Skip Ribbon Commands
Skip to main content
Ngày 02/01/2023-15:57:00 PM
Tình hình kinh tế - xã hội quý IV và năm 2022 của tỉnh Quảng Trị

Kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Trị năm 2022 diễn ra trong bối cảnh triển vọng kinh tế thế giới trở nên khó khăn hơn khi xung đột quân sự giữa Nga và U-crai-na kéo dài; lạm phát duy trì ở mức cao, nhất là ở châu Âu và Mỹ; xu hướng tăng lãi suất, thu hẹp chính sách tiền tệ, tài khóa ở nhiều quốc gia; thời tiết diễn biến bất thường ở nhiều châu lục…Các tổ chức quốc tế dự báo tăng trưởng toàn cầu đạt thấp từ 2,8-3,2% giảm so với các dự báo đưa ra trước đó. Trong nước, kinh tế vĩ mô tiếp tục duy trì ổn định, lạm phát trong tầm kiểm soát, các cân đối lớn được đảm bảo; chính sách tiền tệ, tài khóa điều hành chủ động, linh hoạt và hiệu quả. Môi trường đầu tư kinh doanh cải thiện tích cực, an sinh xã hội được đảm bảo, góp phần phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, tạo sự tin tưởng, ủng hộ của nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp.

Tại Quảng Trị, những tháng đầu năm dịch COVID-19 với biến thể mới Omicron diễn biến phức tạp đã ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh và đời sống người dân; thời tiết cực đoan, gây mưa lũ trái mùa làm thiệt hại nặng nề đến sản xuất cây hàng năm vụ Đông Xuân; giá nguyên, nhiên, vật liệu tăng cao đã tác động tiêu cực đến hầu hết ngành kinh tế; nhiều dự án có kế hoạch vốn giao khá lớn nhưng chậm được giải ngân do nhiều nguyên nhân đã ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện và tình hình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh…

Quán triệt phương châm hành động của Chính phủ“Đoàn kết, kỷ cương, chủ động thích ứng, an toàn hiệu quả, phục hồi phát triển”và Chủ đề của tỉnh là“Trách nhiệm, kỷ cương - Thích ứng an toàn - Thúc đẩy tăng trưởng”,UBND tỉnh đã chỉ đạo quyết liệt các Sở, ngành, địa phương thực hiện đồng bộ, hiệu quả các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp đã đề ra trong Chương trình hành động của UBND tỉnh thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 08/01/2022 của Chính phủ; Kết luận số 175-KL/TU ngày 06/12/2021 của Tỉnh ủy và Nghị quyết số 149/2021/NQ-HĐND ngày 09/12/2021 của HĐND tỉnh về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2022. Năm 2022, cả hệ thống chính trị, các tầng lớp nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp đã nổ lực phấn đấu, hành động quyết liệt với quyết tâm thực hiện đạt kết quả cao nhất các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội.

Tình hình kinh tế - xã hội quý IV và năm 2022 tỉnh Quảng Trị đạt được những kết quả như sau:

I. PHÁT TRIỂN KINH TẾ

1. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trên địa bàn

Tổng sản phẩm trên địa bàn năm 2022 ước tính tăng 7,17% so với năm trước, cao hơn mức tăng 6,61% của năm 2021. Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 1,09%, đóng góp 0,23 điểm phần trăm mức tăng trưởng chung; khu vực công nghiệp - xây dựng tăng 12,69%, đóng góp 3,35 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ tăng 7,06%, đóng góp 3,39 điểm phần trăm; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 4,22%, đóng góp 0,20 điểm phần trăm.

Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 1,09% so với năm trước, đây là năm có mức tăng thấp nhất trong 6 năm trở lại đây. Trong năm 2022, dịch COVID-19 được kiểm soát, nhu cầu gỗ cho công nghiệp chế biến và xuất khẩu tăng, giá gỗ nguyên liệu tăng nên sản lượng gỗ khai thác tăng khá; diện tích rừng khai thác tăng, thời tiết thuận lợi cho trồng rừng nên diện tích rừng trồng mới tập trung tăng…Ngành lâm nghiệp tăng trưởng cao nhất 11,38%, đóng góp 0,43 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung. Ngành thuỷ sản gặp một số khó khăn như: một số tàu đánh bắt hải sản bị hạn chế vùng ngư trường do thực hiện khai thác IUU; giá xăng dầu tăng cao làm cho chi phí một chuyến biển tăng, trong khi giá bán hải sản không tăng khiến ngư dân thua lỗ, nhiều tàu cá nằm bờ do vươn khơi không đủ bù đắp chi phí đã ảnh hưởng đến sản lượng thuỷ sản…đã làm cho ngành thuỷ sản giảm 0,85% so với năm trước, làm giảm 0,03 điểm phần trăm mức tăng trưởng chung. Ngành nông nghiệp, chăn nuôi mặc dù giá thức ăn có tăng nhưng giá con giống giảm, dịch bệnh được kiểm soát nên tiếp tục phục hồi và tăng trưởng khá, sản lượng thịt hơi xuất chuồng tăng 16,62%. Tuy nhiên, sản xuất cây hàng năm vụ Đông Xuân thời tiết cực đoan; gây mưa lớn dị thường, trái quy luật làm thiệt hại nặng nề đến sản xuất; vụ Hè Thu, mặc dù các địa phương có nhiều nỗ lực trong chỉ đạo sản xuất để bù đắp những thiệt hại trong vụ Đông Xuân nhưng năng suất và sản lượng hầu hết các loại cây hàng năm năm 2022 đều giảm so với năm trước; trong đó, sản lượng lương thực có hạt giảm 15,03%. Cây lâu năm, các loại cây chủ lực của tỉnh như: cao su, cà phê, hồ tiêu…cho sản lượng cao hơn năm trước, nhưng do giá vật tư đầu vào tăng đã làm cho giá thành sản xuất tăng lên. Ngành nông nghiệp giảm 1,27% so với cùng kỳ năm trước, làm giảm 0,18 điểm phần trăm mức tăng trưởng chung.

Khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 12,69% so với năm trước, thấp hơn mức tăng 14,47% của năm 2021. Ngành công nghiệp tăng 20,23%, đóng góp 2,56 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung; trong ngành công nghiệp, động lực tăng trưởng chủ yếu trong năm 2022 là ngành sản xuất và phân phối điện tăng 87,79%, đóng góp 1,96 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung do có 17 dự án điện gió hoàn thành đi vào vận hành thương mại cuối năm 2021. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 7,09%, đóng góp 0,62 điểm phần trăm; thấp hơn mức tăng 9,12% của năm 2021. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo có vai trò hết sức quan trọng; giữ cho tăng trưởng ổn định và bền vững; từ trước đến nay ngành này có vai trò dẫn dắt ngành công nghiệp tỉnh nhà phát triển, ngành này sử dụng nhiều lao động nên dễ bị ảnh hưởng do dịch COVID-19; tình hình đầu tư vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong những năm trở lại đây rất hạn chế; hàng năm có rất ít dự án đầu tư vào ngành này và thường là quy mô nhỏ; không có dự án có quy mô lớn, tạo động lực cho ngành công nghiệp phát triển; vì vậy, hiện nay ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tốc độ tăng trưởng đã chững lại. Ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải rác quy mô nhỏ, tăng 4,66%, đóng góp 0,02 điểm phần trăm. Ngành khai khoáng do công tác quản lý về khai thác khoáng sản ngày càng chặt chẽ nên giảm 3,78%, làm giảm 0,04 điểm phần trăm. Ngành xây dựng, tăng 5,74%, đóng góp 0,79 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung; đây là mức tăng thấp nhất trong 5 năm trở lại đây. Nguyên nhân chủ yếu là do, dịch COVID-19 kéo dài một bộ phận dân cư gặp khó khăn; ngân hàng siết chặt tín dụng bất động sản, lãi suất cho vay tăng; hơn nữa, giá vật liệu xây dựng tăng …đã làm cho tăng trưởng của ngành xây dựng tăng chậm lại.

Khu vực dịch vụ tăng 7,06%, đóng góp 3,39 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung; đây là mức tăng cao nhất trong 4 năm trở lại đây. Khu vực dịch vụ năm 2022 tăng trưởng cao hơn mức tăng của 3 năm trước đó do trong 2 năm 2020, 2021 dịch COVID-19 khu vực này bị ảnh hưởng nặng nề nhất nên tăng trưởng thấp, năm 2022 dịch COVID-19 được đẩy lùi, khu vực này phục hồi mạnh mẽ nhất. Đóng góp của một số ngành dịch vụ thị trường có tỷ trọng lớn vào mức tăng trưởng chung như sau: bán buôn, bán lẽ tăng 8,65%, đóng góp 0,79 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung; thông tin và truyền thông tăng 7,04%, đóng góp 0,60 điểm phần trăm; dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 19,08%, đóng góp 0,47 điểm phần trăm; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 8,70%, đóng góp 0,43 điểm phần trăm; vận tải kho bãi tăng 8,94%, đóng góp 0,22 điểm phần trăm…Các ngành dịch vụ phi thị trường như: hoạt động của Đảng cộng sản, tổ chức chính trị xã hội, quản lý nhà nước, an ninh quốc phòng chỉ tăng 3,99%, giáo dục đào tạo chỉ tăng 4,98%…do biên chế ổn định, chưa tăng lương cơ sở cho công chức, viên chức; ngành y tế, trợ giúp xã hội giảm 15,65% do dịch COVID-19 được đẩy lùi nên chi cho y tế giảm…

Về cơ cấu kinh tế năm 2022, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 20,26%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 29,23%; khu vực dịch vụ chiếm 45,99%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 4,52% (cơ cấu tương ứng của năm 2021 là: 21,54%; 26,81%; 47,01%; 4,64%).

Quy mô nền kinh tế năm 2022 ước tính đạt 40.822,51 tỷ đồng, GRDP bình quân đầu người ước tính đạt 62,83 triệu đồng, tăng 11,18% so với năm 2021.

2. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản

Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản năm 2022 diễn ra trong điều kiện thời tiết không được thuận lợi, vụ Đông Xuân thời tiết cực đoan gây mưa lũ trái mùalàm thiệt hại nặng nề đến sản xuất cây hàng năm nên năng suất và sản lượng hầu hết các loại cây hàng năm đều giảm so với năm trước. Cây lâu năm diện tích tương đối ổn định, giá bán sản phẩm có tăng, công tác thâm canh được quan tâm nên năng suất và sản lượng có tăng. Ngành chăn nuôi mặc dù giá thức ăn chăn nuôi có tăng nhưng giá con giống giảm, dịch bệnh ít xảy ra nên tiếp tục phục hồi và tăng trưởng khá. Ngành thuỷ sản, một số tàu đánh bắt hải sản bị hạn chế vùng ngư trường do thực hiện khai thác IUU; giá xăng dầu tăng làm cho chi phí tăng, thu nhập giảm nên nhiều tàu cá nằm bờ đã ảnh hưởng đến sản lượng thuỷ sản. Ngành lâm nghiệp, nhu cầu gỗ cho chế biến và xuất khẩu tăng, giá gỗ nguyên liệu tăng nên sản lượng khai thác tăng…

2.1. Nông nghiệp

a. Trồng trọt

a1. Cây hàng năm

* Tiến độ sản xuất nông nghiệp đến ngày 15/12/2022

Tính đến 15/12/2022, toàn tỉnh đã gieo trồng được 82.660,8 ha cây hàng năm, tăng 0,65% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: cây lúa gieo cấy 50.459,1 ha, tăng 0,42% (lúa Đông Xuân 26.051,2 ha, tăng 0,41%; lúa Hè Thu 22.798,9 ha, tăng 0,97%; lúa Mùa 1.609 ha, giảm 6,56%); cây ngô gieo trồng 4.505,5 ha, tăng 2,73%; khoai lang 1.434,7 ha, giảm 5,13%; sắn 12.779,5 ha, tăng 2,75%; lạc 3.142,3 ha, giảm 4,47%; rau các loại 5.417 ha, tăng 1,24%; đậu các loại 1.604,9 ha, giảm 1,18%; cây ớt cay 444,9 ha, giảm 0,71%...Diện tích cây lúa tăng, một số diện tích bị sạt lở, bồi lấp do bão lũ liên tiếp trong những năm trước được khắc phục đưa vào sản xuất; một số địa phương đưa vào sản xuất thêm một số diện tích tận dụng được nguồn nước trong vụ Hè Thu để bù đắp thiệt hại trong vụ Đông Xuân. Diện tích khoai lang giảm do sản xuất kém hiệu quả chuyển sang trồng các loại cây khác. Diện tích lạc giảm do vụ Đông Xuân mưa kéo dài không gieo trồng được. Diện tích ngô tăng do vụ Hè Thu được khuyến khích trồng để bù đắp thiệt hại trong vụ Đông Xuân và nguồn giống được hổ trợ từ đầu năm. Diện tích sắn tăng do giá bán tăng nên người dân chuyển diện tích một số cây trồng khác kém hiệu quả sang trồng sắn…

* Sơ bộ kết quả sản xuất cây hàng năm năm 2022

Về năng suất:Vụ Đông Xuân năm 2021-2022, thời tiết cực đoan gây mưa lũ trái mùa làmthiệt hại nặng nề cho sản xuất cây hàng năm, nên năng suất hầu hết các loại cây hàng năm đều giảm so với năm trước. Năng suất lúa đạt 46,9 tạ/ha, giảm 8,7 tạ/ha so với cùng kỳ năm trước (lúa Đông Xuân đạt 41,5 tạ/ha, giảm 19,5 tạ/ha; lúa Hè Thu đạt 55,6 tạ/ha, tăng 2,8 tạ/ha; lúa Mùa 10,7 tạ/ha, tăng 0,1 tạ/ha); năng suất ngô 29,7 tạ/ha, giảm 4,8 tạ/ha; năng suất khoai lang 61,3 tạ/ha, giảm 19,8 tạ/ha; năng suất sắn 159,5 tạ/ha, giảm 0,5 tạ/ha; năng suất lạc 17,7 tạ/ha, giảm 5,9 tạ/ha; năng suất rau các loại 93,7 tạ/ha, giảm 12,4 tạ/ha; năng suất đậu các loại 9,1 tạ/ha, giảm 2,2 tạ/ha; năng suất cây ớt cay 39,4 tạ/ha, giảm 16,1 tạ/ha…

Về sản lượng:Do năng suất giảm nên sản lượng hầu hết các loại cây hàng năm đều giảm. Tổng sản lượng lương thực có hạt năm 2022 đạt 250.195,4 tấn, giảm 15,03% (-44.243,6 tấn) so với năm trước; trong đó: sản lượng lúa 236.607 tấn, giảm 15,29%; sản lượng ngô 13.375,4 tấn, giảm 11,53%. Sản lượng khoai lang 8.799,6 tấn, giảm 28,26%; sản lượng sắn 203.833 tấn, tăng 2,39%; sản lượng lạc 5.553,1 tấn, giảm 28,39%; sản lượng rau các loại 50.736,4 tấn, giảm 10,63%; sản lượng đậu các loại 1.459,6 tấn, giảm 20,45%; sản lượng ớt cay 1.751,7 tấn, giảm 29,59%...

a2. Cây lâu năm

Diện tích cây lâu năm tương đối ổn định. Năm nay giá một số sản phẩm cây lâu năm chủ lực của tỉnh như: cao su, cà phê, hồ tiêu…được giá, công tác thâm canh được tăng cường nên năng suất và sản lượng có tăng so với năm trước.

Tổng diện tích cây lâu năm hiện có là 31.875,4 ha, tăng 0,15% so với cùng thời điểm năm trước; trong đó: cây cao su 18.711,6ha, giảm 0,49%; cây cà phê 3.943,4ha, giảm 2,74%; cây hồ tiêu 2.207ha, tăng 0,45%; câychuối 4.253,4ha, tăng 2,69%; câydứa 227,2ha, giảm 3,40%...

Sản lượngthu hoạch năm 2022: cao su 21.609 tấn, tăng 5,19% so với năm trước; cây cà phê 4.273,6 tấn, tăng 7,82%; hồ tiêu 2.027,5 tấn, tăng 42,35%; chuối 61.620 tấn, tăng 0,30%; dứa 1.893,4 tấn, tăng 0,60%...Sản lượng cây hồ tiêu năm nay tăng cao do năm trước cây hồ tiêu mất mùa.

b. Chăn nuôi

Ước tính đến 31/12/2022, đàn trâu có 20.521 con, giảm 1,16% so với cùng thời điểm năm 2021; đàn bò có 55.980 con, giảm 1,52%; đàn lợn có 204.504 con, tăng 19,75%; đàn gia cầm có 3.858,2 nghìn con, tăng 7,47%, trong đó: đàn gà 3.090 nghìn con, tăng 8,58%. Đàn trâu, bò tương đối ổn định, hiện nay ngành nông nghiệp đang nổ lực nâng cao chất lượng đàn trâu, bò; phát triển chăn nuôi trâu, bò theo hướng nuôi nhốt, vỗ béo. Chăn nuôi lợn tiếp tục đà phục hồi do giá lợn giống giảm, giá thịt lợn hơi xuất chuồng có tăng, dịch bệnh được kiểm soát; chăn nuôi gia cầm phát triển tốt, đáp ứng nhu cầu thị trường.

Sản lượng thịt hơi xuất chuồng tháng 12/2022 ước tính đạt 4.907 tấn, tăng 12,07% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: thịt trâu 77 tấn, giảm 1,91%; thịt bò 252 tấn, tăng 1,61%; thịt lợn 3.180 tấn, tăng 17,56%; thịt gia cầm 1.398 tấn, tăng 3,79%. Sản lượng trứng gia cầm 3.850 nghìn quả, giảm 0,26%...Tính chung quý IV/2022, sản lượng thịt hơi xuất chuồng ước tính đạt 14.403 tấn, tăng 16,13% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: thịt trâu 230 tấn, tăng 3,70%; thịt bò 727,2 tấn, tăng 2,16%; thịt lợn 9.142,7 tấn, tăng 19,67%; thịt gia cầm 4.212,3 tấn, tăng 12,83%. Sản lượng trứng gia cầm 14.866,7 nghìn quả, giảm 0,02%...Năm 2022, sản lượng thịt hơi xuất chuồng ước tính đạt 56.006 tấn, tăng 16,62% so với năm trước; trong đó: thịt trâu 921 tấn, giảm 0,67%; thịt bò 3.040 tấn, tăng 2,15%; thịt lợn 34.873 tấn, tăng 24,03%; thịt gia cầm 16.809 tấn, tăng 7,61%. Sản lượng trứng gia cầm 49.579,5 nghìn quả, tăng 3,19%...

Tình hình dịch bệnh:Hiện nay, trên địa bàn tỉnh tình hình dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm đã được kiểm soát, không ghi nhận các ổ dịch mới phát sinh.

2.2. Lâm nghiệp

Năm 2022, dịch COVID-19 được kiểm soát cửa khẩu biên giới Việt Lào thông thương trở lại, nhu cầu gỗ cho chế biến và xuất khẩu tăng, giá gỗ nguyên liệu tăng nên sản lượng gỗ khai thác tăng khá.

Diện tích rừng trồng mới tập trung tháng 12/2022 ước tính đạt 824 ha, giảm 23,06% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng gỗ khai thác 24.035 m3, tăng 18,96%; sản lượng củi khai thác 16.917 ster, tăng 11,41%...Tính chung quý IV/2022, diện tích rừng trồng mới tập trung ước tính đạt 3.045 ha, giảm 9,18% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán 1.087 nghìn cây, tăng 13,47%; sản lượng gỗ khai thác 79.560 m3, giảm 32,31%%; sản lượng củi khai thác 27.150 ster, tăng 14,33%...Năm 2022, diện tích rừng trồng mới tập trung ước tính đạt 10.100 ha, tăng 2,75% so với năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán 2.800 nghìn cây, tăng 7,03%; sản lượng gỗ khai thác 1.105.000 m3, tăng 17,05%; sản lượng củi khai thác 203.000 ster, tăng 11,75%...

Năm 2022, trên địa bàn tỉnh không xảy ra cháy rừng. Phát hiện 120 vụ vi phạm lâm luật, xử lý vi phạm 89 vụ, phạt tiền 602,13 triệu đồng, tịch thu 79,12 m3gỗ các loại, 75 cá thể động vật rừng với trọng lượng 140,7 kg và 10,7 ster củi... Nhìn chung, các hành vi vi phạm pháp luật lâm nghiệp trên địa bàn đã được phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời, nghiêm minh theo quy định.

2.3. Thủy sản

Năm 2022, ngành thuỷ sản gặp một số khó khăn, một số tàu đánh bắt hải sản bị hạn chế vùng ngư trường do thực hiện khai thác IUU; giá xăng dầu liên tục tăng cao khiến ngư dân thua lỗ, nhiều tàu cá nằm bờ do vươn khơi không đủ bù đắp chi phí đã ảnh hưởng đến sản lượng thuỷ sản.

Số tàu thuyền có động cơ tham gia hoạt động khai thác hải sản có 2.126 chiếc, giảm 6,75% so với năm trước với công suất 116.172 CV, giảm 2,45%; trong đó, tàu thuyền có công suất từ 90 CV trở lên có 195 chiếc, giảm 3,94% với công suất 90.762 CV, giảm 3,16%.

