 185 tỷ đồng, tăng 15,6% so với ước thực hiện năm 2009. Tổng chi ngân sách địa phương 2.592,9 tỷ đồng, bằng 90,4% so với ước TH 2009.
- Tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp nuôi dưỡng, kích thích tăng trưởng nguồn thu với việc thu đúng, thu đủ. Tăng cường kiểm tra, quản lý thuế đối với các hoạt động kinh doanh trên địa bàn và các đối tượng nộp thuế; đồng thời thu hết số thuế và các khoản nộp ngân sách phát hiện qua thanh tra, kiểm tra. Tăng cường thực hiện Đề án uỷ nhiệm thu cho các phường, xã, thị trấn. Tích cực đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng để đấu giá đất, tạo nguồn thu để bổ sung cho chi đầu tư phát triển.
- Tiếp tục ổn định nhiệm vụ chi cân đối ngân sách địa phương theo quy định của Luật Ngân sách; thực hiện tiết kiệm chi ngân sách thường xuyên theo quy định của TW; tăng chi ngân sách cho đầu tư phát triển, đảm bảo các tỷ lệ chi cho giáo dục- đào tạo, khoa học- công nghệ, văn hóa theo Nghị quyết của Quốc hội.
- Tiếp tục thực hiện tốt các công cụ điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước trên địa bàn tỉnh, góp phần ngăn chặn suy giảm kinh tế và ngăn ngừa tái lạm phát cao. Các tổ chức tín dụng chấp hành nghiêm túc các quy định mới về điều hành lãi suất, tỷ giá; các chỉ tiêu về an toàn vốn và khả năng thanh toán; các quy định về quản lý ngoại hối. Hệ thống ngân hàng tăng cường công tác huy động vốn để đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Thực hiện cho vay vốn đối với nền kinh tế, ưu tiên vốn cho lĩnh vực sản xuất và xuất khẩu.
6. Đầu tư phát triển:
- Tích cực huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư phát triển; phấn đấu vốn đầu tư phát triển toàn xã hội năm 2010 huy động đạt 4.200 - 4.300 tỷ đồng, tăng khoảng 11,4 - 14% so với ước thực hiện năm 2009; trong đó nguồn vốn nhà nước do địa phương quản lý (bao gồm cả vốn ODA) thực hiện khoảng 2.240 tỷ đồng, chiếm 52,1% tổng vốn đầu tư toàn xã hội; nguồn vốn ngoài nhà nước 2.060 tỷ đồng, chiếm 47,9%. Vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý chủ yếu đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, hướng vào cải thiện điều kiện thu hút đầu tư và đáp ứng các nhu cầu xã hội bức xúc.
* Các dự án trọng điểm của tỉnh khánh thành và khởi công chào mừng Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV:
+ Các dự án chuyển tiếp: (1) Cầu Cửa Việt; (2) Quảng trường và Nhà văn hoá Trung tâm tỉnh; (3) Kết cấu hạ tầng thành phố Đông Hà; (4) Quy hoạch và xây dựng cơ sở hạ tầng Khu kinh tế Đông - Nam Quảng Trị.
+ Các dự án khởi công mới: (1) Bệnh viện đa khoa tỉnh; (2) Cầu sông Hiếu; (3) Hệ thống thủy lợi Đá Mài - Tân Kim.
* Các công trình quan trọng cần tập trung chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ: (1) Đường vào xã A Ngo, (2) Đường cơ động ven biển Hải An - Hải Khê, (3) Cầu Đại Lộc, (4) Cảng cá và khu dịch vụ hậu cần nghề cá đảo Cồn Cỏ (giai đoạn 2), (5) Khu neo đậu tránh trú bão Cửa Việt, (6) Đường Vĩnh Hà - Vĩnh Ô giai đoạn 2, (7) Di tích Thành cổ giai đoạn 2.
* Các dự án cần tích cực chuẩn bị thủ tục đầu tư để khởi công: (1) Đập ngăn mặn trên sông Hiếu, (2) Nâng cấp đường Tà Long - A Dơi, (3) Dự án đê, kè ứng phó với biến đổi khí hậu, (4) Các dự án đường về xã (nguồn vốn TPCP).
- Tổ chức thực hiện tốt chính sách ưu đãi và hỗ trợ đầu tư của tỉnh; tăng cường các hoạt động xúc tiến, vận động, quảng bá giới thiệu đầu tư; cải cách thủ tục hành chính; hỗ trợ hiệu quả các nhà đầu tư triển khai các dự án đã đăng ký và các nhà đầu tư đến tìm kiếm cơ hội đầu tư trên địa bàn. Tiếp tục thực hiện Nghị quyết 06/NQ-TU của Tỉnh uỷ về đẩy mạnh đầu tư khai thác lợi thế hành lang kinh tế Đông - Tây đến năm 2010 có tính đến năm 2015.
- Khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế đầu tư phát triển và mở rộng các hình thức đầu tư. Đẩy mạnh xã hội hoá các lĩnh vực y tế, giáo dục, văn hoá, thể thao... Tiếp tục thực hiện chính sách đấu giá đất để xây dựng hạ tầng kỹ thuật và thực hiện đầu tư theo phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm.
- Đẩy nhanh tiến độ lập và phê duyệt các quy hoạch, chú ý chất lượng của quy hoạch để tạo điều kiện thu hút đầu tư; tập trung đầu tư kết cấu hạ tầng các vùng động lực; đồng thời quan tâm đầu tư cải thiện điều kiện kết cấu hạ tầng thiết yếu cho các vùng nghèo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
- Tổ chức thực hiện đồng bộ sáu nhóm giải pháp về thu hút và quản lý vốn FDI đã đề ra trong Nghị quyết số 13/NQ-CP ngày 07/4/2009 của Chính phủ; trong đó, đặc biệt chú trọng các giải pháp về chính sách thu hút đầu tư, xúc tiến đầu tư, quy hoạch, cải thiện cơ sở hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực… trên cơ sở đó, đề ra các biện pháp phù hợp để thu hút nguồn vốn FDI.
7. Hợp tác quốc tế, Kinh tế đối ngoại và Xúc tiến đầu tư:
Nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế đối ngoại và hội nhập quốc tế. Tiếp tục vận động tài trợ các nguồn vốn ODA và NGO; thu hút vốn FDI và vốn trong nước phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh[45].
Đối với nguồn vốn ODA, tiếp tục kêu gọi tài trợ và tích cực chuẩn bị thủ tục để ký kết hiệp định các Dự án đã có chủ trương của Chính phủ và nhà tài trợ[46]; đồng thời triển khai vận động các dự án kêu gọi tài trợ mới[47].
Đối với lĩnh vực NGO: Tích cực vận động tài trợ các dự án đang thực hiện trên các địa bàn trong tỉnh, vận động mở rộng vùng dự án; tiếp cận các tổ chức mới thông qua các tổ chức hiện đã thiết lập được quan hệ hợp tác với tỉnh; chuẩn bị tốt các văn kiện dự án kêu gọi tài trợ; tổ chức thực hiện có hiệu quả các dự án, đảm bảo giải ngân 100% vốn đã cam kết.
Việc thu hút nguồn vốn FDI sẽ tiếp tục gặp khó khăn do môi trường đầu tư của tỉnh chưa thực sự hấp dẫn, khả năng cạnh tranh còn thấp so với các địa phương trong nước và suy thoái kinh tế thế giới tiếp tục tác động đến tình hình đầu tư của các cá nhân và tổ chức nước ngoài. Dự kiến vốn đăng ký đầu tư năm 2010 đạt 20 triệu USD, vốn thực hiện dự kiến đạt 7 triệu USD, chủ yếu tập trung vào các dự án đã được cấp phép đầu tư trong năm 2009 và một số dự án mở rộng qui mô sản xuất kinh doanh.
Tập trung vận động, xúc tiến, kêu gọi đầu tư các dự án lớn của tỉnh: (1) Nhà máy Xi măng 1,2-1,5 triệu tấn/năm (Tân Lâm), (2) Cảng đào Mỹ Thủy, (3) Xây dựng kết cấu hạ tầng Khu Kinh tế Đông Nam Quảng Trị, (4) Trung tâm nhiệt điện Bắc miền Trung, (5) Các dự án phong điện và nhiệt điện.
Việc thu hút vốn đầu tư trong nước cũng sẽ gặp khó khăn. Dự kiến vốn đầu tư trong nước đăng ký mới năm 2010 đạt 4.776 tỷ đồng, chủ yếu là các dự án đã được tỉnh chấp thuận chủ trương đầu tư trong năm 2009; vốn thực hiện ước đạt 1000 tỷ đồng, chủ yếu là các dự án đã được cấp phép trong năm 2009. Do đó, năm 2010 cần tập trung làm tốt một số nhiệm vụ cụ thể sau:
- Tuyên truyền, quảng bá điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, tiềm năng và cơ hội đầu tư của tỉnh; cơ chế, chính sách ưu đãi và hỗ trợ đầu tư; danh mục và hồ sơ thông tin các dự án kêu gọi đầu tư giai đoạn 2009 - 2015 thiết thực về nội dung, phong phú về hình thức.
- Nâng cao chất lượng các trang Website của các Sở, ban ngành; cập nhật thường xuyên thông tin, dữ liệu về quản trị doanh nghiệp, xúc tiến đầu tư, công khai các quy trình, thủ tục về đầu tư, các qui hoạch, kế hoạch và đầu tư của tỉnh.
- Tổ chức các hội nghị, hội thảo xúc tiến đầu tư vào các Khu công nghiệp, các Khu du lịch, Khu Kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo,
- Tiếp tục đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng và lập hồ sơ các dự án ưu tiên kêu gọi đầu tư vào Khu KT-TM Lao Bảo, các khu công nghiệp, khu du lịch.
- Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ làm xúc tiến đầu tư.
- Phối hợp với Đại sứ quán Việt Nam tại Lào giúp các doanh nghiệp trong tỉnh đầu tư sang Lào. Hướng dẫn, trợ giúp các doanh nghiệp, các tổ chức và cá nhân tiếp cận các thông tin về đầu tư ra nước ngoài. Tăng cường hợp tác với với các tỉnh của các nước trên hành lang kinh tế Đông Tây, thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hà Nội và các tập đoàn kinh tế lớn.
8. Phát triển doanh nghiệp và kinh tế hợp tác:
- Tiếp tục thực hiện mạnh mẽ các giải pháp, chính sách nhằm tạo thêm điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư và sản xuất, kinh doanh phát triển. Duy trì và phát huy kết quả thực hiện cơ chế “một cửa” và “một cửa liên thông” trong đăng ký kinh doanh và cấp phép đầu tư.
- Thực hiện có hiệu quả các chính sách, biện pháp hỗ trợ cho hoạt động đầu tư, kinh doanh của doanh nghiệp, nhất là đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa theo Nghị định 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009 của Chính phủ. Tăng cường công tác hậu kiểm sau đăng ký kinh doanh.
- Triển khai thực hiện Phương án tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả DNNN theo đề án của tỉnh đã được Thủ tướng Chính phủ đồng ý tại Công văn số 1838/TTg-ĐMDN ngày 06/10/2009.
- Củng cố và phát triển kinh tế hợp tác xã phù hợp với quy định của Luật hợp tác xã, phù hợp với cơ chế thị trường, phấn đấu tăng về số lượng HTX và số xã viên; từng bước nâng cao trình độ cán bộ quản lý HTX và thu nhập của xã viên.
- Tiếp tục thực hiện một số chương trình trợ giúp như đào tạo nguồn nhân lực cho kinh tế HTX và doanh nghiệp vừa và nhỏ; thực hiện Nghị quyết của HĐND tỉnh về một số chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển kinh tế tập thể tỉnh Quảng Trị giai đoạn 2009-2015.
II. VỀ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO VÀ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ:
1. Giáo dục và Đào tạo
- Tiếp tục thực hiện tốt 3 cuộc vận động ”Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, ”Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo”, ”Hai không” và đẩy mạnh phong trào thi đua ”Dạy tốt, học tốt”, ”Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”.
- Tích cực đổi mới công tác quản lý giáo dục; xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo. Tăng tỷ lệ huy động học sinh đi học phổ thông đúng độ tuổi, giảm tỷ lệ học sinh lưu ban, bỏ học.
- Phát triển sự nghiệp giáo dục toàn diện, mở rộng quy mô đào tạo và nâng cao chất lượng giáo dục ở tất cả các cấp học phổ thông, chuyên nghiệp và đào tạo nghề.
- Thực hiện tốt đề án luân chuyển và chính sách khuyến khích đối với giáo viên công tác tại miền núi.
- Tiếp tục thực hiện tốt Chương trình kiên cố hóa trường lớp học giai đoạn 2, kết hợp với các nguồn vốn khác để đầu tư đạt 70% kế hoạch đề ra trong giai đoạn 2008-2012; Chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục - đào tạo; các Đề án của Chính phủ về phát triển giáo dục[48]; tăng cường cơ sở vật chất các trường nghề.
- Huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực để thực hiện đề án, quy hoạch Giáo dục - Đào tạo đã được phê duyệt. Đẩy mạnh xã hội hoá Giáo dục - Đào tạo theo Nghị quyết của HĐND tỉnh đã ban hành, khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển các cơ sở giáo dục đào tạo ngoài công lập.
2. Khoa học và công nghệ
- Thực hiện đồng bộ cơ chế quản lý và chính sách phát triển khoa học công nghệ; đẩy mạnh thực hiện cơ chế tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các tổ chức khoa học và công nghệ theo Nghị định 115/2005/NĐ-CP của Chính phủ.
- Tăng cường tổng kết thực tiễn việc thực hiện các chủ trương của Đảng và Nhà nước, chú trọng triển khai các hoạt động điều tra cơ bản, xây dựng luận cứ khoa học phục vụ phát triển KT-XH của tỉnh.
- Gắn chặt kết quả nghiên cứu khoa học với việc triển khai ứng dụng vào thực tiễn sản xuất và đời sống nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm, hiệu quả sản xuất, kinh doanh và quản lý.
- Xây dựng và phát triển tiềm lực KH-CN, tập trung vào các lĩnh vực trọng tâm như: hệ thống thông tin tổng hợp của tỉnh, thư viện điện tử, hệ thống cơ sở dữ liệu về KT-XH, KH-CN, cơ sở kỷ thuật ứng dụng các thành tựu về công nghệ sinh học...
- Đẩy mạnh thực hiện Chương trình áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001-2008 vào hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước và Chương trình hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng suất, chất lượng và hội nhập giai đoạn 2006-2010.
- Mở rộng giao lưu, hợp tác, trao đổi KH-CN với các Viện, Trường đại học, cơ quan KH-CN các tỉnh và các nước trong khu vực.
- Tiếp tục đổi mới và tăng cường công tác quản lý nhà nước về KH-CN; khuyến khích liên kết giữa các tổ chức KH-CN, các nhà khoa học với doanh nghiệp và nông dân; thúc đẩy hoạt động thị trường KH-CN.
III. VỀ CÁC LĨNH VỰC XÃ HỘI:
1. Bảo đảm an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo và lao động - việc làm:
- Thực hiện đồng bộ các giải pháp, chính sách tạo thêm nhiều việc làm mới; nâng cao hiệu quả Chương trình việc làm của tỉnh giai đoạn 2006-2010; phát triển thị trường lao động; tăng cường cho vay giải quyết việc làm; phấn đấu tạo việc làm mới cho 8.500 lao động. Thực hiện tốt Đề án đào tạo nguồn nhân lực (trọng tâm là đào tạo nghề cho người lao động) giai đoạn 2008-2015 đã được HĐND tỉnh thông qua. Tích cực triển khai Đề án dạy nghề cho người lao động, nhất là lao động nông thôn, lao động thất nghiệp; mở rộng các hình thức dạy nghề, hỗ trợ cho vay để học nghề... Phấn đấu đến cuối năm 2010 có 32% tổng số lao động trong tỉnh được đào tạo, trong đó đào tạo nghề đạt 23,5%.
- Đẩy mạnh công tác xoá đói giảm nghèo, phấn đấu giảm tỷ lệ hộ nghèo còn dưới 13%. Hoàn thành Chương trình mục tiêu giảm nghèo của tỉnh giai đoạn 2006-2010. Kết hợp chặt chẽ giữa cho vay vốn ưu đãi người nghèo và hỗ trợ kiến thức về xoá đói giảm nghèo. Nâng cao chất lượng công tác giảm nghèo; tăng cường đào tạo, hướng dẫn cách làm ăn cho người nghèo; hỗ trợ người nghèo về sản xuất, kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm, giảm bớt rủi ro cho người nghèo. Tập trung thực hiện tốt Đề án hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững tại huyện Đakrông.
- Thực hiện đầy đủ, kịp thời các chính sách bảo đảm an sinh xã hội, hỗ trợ các gia đình chính sách, người dân vùng khó khăn, vùng bị thiên tai, dịch bệnh, đồng bào dân tộc thiểu số. Phát triển mạnh Quỹ xoá đói giảm nghèo và phong trào ”Đền ơn đáp nghĩa”; thực hiện tốt chính sách hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số, hộ thuộc diện chính sách, hộ nghèo, hộ cận nghèo và ngư dân theo quy định của nhà nước.