Diện tích nuôi trồng thủy sản năm 2022 ước tính đạt 3.469,1 ha, giảm 5,09% so với năm trước; trong đó, nuôi cá 2.263,2 ha, tăng 0,61%; nuôi tôm 1.175 ha, giảm 14,48%; nuôi thủy sản khác 30,9 ha, giảm 2,52%.

Sản lượng thủy sản tháng 12/2022 ước tính đạt 1.554,5 tấn, tăng 4,97% so với cùng kỳ năm trước; bao gồm: cá 769,5 tấn, tăng 9,41%; tôm 446 tấn, giảm 34,34%; thủy sản khác 339 tấn, tăng 244,86%. Tính chung quý IV/2022, sản lượng thủy sản ước tính đạt 5.799,8 tấn, tăng 32,64% so với cùng kỳ năm trước; bao gồm: cá 2.940 tấn, tăng 17,67%; tôm 1.185,2 tấn, tăng 13,38%; thủy sản khác 1.674,6 tấn, tăng 102,03%. Năm 2022, sản lượng thủy sản ước tính đạt 35.860 tấn, giảm 0,61% so với năm trước; bao gồm: cá 25.470,9 tấn, tăng 8,57%; tôm 5.609,9 tấn, giảm 1,36%; thủy sản khác 4.779,2 tấn, giảm 31,06%. Cụ thể:

Sản lượng thủy sản nuôi trồng tháng 12/2022 ước tính đạt 536 tấn, giảm 31,26% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: cá 95 tấn, tăng 0,21%; tôm 441 tấn, giảm 34,67%. Tính chung quý IV/2022, sản lượng thủy sản nuôi trồng ước tính đạt 1.708 tấn, tăng 9,28% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: cá 525,7 tấn, tăng 0,81%; tôm 1.159,2 tấn, tăng 14,09%. Năm 2022, sản lượng thủy sản nuôi trồng ước tính đạt 9.008,9 tấn, tăng 1,93% so với năm trước; trong đó: cá 3.521,9 tấn, tăng 5,36%; tôm 5.410 tấn, tăng 0,06%.

Sản lượng thủy sản khai thác tháng 12/2022 ước tính đạt 1.018,5 tấn, tăng 45,27% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: cá 674,5 tấn, tăng 10,85%; thủy sản khác 339 tấn, tăng 283,92%. Tính chung quý IV/2022, sản lượng thủy sản khai thác ước tính đạt 4.091,8 tấn, tăng 45,63% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: cá 2.414,3 tấn, tăng 22,12%; thủy sản khác 1.651,5 tấn, tăng 105,56%. Năm 2022, sản lượng thủy sản khai thác ước tính đạt 26.851,1 tấn, giảm 1,43% so với năm trước; trong đó: cá 21.949 tấn, tăng 9,11%; thủy sản khác 4.702,2 tấn, giảm 31,29%.

3. Sản xuất công nghiệp

Chỉ số sản xuất công nghiệp năm 2022 ước tính tăng 18,42% so với năm trước, cao hơn nhiều so với mức tăng 8,72% của năm 2021. Động lực tăng trưởng của ngành công nghiệp trong năm 2022 là ngành sản xuất và phân phối điện có chỉ số sản xuất tăng cao nhất 76,10% do cuối năm 2021 có 17 dự án điện gió hoàn thành đi vào vận hành thương mại. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chỉ tăng 5,04%, thấp hơn mức tăng 6,46% của năm 2021 do thu hút đầu tư vào ngành này trong thời gian qua hạn chế;giá nguyên, nhiên, vật liệu tăng làm cho giá thành sản xuất tăng, sản phẩm khó tiêu thụ; một số doanh nghiệp thiếu nguyên liệu đầu vào, thị trường tiêu thụ thiếu ổn định…Ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải quy mô nhỏ chỉ tăng 2,89%. Ngành khai khoáng do công tác quản lý khai thác đá, cát, sỏi…ngày càng chặt chẽ nên giảm 1,81%.

Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 12/2022 ước tính tăng 1,79% so với tháng trước và tăng 30,71% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: ngành khai khoáng tăng 1,81% và giảm 20,22%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 1,57% và tăng 11,73%; sản xuất và phân phối điện tăng 2,04% và tăng 111,98%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 5% và tăng 6,94%.

Tính chung quý IV/2022, chỉ số sản xuất công nghiệp ước tính tăng 30,33% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: ngành khai khoáng giảm 17,05%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 11,04%; sản xuất và phân phối điện tăng 103,75%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 4,39%.

Năm 2022, chỉ số sản xuất công nghiệp ước tính tăng 18,42% so với năm trước; trong đó: ngành khai khoáng giảm 1,81%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 5,04%; sản xuất và phân phối điện tăng 76,10%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 2,89%.

Trong ngành công nghiệp cấp 2, các ngành có chỉ số sản xuất quý IV/2022 so với cùng kỳ năm trước tăng cao hơn chỉ số chung là: dệt tăng 233,64%; sản xuất da và sản phẩm có liên quan tăng 208,71%; sản xuất và phân phối điện tăng 103,75%; sản xuất giường, tủ, bàn ghế tăng 64,15%; công nghiệp chế biến, chế tạo khác tăng 47,83%; sản xuất, chế biến thực phẩm tăng 46,31%. Ở chiều ngược lại, các ngành có chỉ số sản xuất giảm: sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn giảm 1,61%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic giảm 8,82%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy giảm 12,86%; khai thác quặng kim loại giảm 14,71%; khai khoáng khác giảm 21,36%; sản xuất phương tiện vận tải khác giảm 43,45%.

Trong ngành công nghiệp cấp 2, các ngành có chỉ số sản xuất năm 2022 so với năm trước tăng cao hơn chỉ số chung là: sản xuất và phân phối điện tăng 76,10%; dệt tăng 65,79%; sản xuất da và sản phẩm có liên quan tăng 44,93%. Ở chiều ngược lại, các ngành có chỉ số sản xuất giảm: sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất giảm 15,40%; khai khoáng khác giảm 19,82%; sản xuất phương tiện vận tải khác giảm 34,07%.

Một số sản phẩm chủ yếu trong quý IV/2022 so với cùng kỳ năm trước tăng cao: gạch khối bằng bê tông tăng 128,73%; điện sản xuất tăng 85,16%; bia lon tăng 45,01%; tinh bột sắn tăng 35,86%; dăm gỗ tăng 24,53%; thuỷ hải sản chế biến tăng 19,76%...Ở chiều ngược lại, một số sản phẩm giảm mạnh: đá xây dựng giảm 19,38%; phân hóa học giảm 26,47%; săm dùng cho xe máy, xe đạp giảm 29,91%; tấm lợp proximăng giảm 47,19%...

Một số sản phẩm chủ yếu trong năm 2022 so với năm trước tăng cao: điện sản xuất tăng 113,95%; dăm gỗ tăng 40,36%; tinh bột sắn tăng 26,54%; bia lon tăng 20,73%; gỗ cưa hoặc xẻ tăng 20,02%...Ở chiều ngược lại một số sản phẩm giảm mạnh: đá xây dựng giảm 23,56%; phân hóa học giảm 29,20%; thủy hải sản chế biến giảm 32,54%; tấm lợp proximăng giảm 40,65%...

4. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp

Từ đầu năm đến 15/12/2022, toàn tỉnh có 474 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, tăng 7,48% (+33 DN) so với cùng kỳ năm trước; tổng vốn đăng ký là 4.291 tỷ đồng, giảm 67,58%; số vốnđăng ký bình quân một doanh nghiệp đạt 9,05 tỷ đồng, giảm 69,84%. Số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động là 252 doanh nghiệp, tăng 27,27% (+54 DN) so với cùng kỳ năm trước; số doanh nghiệp giải thể là58doanh nghiệp, giảm 19,44% (-14 DN); số doanh nghiệp trở lại hoạt động là 155 doanh nghiệp, giảm 1,90% (-03 DN). Số doanh nghiệp ngừng hoạt động và giải thể phần lớn là những doanh nghiệp quy mô nhỏ và siêu nhỏ thuộc các ngành xây dựng, thương mại gặp khó khăn về vốn, khả năng cạnh tranh thấp, kinh doanh kém hiệu quả…

Trong số doanh nghiệp thành lập mới năm 2022, khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản có 15 doanh nghiệp, chiếm 3,16% và giảm 16,67% so với cùng kỳ năm trước; khu vực công nghiệp - xây dựng có 157 doanh nghiệp, chiếm 33,12% và giảm 11,80%; khu vực dịch vụ có 302 doanh nghiệp, chiếm 63,72% và tăng 23,26%.

5. Hoạt động dịch vụ

5.1. Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

Năm 2022, dịch COVID-19 được kiểm soát; các hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống người dân trở lại bình thường, nhu cầu tiêu dùng tăng nên hoạt động thương mại và dịch vụ phục hồi mạnh mẽ; nhất là hoạt động kinh doanh lưu trú và ăn uống.Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2022 ước tính tăng 15,73% so với năm trước; trong đó, tổng mức bán lẻ hàng hoá tăng 13,28%, doanh thu lưu trú và ăn uống tăng 28,50%, doanh thu du lịch lữ hành tăng 79,69%, doanh thu dịch vụ khác tăng 23,25% (năm 2021 tương ứng là +4,83%, +5,28%, +0,84%, -75,03% và +3,19%).

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 12/2022 ước tính đạt 2.319,85 tỷ đồng, tăng 4,32% so với tháng trước và tăng 18,88% so với cùng kỳ năm trước; bao gồm: doanh thu bán lẻ hàng hóa 1.822,19 tỷ đồng, tăng 3,16% và tăng 14,60%; doanh thu lưu trú và ăn uống 361,56 tỷ đồng, tăng 10,54% và tăng 43,17%; doanh thu du lịch lữ hành 0,11 tỷ đồng; doanh thu dịch vụ khác 135,99 tỷ đồng, tăng 4,35% và tăng 24,97%.

Tính chung quý IV/2022, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tính đạt 6.767,23 tỷ đồng, tăng 19,46% so với cùng kỳ năm trước; bao gồm: doanh thu bán lẻ hàng hóa 5.360,33 tỷ đồng, tăng 15,79%; doanh thu lưu trú và ăn uống 1.009,12 tỷ đồng, tăng 40,81%; doanh thu du lịch lữ hành 0,11 tỷ đồng; doanh thu dịch vụ khác 397,67 tỷ đồng, tăng 24,81%.

Năm 2022, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tính đạt 26.710,06 tỷ đồng, tăng 15,73% so với năm trước; nếu loại trừ yếu tố giá tăng 11,34%.

Xét theo ngành hoạt động, doanh thu bán lẻ hàng hóa ước tính đạt 21.458,74 tỷ đồng, chiếm 80,33% tổng mức và tăng 13,28% so với năm trước. Các nhóm hàng có tổng mức bán lẻ hàng hóa lớn và tăng khá như: hàng may mặc tăng 21,08%; ô tô con tăng 20,91%; gỗ và vật liệu xây dựng tăng 16,43%; đồ dùng, dụng cụ trang thiết bị gia đình tăng 16,06%; xăng dầu các loại tăng 13,56%...

Doanh thu dịch vụ lưu trú và ăn uống ước tính đạt 3.707,05 tỷ đồng, chiếm 13,87% tổng mức và tăng 28,50% so với năm trước; bao gồm: doanh thu dịch vụ lưu trú 138,30 tỷ đồng, tăng 70,13%; doanh thu dịch vụ ăn uống 3.568,75 tỷ đồng, tăng 27,29%. Năm 2022, dịch COVID-19 được kiểm soát, du lịch nội địa tăng mạnh nên hoạt động kinh doanh lưu trú và ăn uống tăng trưởng nhanh.

Doanh thu du lịch lữ hành ước tính đạt 2,72 tỷ đồng, chiếm 0,01% tổng mức và tăng 79,69% so với năm trước.

Doanh thu dịch vụ khác ước tính đạt 1.541,55 tỷ đồng, chiếm 5,79% tổng mức và tăng 23,25% so với năm trước.

5.2. Vận tải hành khách và hàng hóa

Năm 2022, các hoạt động sản xuất kinh doanh phục hồi mạnh mẽ; nhu cầu vận chuyển hàng hoá, đi lại của người dân tăng nên hoạt động kinh doanh vận tải cũng phục hồi trở lại. Ước tính năm 2022, hành khách vận chuyển tăng 10,74% so với năm trước, hành khách luân chuyển tăng 9,71%; hàng hoá vận chuyển tăng 9,82%, hàng hoá luân chuyển tăng 9,37% (năm 2021 là -7,94%, -8,96%, +2,13%, +1,84%).

Doanh thu vận tải tháng 12/2022 ước tính đạt 178,42 tỷ đồng, tăng 1,49% so với tháng trước và tăng 26,69% so với cùng kỳ năm trước; bao gồm: doanh thu vận tải hành khách 26,89 tỷ đồng, tăng 0,15% và tăng 34,78%; doanh thu vận tải hàng hóa 131,73 tỷ đồng, tăng 1,81% và tăng 26,92%; doanh thu dịch vụ hổ trợ vận tải 19,80 tỷ đồng, tăng 1,22% và tăng 15,88%. Tính chung quý IV/2022, doanh thu vận tải ước tính đạt 527,99 tỷ đồng, tăng 24,58% so với cùng kỳ năm trước; bao gồm: doanh thu vận tải hành khách 80,26 tỷ đồng, tăng 33,12%; doanh thu vận tải hàng hóa 389,03 tỷ đồng, tăng 24,85%; doanh thu dịch vụ hổ trợ vận tải 58,70 tỷ đồng, tăng 13,030%. Năm 2022, doanh thu vận tải ước tính đạt 2.057,78 tỷ đồng, tăng 13,15% so với năm trước; bao gồm: doanh thu vận tải hành khách 341,56 tỷ đồng, tăng 16,54%; doanh thu vận tải hàng hóa 1.476,89 tỷ đồng, tăng 13,09%; doanh thu dịch vụ hổ trợ vận tải 239,33 tỷ đồng, tăng 8,95%.

Số lượt hành khách vận chuyển tháng 12/2022 ước tính đạt 560,5 nghìn HK, tăng 0,36% so với tháng trước và tăng 27,26% so với cùng kỳ năm trước; số lượt hành khách luân chuyển 50.889,4 nghìn HK.km, tăng 0,24% và tăng 16,70%. Tính chung quý IV/2022, số lượt hành khách vận chuyển ước tính đạt 1.642,8 nghìn HK, tăng 21,16% so với cùng kỳ năm trước; số lượt hành khách luân chuyển 147.776,6 nghìn HK.km, tăng 22,49%. Năm 2022, số lượt hành khách vận chuyển ước tính đạt 7.029 nghìn HK, tăng 10,74% so với năm trước; số lượt hành khách luân chuyển 604.969 nghìn HK.km, tăng 9,71%.

Khối lượng hàng hoá vận chuyển tháng 12/2022 ước tính đạt 1.280,9 nghìn tấn, tăng 1,44% so với tháng trước và tăng 20,30% so với cùng kỳ năm trước; khối lượng hàng hoá luân chuyển 93.792,3 nghìn tấn.km, tăng 0,80% và tăng 14,40%. Tính chung quý IV/2022, khối lượng hàng hoá vận chuyển ước tính đạt 3.532 nghìn tấn, tăng21,93% so với cùng kỳ năm trước; khối lượng hàng hoá luân chuyển 253.628,2 nghìn tấn.km, tăng 23,36%. Năm 2022, khối lượng hàng hoá vận chuyển ước tính đạt 12.645,5 nghìn tấn, tăng 9,82% so với năm trước; khối lượng hàng hoá luân chuyển 904.608,6 nghìn tấn.km, tăng 9,37%.

5.3. Khách lưu trú và du lịch lữ hành

Sau hai năm gặp khó khăn do dịch COVID-19, năm 2022 tỉnh đã triển khai nhiều giải pháp phục hồi hoạt động du lịch nhằm thu hút khách lưu trú và du lịch lữ hành. Tỉnh đã tổ chức thành công nhiều lễ hội, nhiều sản phẩm du lịch bước đầu hình thành đã tạo nên sự đa dạng cho du lịch Quảng Trị. Hoạt động kinh doanh lưu trú và du lịch lữ hành năm 2022 đã có những tín hiệu hết sức tích cực. Ước tính sốlượt khách lưu trú tăng 61,56% so với năm trước, số ngày khách lưu trú tăng 134,54%; số lượt khách du lịch theo tour tăng 36,44%, số ngày khách du lịch theo tour tăng 90,82%.

Số lượt khách lưu trú tháng 12/2022 ước tính đạt 49.754 lượt, tăng 2,01% so với tháng trước và tăng 62,87% so với cùng kỳ năm trước; số ngày khách lưu trú (chỉ tính khách ngũ qua đêm) 29.782 ngày khách, giảm 2,82% và tăng 2,38%. Năm 2022, số lượt khách lưu trú ước tính đạt 551.629 lượt, tăng 61,56% so với năm trước; số ngày khách lưu trú 401.996 ngày khách, tăng 134,54%.

Số lượt khách du lịch theo tour tháng 12/2022 ước tính đạt 101 lượt (tháng trước và cùng kỳ năm trước không phát sinh); số ngày khách du lịch theo tour 175 ngày khách. Năm 2022, số lượt khách du lịch theo tour ước tính đạt 941 lượt, tăng 36,44% so với năm trước; số ngày khách du lịch theo tour 1.760 ngày khách, tăng 90,82%. Khách du lịch theo tour tăng trưởng khá so với năm trước, nhưng quy mô còn quá nhỏ bé, chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế của tỉnh.

5.4. Hoạt động bưu chính, viễn thông

Năm 2022, hoạt động bưu chính thực hiện tốt việc cung ứng dịch vụ bưu chính, chuyển phát, đảm bảo an toàn mạng lưới. Hoạt động viễn thông tiếp tục đầu tư phát triển hạ tầng, bảo đảm cho chuyển đổi số, đa dạng hóa các gói dịch vụ…phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu người tiêu dùng.

Đến 30/11/2022, trên địa bàn tỉnh có 215 điểm cung cấp dịch vụ bưu chính, trong đó có: 86 bưu cục cấp 2, cấp 3 và điểm phục vụ; 01 bưu cục hệ 1; có 114/125 xã, phường có điểm bưu điện văn hóa xã; 08 chi nhánh chuyển phát và kho bưu chính; 03 văn phòng đại diện; 03 thùng thư công cộng độc lập. Có 101/125 xã, phường, thị trấn và 9/10 huyện, thị xã, thành phố có báo đến trong ngày (huyện đảo Cồn Cỏ chưa có). Bán kính phục vụ bình quân 2,381 km/1 điểm phục vụ; số dân được phục vụ 3.020 người/1 điểm phục vụ.

Tổng số trạm thu phát sóng điện thoại di động (BTS) đang hoạt động trên địa bàn tỉnh là 2.654 trạm (824 trạm 2G, 751 trạm 3G, 1.083 trạm 4G).

Ước tính đến 31/12/2022, toàn tỉnh có 657.224 thuê bao điện thoại, giảm 3,12% so với cùng thời điểm năm trước; trong đó có 7.100 thuê bao cố định, giảm 11,67% và 650.124 thuê bao di động, giảm 3,01%. Số thuê bao Internet hiện có là 119.550 thuê bao, tăng 8,77% so với cùng thời điểm năm trước.

II. ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ, KIỂM SOÁT LẠM PHÁT

1. Hoạt động ngân hàng

Năm 2022, các hoạt động sản xuất, kinh doanh phục hồi mạnh mẽ; nhu cầu vốn của nền kinh tế tăng, tổng dư nợ cho vay đối với nền kinh tế đến 15/12/2022 tăng 15,55% so với cuối năm 2021. Mặc dù mặt bằng lãi suất trên địa bàn tăng so với cuối năm 2021, nhưng do thị trường bất động sản đang gặp khso khăn nên huy động vốn trên địa bàn đến 15/12/2022 chỉ tăng 1,54% so với cuối năm 2021.

Huy động vốn trên địa bàn đến 15/12/2022 đạt 30.608 tỷ đồng, tăng 1,54% (+465 tỷ đồng) so với cuối năm 2021; bao gồm: tiền gửi tiết kiệm 22.219 tỷ đồng, tăng 3,9% (+833 tỷ đồng); tiền gửi có kỳ hạn của TCKT 2.169 tỷ đồng, tăng 29,32% (+492 tỷ đồng); tiền gửi thanh toán 5.334 tỷ đồng, giảm 13,74% (-850 tỷ đồng); huy động khác 397 tỷ đồng, tăng 125,81% (+221 tỷ đồng); phát hành giấy tờ có giá 489 tỷ đồng, giảm 32,08% (-231 tỷ đồng).

Tổng dư nợ cho vay đối với nền kinh tế đến 15/12/2022 đạt 50.542 tỷ đồng, tăng 15,55% (+6.802 tỷ đồng) so với cuối năm 2021; bao gồm: dư nợ cho vay ngắn hạn 24.731 tỷ đồng, chiếm 48,93%, tăng 12,89% (+2.823 tỷ đồng); dư nợ cho vay trung và dài hạn 25.811 tỷ đồng, chiếm 51,07%, tăng 18,23% (+3.979 tỷ đồng).

Nợ xấu đến 15/12/2022 là 550 tỷ đồng, chiếm 1,09% tổng dư nợ.