- Tập trung mọi nổ lực khắc phục hậu quả thiên tai, nhất là những thiệt hại do cơn bão số 9 gây ra, hỗ trợ thiết thực cho nhân dân khôi phục sản xuất, ổn định đời sống, nhất là trong dịp Tết Nguyên đán Canh Dần. Trong đó, tập trung vào các lĩnh vực kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội (giao thông, thủy lợi, trường học, cơ sở y tế, các công trình nước sạch ở vùng miền núi...); khôi phục và phát triển cây công nghiệp dài ngày; tích cực chuyển đổi cơ cấu cây trồng đối với diện tích đất lúa bị bồi lấp nặng. Đồng thời, khẩn trương chuẩn bị đầu tư thực hiện dự án đã có chủ trương của TW về di dân tại chỗ vùng trũng Hải Lăng, Triệu Phong; rà soát và bổ sung vào quy hoạch tổng thể theo Quyết định 193/QĐ-TTg trên cơ sở đó lập quy hoạch chi tiết và lập dự án di dân, tái định cư vùng lũ quét xã Húc Nghì và một số xã thuộc huyện Đakrông bảo đảm ổn định đời sống và sản xuất lâu dài cho nhân dân.
2. Về công tác dân số, y tế và chăm sóc sức khoẻ nhân dân
- Thực hiện tốt chính sách, pháp luật của Nhà nước về Dân số - KHHGĐ. Đẩy mạnh phong trào xây dựng Làng không có người sinh con thứ 3 trở lên. Ưu tiên tập trung nguồn lực đầu tư và tăng cường chỉ đạo tốt công tác dân số ở các vùng có mức sinh cao, vùng miền núi, vùng biển và ven biển. Triển khai mô hình thí điểm về nâng cao chất lượng dân số; thực hiện đề án kiểm soát dân số vùng biển, đảo và ven biển giai đoạn 2009-2020.
- Tập trung thực hiện tốt các Chương trình mục tiêu quốc gia về y tế; tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, phát triển mạng lưới y tế, nâng cao năng lực, chất lượng khám chữa bệnh và phòng chống dịch bệnh. Phấn đấu đạt 22 giường bệnh/vạn dân, 7 bác sĩ/vạn dân, 65% trạm y tế xã có bác sỹ, 75% trạm y tế xã đạt chuẩn quốc gia về y tế.
- Tăng cường đầu tư, đẩy mạnh xã hội hoá để thực hiện Đề án quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống y tế đến năm 2020 của tỉnh. Thực hiện tốt Đề án đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp bệnh viện đa khoa tuyến huyện và bệnh viện đa khoa khu vực sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2008-2010; Đề án nâng cấp hệ y tế dự phòng, trạm y tế xã; khởi công xây dựng Bệnh viện Đa khoa tỉnh ở địa điểm mới và Bệnh viện Lao.
- Tiếp tục thực hiện tốt công tác y tế dự phòng trên địa bàn tỉnh; đẩy mạnh phòng chống dịch cúm A (H1N1, H5N1) và các dịch bệnh nguy hiểm, không để dịch bệnh lớn xảy ra trên địa bàn. Tăng cường các biện pháp tuyên truyền, kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm; phòng chống tai nạn thương tích; phát triển y tế học đường; thực hiện tốt công tác tiêm chủng mở rộng.
- Thực hiện tốt Nghị định 43/2006/NĐ-CP về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ biên chế, tài chính của các đơn vị sự nghiệp trong ngành y tế; chính sách khám chữa bệnh cho trẻ em dưới 6 tuổi, đối tượng chính sách, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, người dân vùng đặc biệt khó khăn. Tăng cường quản lý nhà nước về hành nghề y dược tư nhân và kinh doanh thuốc, dược phẩm; nâng cao hiệu quả kết hợp quân dân y, nhất là ở vùng biên giới, hải đảo. Thực hiện tốt chính sách thu hút, đào tạo để tăng số lượng và nâng cao chất lượng cán bộ y tế.
3. Phát triển văn hoá, thể thao, du lịch và thông tin, truyền thông
- Tiếp tục xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; gắn chặt nhiệm vụ phát triển văn hóa với phát triển kinh tế; tăng mức hưởng thụ văn hoá cho đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa. Tổ chức tốt các hoạt động văn hóa, thể thao phục vụ các sự kiện chính trị, lịch sử, văn hóa trọng đại của quê hương, đất nước, nhất là Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Đại lễ 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội, Lễ hội Nhịp cầu xuyên Á...
- Triển khai thực hiện Nghị quyết số 05/2009/NQ-HĐND ngày 24/4/2009 của HĐND tỉnh về phát triển VH, TD-TT; xây dựng thiết chế VH, TD-TT cơ sở và phát triển thể thao thành tích cao đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2020. Nâng cao chất lượng phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”. Quan tâm xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, bình đẳng và hạnh phúc; thực hiện tốt việc phòng chống bạo lực gia đình và bình đẳng giới. Thực hiện có hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hoá. Phấn đấu hoàn thành và đưa vào sử dụng công trình Quảng trường và Nhà văn hoá trung tâm tỉnh; tiếp tục bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử, di tích cách mạng, di tích văn hoá.
- Phát triển mạnh phong trào thể thao quần chúng và thể thao thành tích cao. Tổ chức thành công Đại hội TDTT cấp tỉnh lần thứ V, chuẩn bị đội tuyển tham gia Đại hội TDTT toàn quốc lần thứ VI đạt kết quả tốt. Hình thành hệ thống thi đấu thể thao từ cấp xã, cấp huyện, cấp tỉnh, từ đó phát hiện và bồi dưỡng các tài năng thể thao tham gia thi đấu các giải trong nước và quốc tế. Đảm bảo chương trình giáo dục thể chất trong nhà trường.
- Đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án xây dựng các khách sạn, nhà hàng, các khu du lịch, các điểm vụ chơi giải trí để thu hút du khách. Tăng cường quảng bá và xúc tiến du lịch trên địa bàn. Triển khai thực hiện Dự án phát triển du lịch tiểu vùng sông Mêkông mở rộng (ODA).
- Nâng cao chất lượng hoạt động thông tin, báo chí, xuất bản, tăng cường tuyên truyền Đại hội Đảng các cấp; tăng thời lượng phát sóng, mở rộng diện phủ sóng các chương trình phát thanh, truyền hình của tỉnh nhằm đáp ứng nhu cầu hưởng thụ của nhân dân; định hướng dư luận và phục vụ nhiệm vụ chính trị của tỉnh.
- Phát triển bưu chính - viễn thông và internet, phấn đấu đạt doanh thu 350 tỷ đồng; mật độ thuê bao điện thoại đạt 64 thuê bao/100 dân; mật độ thuê bao internet đạt 3,8 thuê bao/100 dân; 95% xã có báo đọc trong ngày (trừ huyện đảo Cồn Cỏ). Tập trung phát triển đồng bộ công nghệ thông tin, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động quản lý nhà nước trong toàn tỉnh; xây dựng và nâng cấp hệ thống thông tin phục vụ sự chỉ đạo, điều hành, quản lý của các cơ quan nhà nước.
4. Bảo vệ, chăm sóc trẻ em, người già và người tàn tật
- Nâng cao nhận thức về vai trò, trách nhiệm của chính quyền, gia đình và xã hội, đảm bảo mọi trẻ em đều được bảo vệ, chăm sóc; được thực hiện các quyền về giáo dục, chăm sóc sức khỏe và phát triển thể lực, trí tuệ. Giảm thiểu tình trạng trẻ em bị xâm hại, bị bạo lực, lang thang, lao động trong điều kiện nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; phòng chống thương tích cho trẻ em. Phấn đấu giảm tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng xuống dưới 20%; 98% trẻ em được tiêm chủng đầy đủ.
- Các cấp, các ngành lồng ghép để thực hiện tốt các quyền của trẻ em theo quy định của công ước Quốc tế và chương trình hành động quốc gia vì trẻ em trong kế hoạch hoạt động của địa phương, đơn vị mình; huy động sự tham gia, hỗ trợ của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước để thực hiện công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em, nhất là trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Nhân rộng mô hình bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em tại cộng đồng, nhất là ở vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; triển khai các đề án can thiệp về trẻ em khuyết tật.
- Tăng cường bảo vệ, chăm sóc người già, người tàn tật và phục hồi chức năng cho người tàn tật. Tổ chức tốt hoạt động mạng lưới dịch vụ xã hội về truyền thông - giáo dục - tư vấn kết hợp hoạt động y tế cộng đồng nhằm chăm sóc, bảo vệ, nâng cao sức khỏe và cải thiện đời sống tinh thần của người già, người tàn tật.