2. Thu, chi ngân sách nhà nước

Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn từ đầu năm đến 18/12/2022 đạt 106,46% dự toán và giảm 14,49% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: thu nội địa đạt khá so với dự toán 107,10% và giảm 0,14%, thu từ hoạt động xuất nhập khẩu chỉ bằng 96,64% dự toán và giảm 55,22%. Năm 2022, thu ngân sách giảm là do năm 2021 có thêm khoản thu từ nhập khẩu thiết bị điện gió và thuế xây dựng cơ bản vãng lai. Chi ngân sách nhà nước đạt 87,2% dự toán và tăng 2,04% so với cùng kỳ năm trước; đảm bảo nhu cầu quốc phòng, an ninh, quản lý hành chính, giáo dục, y tế…

Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn từ đầu năm đến 18/12/2022 đạt 4.418,17 tỷ đồng, bằng 106,46% dự toán địa phương và giảm 14,49% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: thu nội địa 3.748,58 tỷ đồng, bằng 107,10% dự toán và giảm 0,14%; thu từ hoạt động xuất, nhập khẩu 628,18 tỷ đồng, bằng 96,64% dự toán và giảm 55,22%. Trong thu nội địa, một số khoản thu lớn như: các khoản thu về nhà đất 1.500,45 tỷ đồng, tăng 28,96% so với cùng kỳ năm trước; thuế công thương nghiệp ngoài quốc doanh 894,15 tỷ đồng, giảm 9,68%; thu phí, lệ phí 338,88 tỷ đồng, tăng 35,55%; thu từ doanh nghiệp nhà nước 283,42 tỷ đồng, tăng 20,60%; thuế bảo vệ môi trường 265,11 tỷ đồng, giảm 51,31%; thuế thu nhập cá nhân 195,22 tỷ đồng, tăng 77,47%...

Chi ngân sách địa phương từ đầu năm đến 18/12/2022 đạt 8.236,13 tỷ đồng, bằng 87,2% dự toán địa phương và tăng 2,04% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: chi đầu tư phát triển 1.211,69 tỷ đồng, bằng 70,4% dự toán và tăng 20,22%; chi thường xuyên 5.017,32 tỷ đồng, bằng 93% dự toán và tăng 4,77%. Trong chi thường xuyên, một số khoản chi lớn như: chi sự nghiệp giáo dục, đào tạo và dạy nghề 2.175,17 tỷ đồng, tăng 6,01% so với cùng kỳ năm trước; chi quản lý hành chính 1.153,28 tỷ đồng, tăng 3,35%; chi sự nghiệp kinh tế 468,10 tỷ đồng, giảm 22,53%; chi sự nghiệp y tế, dân số và KHH gia đình 458,44 tỷ đồng, giảm 11,46%; chi sự nghiệp đảm bảo xã hội 423,89 tỷ đồng, tăng 38,58%...

3. Đầu tư

Vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn năm 2022 (giá hiện hành) ước tính giảm 5,42% so với năm trước, chủ yếu do vốn đầu tư thực hiện của khu vực dân cư và tư nhân giảm 9,34% (năm 2021, khu vực tư nhân đầu tư 17 dự án điện gióhoàn thành trước 01/11/2021 để hưởng giá điện ưu đãi). Vốn đầu tư thực hiện khu vực nhà nước tăng 14,67%, tình hình giải ngân vốn đầu tư công có cải thiện nhưng vẫn còn chậm so với yêu cầu do gặp khó khăn trong công tác giải phóng mặt bằng, giá vật liệu xây dựng tăng cao, nguồn đất san lấp gặp khó khăn…

Vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn quý IV/2022 (giá hiện hành) ước tính đạt 7.057,98 tỷ đồng, tăng 6,32% so với cùng kỳ năm trước; bao gồm: vốn khu vực nhà nước 1.587,28 tỷ đồng, tăng 17,76%; vốn của dân cư và tư nhân 5.448,16 tỷ đồng, tăng 3,38%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 22,54 tỷ đồng, tăng 9,86%. Tính chung năm 2022, vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn (giá hiện hành) ước tính đạt 27.115,34 tỷ đồng, giảm 5,42% so với năm trước; bao gồm: vốn khu vực nhà nước 5.573,04 tỷ đồng, chiếm 20,55% và tăng 14,67%; vốn của dân cư và tư nhân 21.440,83 tỷ đồng, chiếm 79,07% và giảm 9,34%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 101,47 tỷ đồng, chiếm 0,38% và giảm 36,32%.

Trong vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn năm 2022, vốn đầu tư xây dựng cơ bản ước tính đạt 23.307,67 tỷ đồng, giảm 10,37% so với năm trước; vốn đầu tư mua sắm TSCĐ không qua xây dựng cơ bản 2.087,40 tỷ đồng, tăng 37,12%; vốn đầu tư nâng cấp, sửa chửa lớn TSCĐ 1.653,05 tỷ đồng, tăng 49,58%; vốn đầu tư bổ sung vốn lưu động 60,28 tỷ đồng, tăng 184,88%; vốn đầu tư phát triển khác 6,94 tỷ đồng, giảm 54,91%.

Trong vốn đầu tư thực hiện của khu vực nhà nước, vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý quý IV/2022 ước tính đạt 1.032,66 tỷ đồng, tăng 10,11% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh 764,95 tỷ đồng, tăng 8,93%; vốn ngân sách nhà nước cấp huyện 237,73 tỷ đồng, tăng 14,68%; vốn ngân sách nhà nước cấp xã 29,98 tỷ đồng, tăng 5,93%. Năm 2022, vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý ước tính đạt 3.234,96 tỷ đồng, bằng 72,83% kế hoạch năm 2022 và tăng 4,57% so với năm trước, bao gồm: vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh 2.472,23 tỷ đồng, bằng 67,90% kế hoạch và tăng 1,43%; vốn ngân sách nhà nước cấp huyện 686,53 tỷ đồng, bằng 95,77% kế hoạch và tăng 17,23%; vốn ngân sách nhà nước cấp xã 76,20 tỷ đồng, bằng 90,98% kế hoạch và tăng 8,26%.

Tình hình thu hút vốn đầu tư ngoài nhà nước:Từ đầu năm đến 20/12/2022, có 27 dự án được cấp quyết định chủ trương đầu tư/cấp GCN đăng ký đầu tư với tổng vốn đăng ký 592,71 tỷ đồng, trong đó có 3 dự án thuộc KKT, KCN với tổng vốn đăng ký 120,87 tỷ đồng.

Vốn FDI:Từ đầu năm đến 15/12/2022, không có dự án FDI được cấp chủ trương đầu tư mới. Tổng số dự án FDI đã chấp thuận chủ trương đầu tư, có hiệu lực đến nay là 19 dự án với tổng vốn đăng ký là 2.484,52 triệu USD.

Về tiến độ giải ngân vốn:Tính đến 15/12/2022, Kho bạc Nhà nước tỉnh giải ngân 2.007 tỷ đồng nguồn vốn ngân sách nhà nước địa phương do tỉnh quản lý, đạt 48,68% kế hoạch vốn năm 2022.

4.Chỉ số giá tiêu dùng (CPI), chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ

Năm 2022, giá xăng, dầu, ga trong nước điều chỉnh tăng; giá nguyên, nhiên, vật liệu tăng do nguồn cung bị đứt gãy, làm cho giá thành sản xuất tăng; dịch COVID-19 được kiểm soát cầu tiêu dùng về nhóm hàng ăn uống ngoài gia đình tăng nên giá tăng; giá điện sinh hoạt tăng...là các yếu tố làm cho chỉ số giá tiêu dùng tăng so với năm trước; tuy nhiên, giá lương thực và một số loại thực phẩm giảm do nguồn cung dồi dào, giá nhóm hàng viễn thông giảm…đã làm cho chỉ số giá tiêu dùng tăng chậm lại. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm 2022 tăng 3,94% so với năm trước (năm 2021 tăng 2,62%).

Chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2022 giảm 0,14% so với tháng trước và tăng 4,86% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân quý IV/2022 tăng 0,20% so với quý trước và tăng 4,70% so với cùng kỳ năm trước.

Chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm 2022 tăng 3,94% so với năm trước. Trong mức tăng 3,94% của chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm 2022 so với năm trước, có 9/11 nhóm hàng có chỉ số giá tăng là: giao thông tăng 13,52%; đồ uống và thuốc lá tăng 5,67%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 5,34%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 3,55%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 3,04% (lương thực giảm 0,08%, thực phẩm tăng 2,61%, ăn uống ngoài gia đình tăng 5,95%); hàng hoá và dịch vụ khác tăng 2,05%; may mặc, mũ nón và giày dép tăng 1,43%; giáo dục tăng 1,63%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 1%. Có 1/11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá giảm là: bưu chính viễn thông giảm 0,13%; Nhóm hàng hoá thuốc và dịch vụ y tế giá ổn định.

Chỉ số giá vàng tháng 12/2022 giảm 0,34% so với tháng trước và tăng 9,97% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá vàng bình quân quý IV/2022 giảm 0,23% so với quý trước và tăng 12,91% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá vàng bình quân năm 2022 tăng 16,77% so với năm trước.

Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 12/2022 giảm 2,74% so với tháng trước và tăng 5,27% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá đô la Mỹ bình quân quý IV/2022 tăng 3,54% so với quý trước và tăng 6,60% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá đô la Mỹ bình quân năm 2022 tăng 1,98% so với năm trước.

III. CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI

1. Dân số, lao động, việc làm

Dân số trung bình năm 2022 toàn tỉnh ước tính là 649.708 người, tăng 0,30% so với năm 2021. Trong tổng dân số, dân số nam 322.905 người, chiếm 49,70% và tăng 0,35% so với năm trước; dân số nữ 326.803 người, chiếm 50,30% và tăng 0,25%; dân số thành thị 212844 người, chiếm 32,76% và tăng 0,89%; dân số nông thôn 436.864 người, chiếm 67,24% và tăng 0,01%.Công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình được quan tâm, mạng lưới dịch vụ kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc sức khỏe sinh sản được tăng cường. Ước tính năm 2022, tỷ lệ sinh là 15,6‰, giảm 0,03‰so với năm 2021; tỷ lệ chết 8,4‰, giảm 1‰; tỷ lệ tăng tự nhiên dân số 7,2‰, giảm 1,03‰.

Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên trung bình năm 2022 toàn tỉnh ước tính là 334.710 người, tăng 0,59% so với năm 2021. Trong đó: lao động nam 173.810 người, chiếm 51,93% và tăng 0,74%; lao động nữ 160.900 người, chiếm 48,07% và tăng 0,42%; khu vực thành thị 111.440 người, chiếm 33,29% và tăng 0,61%; khu vực nông thôn 223.270 người, chiếm 66,71% và tăng 0,58%.Cơ cấu lao động giữa nam và nữ, giữa thành thị và nông thôn không có nhiều biến động nhiều so với năm trước.

Lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế năm 2022 ước tính là 326.419 người, chiếm 97,52% lực lượng lao động của tỉnh và tăng 0,95 điểm phần trăm so với năm 2021. Trong đó:Lao động đang làm việc trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản là 134.669 người, chiếm 41,26%; khu vực công nghiệp và xây dựng 65.802 người, chiếm 20,16%; khu vực dịch vụ 125.148 người, chiếm 38,58% (cơ cấu tương ứng năm 2021 là: 42,27%, 19,98%, 37,75%). Năm 2022, dịch COVID-19 được kiểm soát, các hoạt động kinh tế phục hồi trở lại nên đã có sự dịch chuyển lao động từ khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản sang khu vực công nghiệp - xây dựng và dịch vụ theo đúng quy luật.

Tỷ lệ thất nghiệp chung toàn tỉnh ước tính năm 2022 là 2,48%, giảm 0,95 điểm phần trăm so với năm 2021. Lao động trở về từ miền Nam do dịch bệnh đã quay trở lại nơi làm việc; giao thương giữa Việt Nam và Lào mỡ cửa trở lại; nhiều nhà máy sản xuất may mặc xuất khẩu mở rộng quy mô sản xuất; các hoạt động kinh tế phục hồi đã tạo thêm nhiều cơ hội việc làm cho người lao động…

Công tác đào tạo nghề và giới thiếu việc làm luôn nhận được sự quan tâm và hỗ trợ của các cấp, các ngành. Ước tính năm 2022, toàn tỉnh đã tuyển sinh đào tạo nghề cho 9.654 người, trong đó: cao đẳng 129 người, trung cấp 1.139 người, sơ cấp và đào tạo thường xuyên 8.386 người. Đến cuối năm 2022, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 70,28%; tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề đạt 50%; lao động qua đào tạo có bằng cấp chứng chỉ đạt 32,5%.

Ước tính năm 2022, toàn tỉnh giải quyết việc làm mới cho 15.658 lượt lao động, trong đó: xuất khẩu lao động 2.400 lao động.

2. Đời sống dân cư và bảo đảm an sinh xã hội

2.1. Đời sống dân cư

Năm 2022, tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh đạt 7,17%. Chương trình xây dựng nông thôn mới trong 11 năm qua đã đạt được những thành tựu quan trọng; đã có 63 xã (đạt 62,4%) và 01 huyện được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới. Cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, hệ thống cơ sở vật chất văn hóa, trường học được đầu tư xây mới, cải tạo đạt chuẩn; chính sách cho vay ưu đãi hộ nghèo, hộ cận nghèo, hổ trợ giống cây trồng, vật nuôi…giúp người dân nông thôn phát triển sản xuất, cải thiện đời sống.

Kết quả tổng rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo theo chuẩn nghèo mới đa chiều giai đoạn 2022-2025; đầu năm 2022, trên địa bàn tỉnh có 18.904 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 10,55% và 10.133 hộ cận nghèo, chiếm tỷ lệ 5,65%. Ước tính đến cuối năm 2022, toàn tỉnh giảm 1.980 hộ nghèo, tương ứng giảm 1,17% so với đầu năm 2022.

Số hộ nghèo thuộc diện bảo trợ xã hội (không có sức lao động) chiếm tỷ lệ cao trong tổng số hộ nghèo của tỉnh (3.821 hộ, chiếm 20,21%). Quảng Trị là địa phương nằm trong vùng thường xuyên bị thiên tai, bão lụt, chỉ bị ảnh hưởng một trận bão, lũ lụt lớn là hộ nghèo mới phát sinh; hệ thống cơ sở hạ tầng còn thiếu; nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nông nghiệp là những nguyên nhân cơ bản cho việc giảm nghèo trên địa bàn tỉnh không bền vững.

Đến nay, toàn tỉnh có 44.352 đối tượng bảo trợ xã hội đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng. Trong đó có 166 trẻ em không nguồn nuôi dưỡng; 3.254 trẻ em dưới 03 tuổi thuộc hộ nghèo, cận nghèo đang sống tại vùng đặc biệt khó khăn; 20 người bị nhiễm HIV không có khả năng lao động; 814 người cao tuổi cô đơn, không nơi nương tựa, hộ nghèo; 207 người từ 75 đến 80 tuổi thuộc hộ nghèo, cận nghèo đang sống tại vùng đặc biệt khó khăn; 14.239 người cao tuổi từ đủ 80 tuổi trở lên; 1.843 đối tượng đơn thân nuôi con nhỏ, hộ nghèo, hộ cận nghèo; 18.985 người khuyết tật nặng và đặc biệt nặng; 4.824 hộ gia đình trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc NKT ĐB nặng.

Đầu năm 2022, UBND tỉnh đã chỉ đạo các ngành, các địa phương tổ chức thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, chăm lo chu đáo đời sống vật chất và tinh thần cho các tầng lớp nhân dân, nhất là các gia đình chính sách, đồng bào nghèo. Bước vào năm 2022, dịch COVID-19 với biến thể mới Omicron diễn biến phức tạp, số ca bệnh tăng cao đã ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh và đời sống nhân dân; thời tiết cực đoan, gây mưa lũ trái mùa làm thiệt hại nặng nề đến sản xuất cây hàng năm vụ Đông Xuân; giá nguyên, nhiên, vật liệu tăng cao đã tác động tiêu cực đến hầu hết ngành kinh tế; dịch COVID-19 kéo dài một bộ phận dân cư gặp khó khăn…Tuy nhiên, công tác phòng chống dịch linh hoạt và đạt hiệu quả nhất định khi tỷ lệ bao phủ vắc xin gần như toàn diện đối với tất cả các đối tượng theo quy định nên các hoạt động kinh tế vẫn diễn ra thông suốt, các ngành kinh tế phục hồi mạnh mẽ, công tác an sinh xã hội được quan tâm thực hiện nên tình hình thiếu đói trong dân trong năm 2022 không xảy ra.

2.2. Bảo đảm an sinh xã hội

Trong dịp Tết Nguyên đán Nhâm Dần năm 2022, tỉnh Quảng Trị đã trao tặng 99.998 suất quà cho người có công, gia đình chính sách người có công, người nghèo, cận nghèo, đối tượng bảo trợ xã hội, người cao tuổi, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn và các đối tượng khác với tổng kinh phí là 50.296,7 triệu đồng.Trong đó: Quà của Chủ tịch nước là 8.183,7 triệu đồng để tặng 26.820 suất quà cho người có công và gia đình chính sách người có công; Quà từ Ngân sách địa phương (tỉnh/huyện/xã) là 3.953 triệu đồng để tặng 7.906 suất quà cho gia đình người có công, gia đình chính sách có công với cách mạng, người nghèo, đối tượng bảo trợ xã hội và các đối tượng chính sách khác; Quà từ nguồn kinh phí xã hội hóa là 38.250 triệu đồng để trao tặng 65.272 suất quà cho hộ gia đình chính sách, hộ nghèo, đối tượng bảo trợ xã hội và hộ gia đình có hoàn cảnh khó khăn.

Ngoài ra tỉnh đã phân bổ 2.150,28 tấn gạo (Chính phủ hỗ trợ) để cứu trợ cho các hộ gia đình có hoàn cảnh khó khăn ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi, trong đó: đợt 1 hỗ trợ 1.065 tấn gạo để cứu trợ cho 14.907 hộ (70.982 nhân khẩu) trong dịp Tết Nguyên đán Nhâm Dần năm 2022; đợt 2 hỗ trợ 1.085,28 tấn gạo để hỗ trợ cho 15.111 hộ (72.352 nhân khẩu) trong thời gian giáp hạt đầu năm 2022.

Nhân Kỷ niệm 75 năm Ngày Thương binh - Liệt sĩ, tỉnh đã tổ chức trao tặng 24.533 suất quà của Chủ tịch nước cho người có công với cách mạng với tổng kinh phí 7.461,9 triệu đồng; các cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân trong và ngoài tỉnh đã trao tặng 20.143 suất quà cho người có công và thân nhân người có công với cách mạng với tổng trị giá 15.902 triệu đồng; hỗ trợ xây dựng mới và sửa chữa 522 nhà tình nghĩa đối với người có công với cách mạng với tổng kinh phí 33.246 triệu đồng; trao tặng 48 sổ tiết kiệm cho người có công với cách mạng với tổng trị giá 480 triệu đồng (10 triệu đồng/sổ).

Từ đầu năm đến 18/11/2022, Quỹ “Vì người nghèo” và an sinh xã hội trong tỉnh đã huy động được 80.350 triệu đồng. Trong đó: Quỹ ‘vì người nghèo” 37.800 triệu đồng, các tổ chức đoàn thể cấp tỉnh vận động 42.550 triệu đồng. Ban vận động “ Quỹ vì người nghèo” các cấp đã hỗ trợ xây dựng mới 418 nhà Đại đoàn kết cho hộ nghèo, trị giá 27.450 triệu đồng; hỗ trợ sữa chữa 173 nhà cho hộ nghèo, cận nghèo, trị giá 2.100 triệu đồng; hỗ trợ phát triển sản xuất cho 350 người, trị giá 1.860 triệu đồng; hỗ trợ khó khăn với 8.339 suất quà, trị giá 7.250 triệu đồng...Các tổ chức chính trị xã hội cấp tỉnh đã hỗ trợ xây dựng mới 112 nhà, trị giá 7.760 triệu đồng; hỗ trợ khó khăn với 51.379 suất quà, trị giá 34.540 triệu đồng...

Công tác vận động, cứu trợ thiên tai, rủi ro được Mặt trận các cấp quan tâm thực hiện. Tính đến tháng 11/2022, nguồn kết dư của năm 2021 là 40.200 triệu đồng; nguồn vận động được năm 2022 là 5.200 triệu đồng. Năm 2022, Ban vận động Quỹ Cứu trợ cấp tỉnh đã giải ngân hỗ trợ 24.483 triệu đồng; cấp huyện giải ngân hỗ trợ 617 triệu đồng.

Tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 68/NQ-CP, Nghị quyết 126/NQ-CP của Chính phủ; Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg và Quyết định 33/2021/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về các chính sách hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch COVID-19. Kết quả đến ngày 30/5/2022 kết thúc, tổng kinh phí đã hỗ trợ 78.512 triệu đồng; trong đó: số người lao động được hỗ trợ là 43.903 người với số tiền là 30.107 triệu đồng; số đơn vị sử dụng lao động được hỗ trợ là 11.510 đơn vị với số tiền 32.738 triệu đồng; số người dân được hỗ trợ là 12.113 người với số tiền là 15.667 triệu đồng. Riêng trong năm 2022, số tiền đã hỗ trợ là 59.755,5 triệu đồng (18.862 lao động, 8.575 đơn vị sử dụng lao động và 11.130 người dân).

Triển khai Nghị Quyết 116/NQ-CP của Chính phủ, Quyết định số 28/2021/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động bị ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-19 từ quỹ bảo hiểm thất nghiệp.Tính đến ngày 30/9/2022 đã kết thúc việc thực hiện và đã giải quyết chi trả hỗ trợ cho 37.041 lao động với số tiền 91.425,85 triệu đồng (Trong đó năm 2022 đã chi trả hỗ trợ cho 5.640 người với số tiền 16.172 triệu đồng); Thực hiện giảm đóng BHTN cho 1.478 đơn vị với 34.752 lao động với số tiền giảm đóng là 19.417 triệu đồng. (Trong đó năm 2022 số tiền giảm đóng là 14.766 triệu đồng).

Thực hiện Quyết định số 08/2022/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và Kế hoạch số 89/KH-UBND của UBND tỉnh về hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động.Tính đến nay chính sách hỗ trợ đã kết thúc, đã có 389 lao động/24 đơn vị được hỗ trợ với số tiền là 583 triệu đồng...

3. Giáo dục và Đào tạo

Năm 2022, công tác chuẩn bị các điều kiện cho lộ trình đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông mới đã được các đơn vị, địa phương triển khai tích cực. Ngành Giáo dục đã triển khai đồng bộ nhiều giải pháp phòng, chống dịch bệnh COVID-19; tổ chức dạy học trực tiếp và trực tuyến đạt nhiều kết quả tích cực. Chất lượng giáo dục đại trà được duy trì ổn định, chất lượng mũi nhọn được giữ vững.

Đầu năm 2022, trước tình hình dịch bệnh COVID-19 diễn biến phức tạp, ảnh hưởng đến hoạt động giáo dục, ngành Giáo dục đã bám sát các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo, UBND tỉnh để chỉ đạocác đơn vị, trường học căn cứ từng cấp độ dịch bệnh tại địa phương để chủ động, linh hoạt các kịch bản, phương án dạy học phù hợp nhằm đảm bảo an toàn cho cán bộ, giáo viên, nhân viên và học sinh, đảm bảo không bị gián đoạn chương trình theo kế hoạch năm học 2021 - 2022.

Năm 2022, công tác xây dựng trường chuẩn quốc gia được quan tâm. Tính đến 30/11/2022, số trường đạt chuẩn quốc gia là 167/367 (chỉ tính khối các trường công lập), đạt tỷ lệ 45,5%, trong đó: Mầm non 83/147 trường, đạt 56,46%; Tiểu học 31/67 trường, đạt 46,27%; TH&THCS 31/80 trường, đạt 38,75%; THCS 16/42 trường, đạt 38,10%; THPT 7/24 trường, đạt 29,17%; THCS&THPT 0/7 trường.

Công tác phổ cập giáo dục - xóa mù chữ trên địa bàn tỉnh đạt nhiều kết quả tích cực. Đến tháng 11/2022, tỉnh Quảng Trị duy trì vững chắc kết quả đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi, đạt Mức độ 3 về phổ cập giáo dục tiểu học, đạt Mức độ 1 về phổ cập giáo dục THCS, đạt Mức độ 1 về xóa mù chữ.

Tổ chức Kỳ thi chọn học sinh giỏi văn hoá quốc gia lớp 12 THPT tại tỉnh Quảng Trị, có 54 thí sinh dự thi, 21 học sinh đạt giải, chiếm tỷ lệ 52,8% (gồm 02 giải nhì, 10 giải ba và 09 giải khuyến khích); có 02 học sinh tham dự kỳ thi tuyển chọn học sinh giỏi quốc gia dự thi Olympic khu vực và quốc tế.

Tổ chức thành công Cuộc thi khoa học kỹ thuật khối học sinh trung học cấp tỉnh năm học 2021 - 2022. Cuộc thi có 98 đề tài dự thi ở các trường có cấp THPT và phòng GDĐT các huyện thị xã, thành phố. Kết quả có 61 đề tài đạt giải, (3 giải Nhất, 8 giải Nhì, 23 giải Ba và 27 giải Tư). Cuộc thi KHKT cấp quốc gia có 2 dự án tham gia dự thi, trong đó Dự án “Robot lấy mẫu xét nghiệm COVID-19” của các em Trần Quốc Hùng và Thái Việt Ý, học sinh lớp 11 chuyên Tin Trường THPT chuyên Lê Quý Đôn đạt giải Ba.

Kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2022 trên địa bàn tỉnh Quảng Trị diễn ra an toàn, nghiêm túc; không có cán bộ làm nhiệm vụ thi và thí sinh vi phạm quy chế thi. Tỷ lệ tốt nghiệp THPT năm 2022 tỉnh Quảng Trị đạt 94,43% (năm 2021 đạt 94,25%).

Bước vào năm học 2022 -2023, quy mô, mạng lưới trường, lớp đã được tổ chức, sắp xếp lại từng bước hợp lý; cơ bản đáp ứng đủ nhu cầu học tập của con em trong tỉnh. Số liệu đầu năm học 2022-2023, giáo dục phổ thông toàn tỉnh có 222 trường học, bằng năm học trước (Tiểu học 67 trường, THCS 42 trường, TH&THCS 80 trường, THPT 24 trường, THCS&THPT 6 trường, TH,THCS&THPT 02 trường, và 01 trương liên cấp). Số lớp học có 4.431 lớp học, giảm 64 lớp so với năm học trước (Tiểu học 2.528 lớp, giảm 49 lớp; THCS 1.254 lớp, giảm 10 lớp; THPT 649 lớp, giảm 05 lớp). Số học sinh phổ thông có 125.017 em, tăng 1,25% so với năm học trước (Tiểu học 65.705 em, tăng 0,50%; THCS 44.273 em, tăng 2%; THPT 25.039 em, tăng 1,93%). Số giáo viên trực tiếp giảng dạy có 7.675 GV, giảm 0,54% so với năm học trước (Tiểu học 3.516 GV, giảm 1,10%; THCS 2.609 GV, tăng 1,48%; THPT 1.550 GV, giảm 2,52%). Giáo dục mầm non có 166 trường mẫu giáo và mầm non; nhà trẻ có 6.874 cháu, tăng 7,64% so với năm học trước; 681 cô nuôi dạy trẻ, giảm 0,58%; mẫu giáo có 1.372 lớp, tăng 1,78%; 35.158 học sinh, tăng 2,25%; 2.484 giáo viên, tăng 2,64%.

4. Y tế

4.1. Hoạt động khám, chữa bệnh

Mạng lưới y tế tiếp tục được củng cố, chú trọng đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật. Hiện nay, toàn tỉnh có 146 cơ sở y tế khu vực nhà nước có chức năng khám chữa bệnh, bằng cuối năm trước (20 bệnh viện và phòng khám đa khoa khu vực; 125 trạm y tế xã, phường, thị trấn; 01 trung tâm kiểm soát bệnh tật tỉnh); có 2.200 giường bệnh (không kể trạm xá), bằng cuối năm trước. Đội ngũ cán bộ y tế ngày càng được tăng cường về số lượng và chất lượng chuyên môn. Số cán bộ y tế tại các cơ sở khám chữa bệnh khu vực nhà nước có 3.379 người, trong đó có 3.135 cán bộ ngành y, tăng 0,38% so với cuối năm trước (trong đó có 682 bác sĩ trở lên, tăng 0,44%); có 244 cán bộ ngành dược, giảm 2,79%% (trong đó có 76 dược sỹ có trình độ đại học trở lên, tăng 24,59%). Số bác sỹ bình quân trên một vạn dân là 10,5 người, 100% xã, phường, thị trấn có bác sỹ làm việc thường xuyên.

Công tác khám, chữa bệnh được duy trì tốt và có chất lượng. Năm 2022, ước tính có 932.089 lượt người khám bệnh, tăng 36,23% so với năm trước; 116.684 lượt bệnh nhân điều trị nội trú, tăng 8,76%; số ngày điều trị nội trú 636.109 ngày, giảm 4,61%.

4.2. Tình hình dịch bệnh, HIV/AIDS và ngộ độc thực phẩm

Kể từ khi dịch bệnh COVID-19 xảy ra (Năm 2020) cho đến 15/12/2022, trên địa bàn tỉnh đã ghi nhận 85.806 ca bệnh; đã có 54 ca tử vong (Năm 2020 có 07 ca mắc, 01 ca tử vong; năm 2021 có 2.237 ca mắc, 03 ca tử vong; năm 2022 có 83.562 ca mắc, 50 ca tử vong). Hiện còn 21 ca bệnh đang điều trị tại cơ sở y tế và 06 ca bệnh đang cách ly, điều trị tại nhà.

Công tác tiêm chủng phòng COVID-19 (đến 15/12/2022): Số người từ 18 tuổi trở lên đã hoàn thành liều cơ bản là 434.527 người, đạt 98,54%;tiêm mũi nhắc lại lần 1 là 345.268 người, đạt 78,30%; tiêm mũi bổ sung là 46.444 người, đạt 10,5%; tiêm mũi nhắc lại lần 2 là 77.373 người, đạt 81,24%.Số người từ 12 đến dưới 18 tuổi đã hoàn thành mũi cơ bản là61.603 người, đạt 98,96%; tiêm mũi nhắc lại lần 1 là 33.084 người, đạt 53,14%.Số người từ 5 đến dưới 12 tuổi được tiêm mũi 1 là55.741 người, đạt 69,88%; tiêm 02 mũi là 43.785 người, đạt 54,89%.

Trong tháng trên địa bàn tỉnh có 554 trường hợp mắc bệnh cúm; 03 trường hợp mắc bệnh lỵ Amip; 15 trường hợp mắc bệnh lỵ trực trùng; 05 trường hợp mắc thuỷ đậu; 108 trường hợp mắc bệnh tiêu chảy; 09 trường hợp mắc bệnh viêm gan virut; 01 trường hợp mắc bệnh sốt rét; 515 trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết; 02 trường hợp mắc bệnh tay chân miệng....Tính chung năm 2022, trên địa bàn tỉnh có 4.711 trường hợp mắc bệnh cúm, giảm 2,28% so với năm trước; 46 trường hợp mắc bệnh lỵ Amip, giảm 54,46%; 168 trường hợp mắc bệnh lỵ trực trùng, giảm 26,96%; 05 trường hợp mắc bệnh quai bị, giảm 76,19%; 102 trường hợp mắc thuỷ đậu, giảm 52,78%; 1.067 trường hợp mắc bệnh tiêu chảy, giảm 18,74%; 59 trường hợp mắc bệnh viêm gan virut, giảm 51,24%; 2.010 trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết, tăng 35 lần; 102 trường hợp mắc bệnh tay chân miệng, tăng 68,42%; 18 trường hợp sốt rét, tăng 17 trường hợp...Năm 2022, các loại bệnh dịch xảy ra trên địa bàn tỉnh đều giảm so với năm trước; chỉ có sốt xuất huyết và tay chân miệng tăng cao. Không có trường hợp tử vong do bệnh dịch.