5. Phòng, chống và giảm mạnh các tệ nạn xã hội; bảo đảm ATGT
- Tiếp tục đẩy mạnh công tác xây dựng xã, phường trong sạch, vững mạnh, không có tệ nạn xã hội gắn với cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư”.
- Thực hiện tốt chương trình mục tiêu Quốc gia về phòng chống ma tuý; quản lý chặt chẽ sau cai nghiện và hỗ trợ tạo việc làm cho người sau cai nghiện. Phát huy tinh thần trách nhiệm của các ngành, các cấp, đặc biệt là cấp xã trong phòng chống mại dâm, ma tuý. Tăng cường kiểm tra, xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật đối với các hành vi tổ chức mại dâm, mua bán dâm; tăng cường vai trò giám sát của nhân dân đối với các cơ sở kinh doanh dịch vụ. Triển khai thực hiện Đề án xây dựng Trung tâm chữa bệnh, giáo dục, lao động xã hội của tỉnh.
- Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, phổ biến và triển khai thực hiện Luật Giao thông đường bộ mới; tiếp tục triển khai thực hiện tốt Nghị quyết 32/2007/NQ-CP của Chính phủ về một số giải pháp cấp bách nhằm kiềm chế tai nạn giao thông và ùn tắc giao thông. Tăng cường hệ thống đèn, biển báo hướng dẫn giao thông, tập trung xử lý các điểm đen; phấn đấu giảm mạnh về cả 03 chỉ tiêu: số vụ tai nạn, số người bi thương, số người chết do tai nạn giao thông so với năm 2009.
6. Chính sách dân tộc và công tác tôn giáo:
- Thực hiện tốt chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước; xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc thống nhất để thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới quê hương, đất nước.
- Làm tốt công tác mặt trận, vận động giáo dân hành đạo tiến bộ và giữ vững truyền thống đoàn kết, yêu nước. Tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo hoạt động phù hợp quy định của pháp luật, gắn bó với lợi ích của dân tộc. Củng cố và kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước về tôn giáo, triển khai thực hiện đề án về đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo nhằm đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.
7. Bình đẳng giới, nâng cao vị thế của phụ nữ và công tác thanh niên
- Tiếp tục thực hiện Chương trình hành động thực hiện Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ tỉnh, đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến Luật Bình đẳng giới. Kiện toàn Ban Chỉ đạo Vì sự tiến bộ của phụ nữ tỉnh, xây dựng kế hoạch thực hiện Vì sự tiến bộ của phụ nữ tỉnh giai đoạn 2001-2015.
- Tiếp tục quy hoạch đào tạo cán bộ nữ để tạo nguồn cán bộ kế cận; nâng cao vai trò của phụ nữ trong việc tham gia, quyết định những chủ trương, chính sách lớn của tỉnh và ở các địa phương.
- Thực hiện tốt Chương trình hành động của Tỉnh ủy thực hiện Nghị quyết TW7 (khóa X) ”về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH” và Đề án về Chương trình phát triển Thanh niên giai đoạn 2008-2010, chiến lược đến năm 2020 được HĐND tỉnh thông qua.
- Phát huy vai trò xung kích của lực lượng thanh niên trong công tác xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Triển khai có hiệu quả các dự án phát triển làng thanh niên lập nghiệp ở Tây Vĩnh Linh, đảo Cồn Cỏ, xã Hướng Hiệp (Đakrông). Đẩy mạnh công tác dạy nghề, giải quyết việc làm cho thanh niên; phát triển các hội doanh nghiệp, CLB doanh nghiệp trẻ; hỗ trợ thanh niên sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự, thanh niên người đồng bào dân tộc thiểu số, thanh niên khuyết tật, thanh niên mắc các tệ nạn xã hội được học nghề phù hợp để lập thân, lập nghiệp.
IV. TÀI NGUYÊN, MÔI TRƯỜNG VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG:
- Đưa công tác quản lý đất đai đi vào trật tự, kỷ cương, nền nếp; hoàn thành công tác lập quy hoạch sử dụng đất của tỉnh giai đoạn 2011-2020, kế hoạch sử dụng đất giai đoạn 2011-2015; lập quy hoạch sử dụng đất cấp huyện và cấp xã. Hoàn thành kiểm kê đất đai năm 2010. Cơ bản hoàn thành việc đo đạc, lập bản đồ địa chính, hồ sơ địa chính, cấp giấy CNQSD các loại đất theo Nghị quyết 27/NQ-CP ngày 12/6/2009 của Chính phủ; bổ sung, chỉnh lý hồ sơ để cấp đổi giấy cho các xã có biến động lớn do thực hiện dồn điền, đổi thửa.
- Xây dựng quy hoạch lưu vực sông nội tỉnh. Xúc tiến thành lập Quỹ phát triển đất để tạo nguồn đất sạch phục vụ các dự án đầu tư trên địa bàn tỉnh.
- Tăng cường quản lý, bảo vệ và sử dụng tiết kiệm tài nguyên nước, khoáng sản, rừng. Nâng cao chất lượng hoạt động hệ thống các trạm quan trắc khí tượng thuỷ văn, gắn chặt với các hoạt động KT-XH, QP-AN, phòng chống và giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai gây ra. Triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu.
- Nâng cao nhận thức của cộng đồng về bảo vệ môi trường; đưa nội dung bảo vệ môi trường vào chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển của các ngành, các lĩnh vực, các địa phương, các chương trình, dự án đầu tư. Tích cực phòng ngừa, hạn chế tình trạng ô nhiễm môi trường; khắc phục, xử lý kịp thời, dứt điểm đối với các cơ sở gây ô nhiễm môi trường. Tăng cường công tác quản lý nhà nước, thanh tra, kiểm tra các hoạt động khai thác khoáng sản; công tác giám sát, quan trắc các chỉ tiêu về môi trường tại các cơ sở sản xuất kinh doanh có nguy cơ gây ô nhiễm và các khu vực nhạy cảm, xung yếu; xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm. Đảm bảo tỷ lệ chất thải rắn được xử lý đạt 83%.
- Tổ chức thực hiện Đề tài điều tra thực trạng xói lở và biện pháp khắc phục tại các sông lớn trên địa bàn tỉnh; hiện tượng xâm thực khu vực bãi tắm Cửa Tùng.
V. QUỐC PHÒNG, AN NINH:
- Tăng cường quản lý nhà nước về quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định chính trị và trật tự xã hội; đấu tranh phòng chống tội phạm và các tệ nạn xã hội; gắn chặt nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng - an ninh.
- Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền biên phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân vững mạnh. Thực hiện nghiêm túc các kế hoạch, phương án SSCĐ; kế hoạch phòng thủ của địa phương, kế hoạch diễn tập, nhiệm vụ giáo dục quốc phòng - an ninh, công tác tuyển quân, xây dựng lực lượng. Tăng cường chỉ đạo xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện. Chuẩn bị tốt phương tiện, trang thiết bị phục vụ công tác sẵn sàng chiến đấu, phòng chống lụt bão và cứu hộ cứu nạn. Phối hợp chặt chẽ các lực lượng để nắm chắc tình hình địa bàn, tăng cường tuần tra, kiểm soát chặt chẽ biên giới, biển, đảo và giữ gìn an ninh chính trị, trật tự xã hội trên địa bàn tỉnh. Tiếp tục phối hợp với bạn Lào triển khai dự án tăng dày và tôn tạo mốc quốc giới; đẩy nhanh tiến độ xây dựng hệ thống đường tuần tra biên giới, đường biên phòng, đường đến các cặp cửa khẩu phụ, hệ thống đồn trạm biên phòng. Thực hiện việc bố trí sắp xếp lại dân cư ở khu vực biên giới.
- Chỉ đạo thực hiện tốt Chỉ thị 37/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tiếp tục thực hiện NQ 09/CP và chương trình quốc gia phòng chống tội phạm; chương trình hành động phòng chống ma túy đến năm 2010; chương trình hành động phòng chống buôn bán phụ nữ, trẻ em giai đoạn 2005-2010. Thực hiện có hiệu quả kế hoạch mở đợt cao điểm tấn công truy quét tội phạm trong Tết nguyên đán Canh Dần; kế hoạch, phương án bảo vệ Đại hội Đảng các cấp; bảo vệ an toàn các hoạt động chính trị, đối ngoại và các lễ hội trên địa bàn tỉnh. Đẩy mạnh và phát huy hiệu quả phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, xây dựng và củng cố thế trận an ninh nhân dân vững chắc; tăng cường công tác đối ngoại và hợp tác quốc tế của công an nhân dân trong tình hình mới.
C. MỘT SỐ GIẢI PHÁP TỔNG HỢP CHỦ YẾU
1. Huy động, sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn cho đầu tư phát triển.
- Tiếp tục tranh thủ sự hỗ trợ, giúp đỡ của Chính phủ và các Bộ, Ngành TW để tăng nguồn vốn ngân sách đầu tư trên địa bàn tỉnh, nhất là các nguồn vốn TPCP cho giao thông, thủy lợi, giáo dục, y tế và vận động triển khai thực hiện các dự án ODA; tiếp tục xin ứng vốn kế hoạch 2011 để đảm bảo tiến độ thực hiện các dự án trọng điểm của tỉnh.
- Đẩy nhanh tiến độ thực hiện các công trình, ưu tiên cho các công trình trực tiếp góp phần thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá. Tăng cường kiểm tra, thanh tra việc sử dụng vốn đầu tư ngân sách; khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, chống thất thoát, lãng phí, bảo đảm chất lượng công trình. Thực hiện tốt công tác chuẩn bị đầu tư, chuẩn bị thực hiện dự án, nhất là công tác giải phóng mặt bằng để bàn giao xây dựng cho các công trình. Nâng cao trách nhiệm của chủ đầu tư trong việc quản lý dự án và giải ngân vốn đầu tư. Triển khai thực hiện tốt Quyết định số 18/QĐ-UBND ngày 11/9/2009 của UBND tỉnh về việc phân cấp, ủy quyền quyết định đầu tư, thẩm định dự án đầu tư, lựa chọn nhà thầu các dự án sử dụng nguồn vốn NSNN do địa phương quản lý. Tăng cường giám sát đầu tư cộng đồng theo Quyết định số 80/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
- Các ngành, địa phương có kế hoạch thực hiện cụ thể chủ trương xã hội hóa giáo dục, đào tạo, y tế, văn hóa, thể dục thể thao theo Nghị quyết số 02/2007/NQ-HĐND của HĐND tỉnh để thu hút đầu tư và bổ sung nguồn nhân lực cho tỉnh. Khuyến khích, tạo mọi điều kiện cho các thành phần kinh tế tham gia đầu tư xây dựng các trường học, bệnh viện và các công trình khác trong lĩnh vực văn hóa xã hội. Tiếp tục thực hiện tốt phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” và đấu giá quyền sử dụng đất để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng. Mở rộng các hình thức đầu tư BT, BTO, BOT.
- Định kỳ hàng quý tổ chức giao ban giữa các ngành, địa phương để giải quyết những khó khăn, vướng mắc cho các nhà đầu tư. Rà soát các dự án đã đăng ký đầu tư nhưng chưa thực hiện hoặc thực hiện cầm chừng để có biện pháp xử lý kịp thời.
- Tiếp tục đẩy mạnh hoạt động xúc tiến vận động đầu tư có trọng tâm, trọng điểm; tập trung vào các chương trình, dự án lớn của tỉnh, các nhà đầu tư có tiềm năng và nguồn lực thực sự. Sắp xếp, kiện toàn các bộ phận làm công tác xúc tiến đầu tư, tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến đầu tư và hỗ trợ tích cực hơn cho các nhà đầu tư. Làm tốt công tác thông tin tuyên truyền, giới thiệu về tiềm năng và cơ hội đầu tư của tỉnh; xây dựng và công bố rộng rãi danh mục dự án kêu gọi đầu tư trong và ngoài nước.
2. Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, sản xuất, kinh doanh để tạo điều kiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
- Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, sản xuất, kinh doanh theo hướng tạo sự thuận lợi và bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp, các nhà đầu tư. Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tư nhân, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận các nguồn lực phát triển. Triển khai có hiệu quả Nghị quyết 03/2009/NQ-HĐND của HĐND tỉnh về chính sách ưu đãi và hỗ trợ đầu tư trên địa bàn tỉnh.
- Đẩy nhanh tiến độ xây dựng kết cấu hạ tầng Khu công nghiệp Nam Đông Hà, Khu công nghiệp Quán Ngang, Khu dịch vụ du lịch Cửa Việt - Cửa Tùng, Khu kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo, Khu kinh tế Đông Nam tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư triển khai thực hiện các dự án. Phối hợp chặt chẽ với các đơn vị cung cấp dịch vụ điện, nước, thông tin liên lạc... trên địa bàn để hỗ trợ đầu tư cho các dự án.
- Tiếp tục rà soát, điều chỉnh lại các loại phí, lệ phí thuộc thẩm quyền ban hành của tỉnh phù hợp với tình hình của địa phương và quy định của pháp luật.
- Thực hiện có hiệu quả cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”. Tăng cường công tác quản lý thị trường; chống buôn lậu, chống gian lận thương mại và hoạt động đầu cơ. Thực hiện đồng bộ các giải pháp kiềm chế tốc độ tăng giá, ổn định thị trường tạo điều kiện phát triển sản xuất, kinh doanh và góp phần thực hiện tốt mục tiêu kiềm chế lạm phát của Chính phủ.
- Tiếp tục thực hiện các chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất kinh doanh theo chủ trương của Nhà nước như hỗ trợ giống cây trồng, vật nuôi; hỗ trợ khai hoang phát triển sản xuất; hỗ trợ vận chuyển hàng thiết yếu phục vụ miền núi; hỗ trợ thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh gây ra trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp...
3. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng và nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, đảm bảo khai thác hiệu quả các tiềm năng, lợi thế của tỉnh vào phát triển và phục vụ Đại hội Đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2011-2015.
- Hoàn thành việc lập quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh đến năm 2020 trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt để chuẩn bị cho xây dựng kế hoạch 5 năm 2011-2015 và văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV; hoàn thành quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020 của các huyện, thành phố, thị xã phục vụ cho xây dựng kế hoạch 5 năm 2011-2015 và văn kiện Đại hội Đảng bộ các cấp.
- Tập trung hoàn thiện quy hoạch xây dựng các công trình trọng điểm, có tính quyết định đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, trong đó chú trọng: quy hoạch xây dựng cảng biển nước sâu Mỹ Thủy, quy hoạch xây dựng sân bay lưỡng dụng Quảng Trị, quy hoạch phát triển khu kinh tế biển Đông-Nam Quảng Trị và tích cực đề nghị các Bộ, ngành TW và Chính phủ đưa vào hệ thống quy hoạch của quốc gia.
- Tiến hành rà soát, điều chỉnh, bổ sung các quy hoạch phát triển các ngành, lĩnh vực, sản phẩm cho giai đoạn 2011-2015 nhằm làm cơ sở cho xây dựng kế hoạch 5 năm 2011-2015 của các ngành.
- Tăng cường công tác quản lý và kiểm tra việc thực hiện quy hoạch, bảo đảm việc bố trí đầu tư phù hợp với quy hoạch đã được phê duyệt. Thực hiện nghiêm quy định về công bố công khai các quy hoạch; tạo điều kiện thuận lợi để công dân, doanh nghiệp, các nhà đầu tư trong và ngoài nước dễ dàng nghiên cứu và áp dụng.
4. Tăng cường thực hiện các giải pháp về cơ chế, chính sách để phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
- Triển khai thực hiện tốt Chương trình hành động của Tỉnh ủy thực hiện Nghị quyết TW7 (khóa X) về “Xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Các ngành, địa phương phải lập kế hoạch cụ thể để thực hiện có hiệu quả Nghị quyết của HĐND tỉnh về đào tạo nguồn nhân lực của tỉnh (trọng tâm là đào tạo nghề cho người lao động) giai đoạn 2007-2015.
- Tập trung đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục ở các cấp học, bậc học; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và học ngoại ngữ trong nhà trường; đẩy nhanh tiến độ xây dựng trường, lớp đạt chuẩn. Mở rộng quy mô, nâng cao năng lực và chất lượng đào tạo chuyên nghiệp và dạy nghề. Nâng cao hiệu quả công tác dạy nghề, đáp ứng nhu cầu sử dụng lao động trên địa bàn.
- Đẩy mạnh việc thực hiện chủ trương cho học sinh, sinh viên là con em các gia đình chính sách, hộ nghèo, hộ cận nghèo được vay vốn để đi học. Triển khai thực hiện Đề án về sửa đổi, bổ sung chính sách khuyến khích đào tạo, thu hút và sử dụng cán bộ; chính sách thu hút, đào tạo, đãi ngộ đối với bác sỹ, dược sỹ đại học và cán bộ y tế cơ sở đã được HĐND tỉnh ban hành.