Năm 2022, phát hiện thêm 22 trường hợp nhiễm HIV, có 02 trường hợp chuyển sang giai đoạn AIDS và 04 trường hợp tử vong do HIV/AIDS. Tính đến nay, số người nhiễm HIV còn sống tại Quảng Trị là 287 người (số trẻ em dưới 15 tuổi nhiễm HIV là 11 trẻ, số bà mẹ mang thai nhiễm HIV sinh con là 42 bà mẹ), trong đó có 172 người chuyển sang giai đoạn AIDS; số bệnh nhân tử vong do AIDS toàn tỉnh tính đến thời điểm trên là 103 người.

Trong năm 2022, trên địa bàn tỉnh xảy ra 01 vụ ngộ độc thực phẩm tại huyện Đakrông làm chết 02 người. Đãthành lập 477 đoàn thanh tra, kiểm tra vệ sinh, an toàn thực phẩm; qua kiểm tra 5.383 lượt cơ sở, đã ghi nhận có 4.090 lượt cơ sở đạt yêu cầu, 1.170 lượt cơ sở có vi phạm; số cơ sở vi phạm bị xử lý 16 cơ sở với số tiền phạt là 42.85 triệu đồng.

5. Hoạt động văn hóa, thể thao

Năm 2022, toàn tỉnh đã tổ chức thực hiện tốt công tác trang trí, khánh tiết, tuyên truyền cổ động trực quan chào mừng kỷ niệm các ngày lễ lớn và các sự kiện quan trọng tiêu biểu như: Kỷ niệm 115 năm Ngày sinh Tổng Bí thư Lê Duẩn; Kỷ niệm 50 năm giải phóng tỉnh Quảng Trị và 50 năm sự kiện 81 ngày đêm chiến đấu bảo vệ Thành Cổ Quảng Trị; Lễ Thượng cờ Thống nhất non sông và diễu binh diễu hành nhân Kỷ niệm 47 năm Ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước; Lễ hội Vì Hoà bình;Kỷ niệm 75 năm Ngày Thương binh - Liệt sỹ;Kỷ niệm 77 năm Ngày Quốc khánh nước CHXHCN ViệtNam....

Trong dịp Tết Nguyên đán Nhâm Dần 2022, do tình hình dịch COVID-19 diễn biến phức tạp, tỉnh đã tổ chức các hoạt động phù hợp với tình hình. Đoàn Nghệ thuật truyền thống tỉnh xây dựng và biểu diễn chương trình Nghệ thuật “Ấm nồng tình Xuân” mừng Đảng, mừng Xuân Nhâm Dần – 2022. Đài Phát thanh – Truyền hình Quảng Trị tổ chức ghi hình và phát sóng Chương trình nghệ thuật “Ấm nồng tình Xuân” trên sóng Đài Phát thanh – Truyền hình tỉnh và trên các kênh thông tin, mạng xã hội để phục vụ nhân dân dịp Tết.

Thư viện tỉnh tổ chức Hội Báo Xuân Nhâm Dần năm 2022 với các hoạt động: trưng bày mô hình sách chuyên đề chào mừng kỷ niệm 92 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam; sách chuyên đề phong tục lễ Tết và chào Xuân Nhâm Dần 2022 với hơn 163 tờ báo, tạp chí của Trung ương và các địa phương.

Tổ chức thành công Chương trình nghệ thuật “Khát vọng Hòa bình”, “Màu Hoa đỏ”; tổ chức biểu diễn chương trình nghệ thuật chào mừng Kỷ niệm 77 năm ngày Quốc khánh nước CHXHCN Việt Nam…

Tham gia diễn xướng dân gian văn hóa các dân tộc khu vực Trường Sơn – Tây Nguyên lần thứ III năm 2022 tại tỉnh Kon Tum, kết quả đạt giải nhất toàn đoàn; tham gia Ngày hội giao lưu văn hóa, thể thao và du lịch vùng biên giới Việt Nam – Lào lần thứ III tại tỉnh Điện Biên năm 2022, kết quả đạt 2 giải A, 3 giải B, 01 giải C về phần thi biểu diễn văn nghệ và trang phục truyền thống và 01 HCĐ kéo co nam nữ phối hợp. Tham gia liên hoan “Câu hò nối những dòng sông” cụm Bắc miền Trung.

Đẩy mạnh phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” gắn với Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, xây dựng văn minh đô thị. Đến 15/12/2022, có 163.789/173.671 gia đình được công nhận và giữ vững danh hiệu “Gia đình văn hóa”, có 789/797 làng, bản, khu phố và tương đương được công nhận và giữ vững danh hiệu văn hóa; có 752/824 cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đạt chuẩn văn hóa; 15/24 phường, thị trấn đạt chuẩn văn minh đô thị.

Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng thể dục thể thao quần chúng. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại”; triển khai chương trình bơi an toàn phòng chống đuối nước trẻ em trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2022-2030.Tính đến ngày 15/12/2022, số người tập TDTT thường xuyên đạt 36,5%; số gia đình thể thao đạt 27,8%; có 840 câu lạc bộ và điểm tập TDTT, có 02 liên đoàn và hiệp hội thể thao. Có 85% cán bộ, CNVC tập luyện thường xuyên một môn thể thao; 99% trường phổ thông thực hiện đầy đủ chương trình giáo dục thể chất nội khóa; 99,8% cán bộ chiến sỹ đạt tiêu chuẩn rèn luyện thể lực.

Đoàn thể thao người khuyết tật Quảng Trị tham gia Giải vô địch môn Điền kinh và môn Bơi người khuyết tật toàn quốc, giữ vững vị trí thứ 3 toàn đoàn điền kinh; tham gia thi đấu tại Đại hội Thể thao người khuyết tật Đông Nam Á năm 2022 đạt 04 HCV, 01 HCB môn Rowing và 02 HCV môn Thể thao điện tử.

Tỉnh đã phối hợp với Tổng cục Thể dục Thể thao và các Liên đoàn thể thao quốc gia tổ chức thành công Giải vô địch Bóng chuyền bãi biển 2x2 quốc gia và Giải Đua thuyền truyền thống vô địch quốc gia năm 2022.

Luôn quan tâm và coi trọng công tác tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng vận động viên. Hiện nay, Trung tâm Huấn luyện và Thi đấu Thể dục thể thao tỉnh đào tạo 101 vận động viên với 08 môn thể thao thế mạnh, trong đó có 24 VĐV đội tuyển tỉnh, 17 VĐV đội tuyển trẻ và 60 VĐV năng khiếu.

Tham gia thi đấu Giải Billiards & Snooker vô địch Cúp quốc gia; Giải vô địch các câu lạc bộ vật cổ điển, vật tự do quốc gia năm 2022; Giải vô địch Cử Tạ thanh thiếu niên quốc gia, Giải Cầu lông các nhóm tuổi thiếu niên…Tính đến ngày 31/10/2022, đã tham gia thi đấu 21 giải thể thao quốc gia đạt 55 huy chương các loại (12HCV, 16HCB, 27HCĐ).

Tổ chức thành công Đại hội TDTT tỉnh Quảng Trị lần thứ VIII năm 2021-2022. Đại hội Thể dục thể thao các cấp hoàn thành theo đúng kế hoạch đề ra, Đại hội TDTT cấp xã: bình quân tổ chức 5 môn thể thao/xã, trong đó có 2 môn thể thao dân tộc; 9/10 huyện, thị, thành phố tổ chức Đại hội TDTT cấp huyện, bình quân 10 môn thể thao/huyện, trong đó có 2 môn thể thao dân tộc.

6. Tai nạn giao thông

Theo báo cáo của Ban An toàn giao thông tỉnh, tháng 12/2022 (từ 15/11/2022 đến 14/12/2022), trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 22 vụ tai nạn giao thông, tăng 37,50% so với tháng trước và tăng 175% so với cùng kỳ năm trước; làm chết 08 người, bằng tháng trước và tăng 60% so với cùng kỳ năm trước; bị thương 23 người, tăng 53,33% và tăng 475%. Tất cả các vụ tai nạn giao thông trong tháng 12/2022 đều xảy ra trên đường bộ.

Tính chung quý IV/2022 (Từ 15/9/2022 đến 14/12/2022) trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 60 vụ tai nạn giao thông, tăng 76,47% so với cùng kỳ năm trước; làm chết 26 người, tăng 13,04%; bị thương 53 người, tăng 165%. Trong tất cả các vụ tai nạn giao thông quý IV/2022, đường bộ xảy ra 59 vụ, làm chết 25 người, bị thương 53 người; đường sắt xảy ra 01 vụ, làm chết 01 người.

Năm 2022 (Từ 15/12/2021 đến 14/12/2022) trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 194 vụ tai nạn giao thông, tăng 8,38% so với năm trước; làm chết 102 người, bằng năm trước; bị thương 163 người, tăng 22,56%. Trong tất cả các vụ tai nạn giao thông năm 2022, đường bộ xảy ra 191 vụ, làm chết 100 người, bị thương 162 người; đường sắt xảy ra 03 vụ, làm chết 02 người, bị thương 01 người.

7. Thiệt hại thiên tai, phòng chống cháy nổ và bảo vệ môi trường

Trong tháng 12/2022, trên địa bản tỉnh không xảy ra thiên tai gây thiệt hại nặng. Tính chung năm 2022, trên địa bàn tỉnh xảy ra 08 vụ thiên tai gây thiệt hại nặng (02 đợt mưa to gây lụt cục bộ; 01 đợt ảnh hưởng không khí lạnh gây mưa to và gió giật mạnh; 03 đợt mưa to kèm theo sét và 02 cơn bảo), làm 04 người chết, 17 người bị thương, thiệt hại về tài sản ước tính gần 1.143 tỷ đồng.

Tháng 12/2022, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 07 vụ cháy; giá trị tài sản thiệt hại ước tính 330 triệu đồng. Tính chung quý IV/2022, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 15 vụ cháy; giá trị tài sản thiệt hại ước tính 1.152 triệu đồng. Năm 2022, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 64 vụ cháy, giảm 28,89% so với năm trước; làm chết 01 người, giảm 75%; bị thương 01 người, giảm 66,67%; giá trị tài sản thiệt hại ước tính 8199 triệu đồng, giảm 67,59%.

Trong tháng 12/2022, phát hiện và xử lý 34 vụ vi phạm môi trường; số tiền xử phạt 157,55 triệu đồng. Tính chung năm 2022, phát hiện và xử lý 270 vụ vi phạm môi trường, tăng 7,76% so với năm trước; số tiền xử phạt là 1.582,8 triệu đồng, giảm 9,88%.


Cục Thống kê tỉnh Quảng Trị

  • Tổng số lượt xem: 1754
  •  

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)