5. Thực hiện chính sách tạo việc làm, giảm nghèo và đảm bảo an sinh xã hội.
- Tăng cường đầu tư ngân sách cho các mục tiêu an sinh xã hội, trong đó chú trọng phát triển các lĩnh vực văn hoá, xã hội, giáo dục, y tế, xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm; bảo đảm phát triển kinh tế gắn liền với việc giải quyết ngày càng tốt hơn các vấn đề văn hoá - xã hội.
- Nhà nước tăng đầu tư và đa dạng hoá các nguồn lực, các phương thức giảm nghèo, hỗ trợ và khuyến khích người nghèo chủ động vươn lên thoát nghèo, bảo đảm giảm nghèo vững chắc. Triển khai mạnh mẽ và có hiệu quả Chương trình hỗ trợ giảm nghèo, trọng tâm là: hỗ trợ đầu tư phát triển sản xuất, hỗ trợ đời sống, hướng dẫn kỹ thuật sản xuất, giải quyết vốn vay ưu đãi, hỗ trợ đào tạo nghề... Đẩy mạnh thực hiện chương trình xây dựng nhà ở cho người nghèo và nhà ở xã hội.
- Thực hiện các chính sách hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số, các đối tượng chính sách, hộ nghèo, hộ cận nghèo, ngư dân và các vùng khó khăn, vùng bị thiên tai. UBND các huyện, thành phố, thị xã tăng cường chỉ đạo thực hiện kịp thời các chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội theo Nghị định 67/2007/NĐ-CP.
- Làm tốt công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi thu hồi đất. Điều chỉnh lương tối thiểu chung và lương tối thiểu trong các doanh nghiệp theo chủ trương của Chính phủ. Chủ động phòng chống, giảm thiểu thiệt hại do thiên tai gây ra và tìm kiếm cứu nạn. Thực hiện đồng bộ các giải pháp để giảm số vụ và số người chết, bị thương do tai nạn giao thông.
- Tăng cường năng lực thực thi các chính sách an sinh xã hội cho cán bộ cơ sở gắn với việc thực hiện cơ chế giám sát của các tổ chức trong hệ thống chính trị và của người dân, bảo đảm các chế độ, chính sách được thực hiện có hiệu quả.
6. Đẩy mạnh cải cách hành chính, phát huy hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước, phát huy dân chủ xã hội, tăng cường phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí
- Tiếp tục đẩy mạnh mạnh cải cách hành chính công, trọng tâm là thủ tục hành chính. Nâng cao vai trò và hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
- Thực hiện nghiêm Luật Cán bộ, công chức; nâng cao năng lực, phẩm chất, tinh thần trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp của cán bộ công chức.
- Đổi mới đồng bộ, tăng cường dân chủ và nâng cao chất lượng công tác cán bộ. Xây dựng các quy chế, quy định cụ thể để quản lý và sử dụng cán bộ thuận lợi cho việc thay thế, miễn nhiệm đối với cán bộ kém năng lực và phẩm chất, không hoàn thành nhiệm vụ, mất uy tín, có sai phạm. Phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm, đề bạt được cán bộ có đức, có tài, trẻ và cán bộ nữ vào các vị trí phù hợp. Chuẩn bị tốt nhân sự cho Đại hội Đảng và xây dựng chính quyền các cấp.
- Hoàn thành chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 - 2010. Cắt giảm tối thiểu 30% các quy định hiện hành về thủ tục hành chính. Tổ chức kiểm soát chặt chẽ việc ban hành và thực hiện các thủ tục hành chính ở tất cả các cấp chính quyền. Đẩy mạnh thực hiện Chính phủ điện tử và ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của các cơ quan nhà nước.
- Đẩy mạnh công tác xây dựng, thẩm định, kiểm tra, rà soát văn bản quy phạm pháp luật của HĐND, UBND các cấp. Thực hiện cải cách tư pháp, cải cách hành chính trong lĩnh vực tư pháp theo đúng lộ trình. Củng cố, kiện toàn và nâng cao chất lượng hoạt động của đội ngũ công chức tư pháp - hộ tịch cấp xã và cán bộ thi hành án cấp huyện. Nâng cao chất lượng hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật.
- Tổ chức thực hiện tốt Luật phòng, chống tham nhũng và Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, giám sát; kiên quyết xử lý nghiêm kỷ luật hành chính và xử lý bằng pháp luật đối với các vụ việc tham nhũng. Phát huy vai trò của nhân dân, các đoàn thể chính trị - xã hội, của báo chí trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu.
- Tiếp tục đẩy mạnh công tác phòng chống tham nhũng; giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và xử lý các vụ việc bức xúc trên địa bàn.
- Nâng cao chất lượng và hiệu quả thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, nhất là ở cơ sở.
- Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước tạo động lực thúc đẩy và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh; xây dựng xã hội văn minh, lành mạnh; bảo vệ vững chắc chủ quyền và an ninh Tổ quốc.
[1]Tốc độ tăng trưởng của cả nước năm 2009 dự kiến tăng khoảng 5,2%.
[2]KV Nông - lâm - ngư nghiệp từ 33,5% giảm còn 29,9%; KV CN-XD từ 31,3% tăng lên 34,7%; KV Dịch vụ từ 35,2% tăng lên 35,4%.
[3]Năng suất lúa bình quân toàn tỉnh ước đạt 44,3 tạ/ha, giảm 2,1 tạ/ha; năng suất sắn ước đạt 165,3 tạ/ha, giảm 5,6 tạ/ha.
[4]Khối lượng gỗ khai thác đạt 83.437m3, tăng 26,3% (+17.399 m3) so với năm 2008; Khai thác củi 288 ngàn ste, song mây 501 tấn, nhựa thông 1815 tấn. Ngoài ra còn có các sản phẩm khác như tranh, mây, măng tươi...
[5]Diện tích rừng được chăm sóc đạt 116% KH.Cháy rừng giảm 03 vụ và giảm 127 ha so với năm 2008.
[6]Trong đó: diện tích nước ngọt 1.775,6 ha tăng 3,6% (+57,32 ha); DT nước lợ 827 ha tăng 2,7% (+23,2 ha).
[7] Trong đó: Sản lượng khai thác là 17.175 tấn, tăng 4,4%; Sản lượng nuôi trồng là 7.327 tấn, đạt 111%KH và tăng 43,6% (+2.224 tấn) so với năm 2008.
[8]Công trình thủy lợi Sa Lung đã hoàn thành; các công trình từ nguồn TPCP đã cơ bản hoàn thành, trong đó hồ Thác Heo đã đưa vào sử dụng; Tiểu dự án chống lũ vùng trũng Hải Lăng đã thực hiện trên 75% khối lượng; DA sửa chữa, nâng cấp hệ thống thủy lợi Nam Thạch Hãn, hồ Đá Mài – Tân Kim đang triển khai.
[9]Diện tích tưới chủ động: 22.500 ha vụ Đông Xuân và 18.500 ha vụ Hè Thu; diện tích được tiêu: 6.500 ha; diện tích ngăn mặn giữ ngọt: 13.500 ha.
[10] Ván gỗ MDF tăng 9,6%; điện thương phẩm tăng 19,8%; điện sản xuất tăng 16,1%; gạch xây dựng tăng 6,6%; nước máy tăng 13,7%; săm xe máy tăng 2,4 %; xi măng tăng 1%. Bên cạnh đó, một số sản phẩm như đá khai thác giảm 2,7%; quặng titan giảm 8,6%; thuỷ sản đông lạnh giảm 8,7%; lốp xe máy giảm 5,3%.
[11]KCN Nam Đông Hà hiện có 16 dự án với tổng mức đầu tư là 1.117,8 tỷ đồng, diện tích thuê đất: 38,48 ha; KCN Quán Ngang hiện có 03 dự án với tổng mức đầu tư là 132,34 tỷ đồng. Cả 02 KCN, hiện có 04 dự án đi vào hoạt động SXKD toàn bộ hoặc một phần của dự án đã được cấp giấy CNĐT; có 14 đang triển khai xây dựng nhà máy (trong đó có 02 dự án vừa hoạt động, vừa xây dựng nhà máy).
[12]Khối lượng hành khách vận chuyển đạt 119% KH và tăng 22,9% so với năm 2008; khối lượng hành khách luân chuyển đạt 73,1% KH và giảm 26,9%. Khối lượng hàng hoá vận chuyển đạt 108,2% KH và tăng 21,2%; khối lượng hàng hoá luân chuyển đạt 74,1% KH và giảm 4,3%.
[13] Đường Trường Kỳ-Mỹ Tú dài 5,025 km, A Túc - A Xy dài 5,127 km, Hồ Xá - Vĩnh Tân dài 8,462km, đường Hướng Lộc dài 7,18 km, đường Hồ Xá - Vĩnh Tú - Vĩnh Thái dài 9,54 km...
[14]Cầu Bắc Phước, đường vào xã Vĩnh Ô dài 13,9 km, đường tỉnh ĐT.573a dài 6,56 km, đường tỉnh ĐT.571 dài 10,4 km, Trung tâm sát hạch cấp giấy phép lái xe, Trung tâm quản lý bến xe và Bến xe Trung tâm...
[15]Cầu Đại Lộc, cầu qua sông Hiếu, đường Nam Bộ, kè luồng Cửa Việt, đường 73 Đông, đường tỉnh 582 và 588.
[16]Cảng biển Mỹ Thủy đang trình Bộ GTVT, Cục Hàng hải xin bổ sung vào quy hoạch nhóm cảng biển số III Trung Trung bộ và đang lập hồ sơ quy hoạch chi tiết, dự kiến hoàn thành vào 30/11/2009. Cảng hàng không sân bay Quảng Trị đã hoàn thành cắm mốc chỉ giới quy hoạch và bàn giao cho UBND huyện Gio Linh quản lý.
[17]Trong đó có 31 dự án đã đi vào hoạt động (2.692 tỷ đồng), 9 dự án đang xây dựng (420 tỷ đồng), 10 dự án đang lập hồ sơ (557 tỷ đồng). Trong tổng số 50 dự án đăng ký có 05 dự án đầu tư 100% vốn nước ngoài (FDI) với tổng mức đầu tư là 24,9 triệu USD (378 tỷ đồng). Có 338 doanh nghiệp, chi nhánh, VP đại diện trong và ngoài nước tham gia hoạt động trên địa bàn và khoảng trên 2.500 hộ SXKD cá thể.
[18] Dự án Hỗ trợ kỷ thuật cấp nước và vệ sinh môi trường tiểu vùng sông Mê Kông và Dự án Phát triển du lịch bền vững tiểu vùng sông Mêkông mở rộng.
[19]Dự án HTKT phát triển toàn diện KT-XH đô thị Đông Hà (ADB), Dự án Chia Sẻ giai đoạn 2 (Thụy Điển), Dự án Bệnh viện vệ tinh bệnh viện TW Huế (Nhật), Dự án XD và cải tạo HT thoát nước, xử lý nước thải (Na-uy).
[20] Điển hình như: Nhà máy Xi măng 60 vạn tấn/năm của Công ty Cổ phần Đầu tư RoLi với tổng vốn ĐT 560 tỷ (đã khởi công); Dự án Phát triển vùng chuyên canh cây Ba Đậu Nam của công ty Cổ phần ĐT và Phát triển Lũng Lô 5 với tổng số vốn ĐT 1.415 tỷ đồng (đã triển khai hoạt động đầu tư XDCB), Công trình Thủy lợi, thủy điện Quảng Trị của Công ty Thủy điện Quảng Trị - Tập đoàn Điện lực Việt Nam với tổng vốn ĐT 1.726 tỷ đồng; Khách sạn Bảo Sơn do Công ty CP Xúc tiến Thương mại và Du lịch Việt Nam làm chủ đầu tư với tổng vốn đâu tư là 6,4 tỷ đồng.
[21]Trong đó: 45 dự án đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh, vốn đầu tư đăng ký là 3.174,788 tỷ đồng, chiếm 13.6% tổng vốn đầu tư đăng ký; 57 dự án đang triển khai xây dựng, vốn đầu tư đăng ký là 5.206 tỷ đồng, chiếm 22.2% tổng vốn đầu tư đăng ký; 8 dự án đã được cấp Giấy CNĐT nhưng chưa triển khai, vốn đầu tư đăng ký là 11.005 tỷ đồng, chiếm 47% tổng vốn đầu tư đăng ký; 26 dự án đang làm thủ tục đầu tư, vốn đầu tư đăng ký 4.033 tỷ đồng, chiếm 17.2 % tổng vốn đầu tư đăng ký.
[22]Dự án Nhà máy chế biến nguyên liệu giấy và cảng chuyên dụng của Công ty TNHH Sun Paper Việt Nam (liên doanh giữa Công ty CP Địa ốc Thương mại và Xây dựng Thành Ngọc và Công ty CP Sun Paper Shandong) với tổng vốn đầu tư đăng ký là 240 tỷ đồng.
[23] Cho vay hỗ trợ lãi suất theo QĐ 131/QĐ-TTg với dư nợ 1.324 tỷ đồng, theo Quyết định 443/QĐ-TTg với dư nợ 309 tỷ đồng, theo Quyết định 497/QĐ-TTg với dư nợ 12 tỷ đồng).
[24] Tỉnh đã hỗ trợ 29.113 hộ nghèo/125.090 khẩu với số tiền 21.683.100 đồng theo Quyết định 81/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Các cơ quan, đơn vị, tổ chức trong và ngoài tỉnh huy động được tổng giá trị quà trên 1,79 tỷ đồng để tặng quà cho các đối tượng chính sách, người nghèo, trẻ em đặc biệt khó khăn, nạn nhân chất độc da cam, cán bộ, chiến sỹ vùng biên giới, hải đảo.
[25] UBND tỉnh đã phê duyệt Đề án xuất khẩu lao động, trên cơ sở đó đã tuyển chọn được 149 lao động, trong số đó có 109 lao động thuộc diện hộ nghèo và dân tộc thiểu số đi học nghề và ngoại ngữ.
[26]Ngoài sự quan tâm của các cấp, các ngành trong tỉnh; các Dự án hỗ trợ trẻ em có hoàn cảnh khó khăn do tổ chức Compassion International (C.I) hỗ trợ gần 1,9 tỷ đồng; Chương trình “Vòng tay nhân ái” đã vận động được 681,726 triệu đồng để hỗ trợ cho người nghèo và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn và phối hợp với nhiều tổ chức khác để chăm lo cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn.
[27]Liên tục trong các ngày từ 27/9 đến 30/9/2009, Lãnh đạo Tỉnh tổ chức các đoàn công tác về 09 huyện, thị xã, thành phố để kiểm tra, đôn đốc và cùng cơ sở phòng, chống bão. Đã huy động hơn 15.000 lượt CB, CS của các LLVT, TN xung kích, DQTV để thực hiện hỗ trợ di dời dân, cứu hộ và giúp dân khắc phục hậu quả bão, lụt. Điều động 20 xe tải, 05 xe cơ động, 03 tàu, 15 ca nô lớn, 25 thuyền to và hàng trăm thuyền ở các địa phương để đưa dân sơ tán đến nơi an toàn.
[28]Tỉnh đã khẩn cấp hỗ trợ cho nhân dân 228.000 gói Mỳ ăn liền, 50 cơ số thuốc, 500 kg hóa chất xử lý nước sinh hoạt, 200 thùng hàng dụng cụ gia đình và các loại hàng hoá, nước sạch… UBND tỉnh đã trích ngân sách 3 tỷ đồng, kết hợp với nguồn Chính phủ hỗ trợ 55 tỷ đồng và 2.900 tấn gạo phân bổ ngay cho các địa phương để cứu đói và khắc phục hậu quả.
Ban vận động tỉnh (UBMT TQVN tỉnh) đã tổ chức tiếp nhận, phân bổ, cấp phát trên 9.905 triệu đồng và 61,72 tấn gạo, 2.123 thùng mì tôm, gần 13 tấn quần áo, 798,5 kg sách giáo khoa cũ, 153 nồi nhôm các loại; 100 cái chăn và 3.150 xuất quà trị giá trên 350 triệu đồng do các tổ chức, cá nhân trong và ngoài tỉnh ủng hộ. Hội Chữ thập đỏ tỉnh đã tiếp nhận và cấp phát nguồn tiền, hàng với tổng giá trị trên 15.017 triệu đồng do các tổ chức trong và ngoài nước ủng hộ nhân dân khắc phục hậu quả bão lụt.
[29] Tính ngày 24/10/2009, toàn tỉnh đã có 54 trường hợp bị nhiễm cúm A (H1N1).
[30] Các hoạt động mừng Đảng-mừng Xuân Kỷ Sửu, kỷ niệm 34 năm giải phóng miền Nam, 119 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, 50 năm đường Trường Sơn huyền thoại, 55 ngày chiến thắng Điện Biên Phủ, 80 năm thành lập Công đoàn VN, 62 năm ngày TB-LS, 55 năm ngày truyền thống huyện Vĩnh Linh, 200 năm lỵ sở Quảng Trị, chào mừng Quốc khánh 2/9 và sự kiện thành lập Thành phố Đông Hà, Hội thảo 40 năm sự kiện Trung Lào..
[31] Di tích khu Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, Di tích sân bay Tà Cơn giai đoạn 2, Quảng trường và nhà văn hoá Trung tâm tỉnh, nhà tưởng niệm và bến thảo hoa Thạch Hãn...
[32] Có 16 VĐV đổi tuyển năng khiếu, 25 VĐV đội tuyển trẻ và 36 VĐV đội tuyển tỉnh; trong đó có 06 VĐV được gọi vào đội tuyển Quốc gia và đội tuyển trẻ Quốc gia, 16 VĐV được gửi đi đào tạo tại các tỉnh bạn.
[33]Đoàn thể thao của tỉnh xếp thứ 3 toàn đoàn với 72 Huy chương vàng, 53 Huy chương bạc và 31 Huy chương đồng (xếp sau đoàn thể thao của TP. Hồ Chí Minh và TP. Hà Nội).
[34]Đoàn thể thao của tỉnh đã giành được 8 Huy chương vàng và 2 Huy chương bạc.
[35] Gồm 106 Huy chương vàng, 87 Huy chương bạc và 59 Huy chương đồng; trong đó có 6 HCV, 4 HCB, 1 HCĐ quốc tế. Đặc biệt, VĐV Đào Xuân Tuyến đạt 1 HCV môn lặn tại Đại hộ thể thao trong nhà châu Á (Asia Indoor Games) năm 2009.
[36] Đến hết tháng 9/2009, toàn tỉnh có 619 trạm thu phát sóng điện thoại di động (BTS); 345.078 thuê bao thuê bao điện thoại (115.983 thuê bao cố định, 30.776 thuê bao di động trả sau, 198.319 thuê bao di động trả trước), đạt mật độ: 63 thuê bao/100 dân; 15.557 thuê bao Internet.
[37] Tổng số máy tính đang hoạt động trên địa bàn là 35.000 cái, trong đó: trong các cơ quan nhà nước: 1.500 cái (có 1.000 cái kết nối Internet), các doanh nghiệp: 3.000 cái.
[38]Hiện nay 100% trường THPT có phòng máy vi tính từ 25-60 máy được nối mạng LAN; 50% các trường THCS và 20% trường tiểu học có phòng máy (từ 10-20 máy). Toàn ngành GD-ĐT hiện có 143 phòng máy với 2.594 máy vi tính phục vụ dạy – học, trong đó có 1200 máy tính kết nối Internet.
[39] Trong đó có 36 trường Mầm non (đạt 26%), 125 trường Tiểu học (đạt 78,1%), 29 trường THCS (đạt 26,8%), 03 trường THPT (đạt 10%).
[40] Giáo viên Mầm non đạt 93,3%, Mẫu giáo đạt 97,6%, TH đạt 97,17%; THCS đạt 97,76%; THPT đạt 99,82%.
[41]Đối với các tổ chức: Đã cấp giấy CNQSDĐ cho 1.431 trường hợp (là số lượng lớn nhất trong một năm kể từ trước đến nay), ước đến hết năm 2009, số giấy được cấp trong năm sẽ chiếm 50% tổng số giấy đã cấp từ trước tới nay. Đối với cá nhân, hộ gia đình: đến nay đất SXNN đã cấp 156.232 giấy (chiếm 98% số hộ cần cấp). Đất ở khu vực đô thị đã cấp 38.031 giấy (chiếm trên 85% số hộ cần cấp), đất ở KV nông thôn đã cấp 96.062 giấy (chiếm 90% số hộ cần cấp). Đất lâm nghiệp đã cấp 7.193 giấy.
[42]UBND tỉnh đã ban hành quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của 12 Sở và 05 Chi cục. Thành lập 10 tổ chức, hợp nhất 2 tổ chức; xếp hạng, đổi tên, chuyển chức năng nhiệm vụ 13 tổ chức, giải thể 01 tổ chức. Cho phép thành lập 26 tổ chức Hội và 02 câu lạc bộ.
[43]Trong năm 2009 đã tuyển dụng 101 trường hợp (có 7 thạc sỹ, 01 bác sỹ, 05 người tốt nghiệp đại học chính quy loại giỏi. Đã mở được 42 lớp đào tạo, bồi dưỡng cho 3.405 lượt CBCCVC về LLCT, QLNN chương trình chuyên viên chính và chuyên viên, tiếng Anh... trong đó đáng chú ý là đã đào tạo trung cấp quản lý kinh tế cho 43 cán bộ chủ chốt cấp xã là người dân tộc thiểu số; đào tạo trung cấp cho 113 cán bộ công chức cấp xã, đào tạo sau đại học cho 30 CBCC và đào tạo tiếng Anh chương trình IELTS cho 74 CBCC cấp tỉnh và huyện.
[44]Trong năm 2008, HĐND tỉnh đã ban hành 10 Nghị quyết chuyên đề: (1) Quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH tỉnh Quảng Trị đến năm 2020, (2), Về quy định chính sách ưu đãi và hỗ trợ đầu tư trên địa bàn tỉnh Quảng Trị, (3) Về sửa đổi, bổ sung chính sách khuyến khích đào tạo, thu hút và sử dụng cán bộ; chính sách thu hút, đào tạo, đãi ngộ đối với bác sỹ, dược sỹ đại học và cán bộ y tế cơ sở, (4) Về phát triển sự nghiệp văn hóa, thể dục-thể thao; xây dựng thiết chế văn hóa, thể dục-thể thao cơ sở và phát triển thể thao thành tích cao đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2020, (5) Về mức phụ cấp đối với cán bộ không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn và cán bộ thôn, bản, khu phố, (6) Về tổ chức và chế độ phụ cấp đối với lực lượng bảo vệ dân phố ở phường, thị trấn, (7) Về tổ chức mạng lưới thú y cơ sở; phát triển một số giống cây trồng, vật nuôi và giống thủy sản chủ lực giai đoạn 2010-2015 và phát triển chăn nuôi tỉnh Quảng Trị giai đoạn 2010-2015, định hướng đến năm 2020, (8) Về một số chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển kinh tế tập thể tỉnh Quảng Trị giai đoạn 2009-2015, (9) Về thành lập Trung tâm Chữa bệnh-Giáo dục-Lao động xã hội tỉnh Quảng Trị, (10) Về việc đặt tên đường tại thị trấn Ái Tử, huyện Triệu Phong và đặt tên, điều chỉnh tên đường, phố, công trình công cộng tại thị xã Quảng Trị...
[45]Phấn đấu vận động, ký kết hiệp định đối với 5 dự án ODA với tổng vốn cam kết đầu tư khoảng 19,5 triệu USD (tương đương 331,5 tỷ đồng). Thực hiện các chương trình, dự án ODA là 476,425 tỷ đồng, trong đó vốn nước ngoài là 360,332 tỷ đồng và vốn đối ứng là 116,093 tỷ đồng. Vận động, ký kết thoả thuận đối với các dự án NGO với tổng vốn cam kết đạt 5 triệu USD (tương đương 102 tỷ đồng), trong đó vốn nước ngoài là 4 triệu USD và vốn đối ứng là 1 triệu USD. Thực hiện 100% vốn cam kết năm 2010. Vốn FDI đăng ký đạt 20 triệu USD; thực hiện vốn FDI đạt 7 triệu USD. Vốn đầu tư trong nước đăng ký đạt 4.776 tỷ đồng; vốn thực hiện ước đạt 1.000 tỷ đồng.
[46]Bao gồm: Dự án thoát nước và vệ sinh môi trường thị xã Quảng Trị (Na-uy), Dự án Chia sẽ giai đoạn 2 (Thụy điển), Dự án trang thiết bị trường dạy nghề tỉnh (Hàn Quốc), Dự án phát triển toàn diện thành phố Đông Hà (ADB), Dự án cấp nước và vệ sinh môi trường vùng Mêkông (ADB), Dự án bệnh viện vệ tinh Bệnh viện Trung ương Huế (Nhật Bản), Dự án hỗ trợ ngành y tế tỉnh Quảng Trị (Italia), Dự án hỗ trợ kỷ thuật phát triển các đô thị hành lang thuộc khu vực tiểu vùng sông Mêkông (ADB).
[47]Bao gồm: Dự án thoát nước và vệ sinh môi trường thị trấn Ái Tử (Na Uy), Dự án phát triển cơ sở hạ tầng và đời sống các xã nghèo (WB), Dự án phát triển nông thôn tổng hợp vùng biên giới cửa khẩu tỉnh (ADB), Dự án phát triển nông thôn - XĐGN huyện Cam Lộ (Luxembourg), các dự án thuộc nguồn vốn JICA (Nhật Bản).
[48] Chương trình phổ cập mẫu giáo 5 tuổi, Đề án hiện đại hóa trường chuyên, Đề án củng cố và phát triển các trường dân tộc nội trú, Đề án xây dựng nhà ở cho học sinh trường phổ thông dân tộc bán trú.