Nhân Hội nghị cấp cao APEC lần thứ 19 tổ chức tại Hawaii, Hoa Kỳ (ngày 12 và 13/11/2011), Cổng TTĐT Chính phủ giới thiệu một số tư liệu cơ bản về các kỳ hội nghị đã qua.
Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á– Thái Bình Dương (Asia-Pacific Economic Cooperation, viết tắt là APEC) là tổ chức quốc tế của các nền kinh tế nằm trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương với mục tiêu tăng cường mối quan hệ về kinh tế và chính trị.
Diễn đàn tổ chức các kỳ họp thường niên lần lượt tại các thành viên. Cho đến nay, hầu hết các nước và vùng lãnh thổ nằm bên bờ Thái Bình Dương đều gia nhập tổ chức này.
Hội nghị Cấp cao APEC đã qua 18 lần tổ chức.
1/Hội nghị lần thứ nhất tại Seattle (Hoa Kỳ, 11/1993)
Hội nghị được tổ chức theo sáng kiến của Tổng thống Hoa Kỳ B.Clintơn. Hội nghị đã ra Tuyên bố chung khẳng định sự nổi lên của APEC như một tiếng nói mới cho khu vực Châu Á-Thái Bình Dương trong các vấn đề quốc tế.
Hội nghị cũng đánh dấu một bước phát triển mới của APEC và hoạt động này trở thành thông lệ hàng năm của các nhà lãnh đạo các nền kinh tế thành viên.
2/Hội nghị lần thứ 2 tại Bogo (Indonesia, 16/11/1994)
Hội nghị đã định ra được thời gian cụ thể hoàn thành mục tiêu tự do thương mại và đầu tư đối với các nước công nghiệp phát triển vào năm 2010 và đối với các nền kinh tế đang phát triển vào năm 2020. Tại hội nghị lần này, các thành viên APEC đã đạt được thoả thuận tăng cường hợp tác kinh tế trong khu vực nhằm củng cố hệ thống thương mại đa phương mở, thúc đẩy tự do hoá thương mại và đầu tư ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương và đẩy mạnh hợp tác phát triển.
3/ Hội nghị lần thứ 3 tại Osaka (Nhật Bản, 18/11/1995)
Hội nghị Osaka đánh dấu một bước tiến cụ thể hơn của APEC, thông qua Chương trình Hành động Osaka, gồm 2 nội dung lớn: Tự do hoá và thúc đẩy thương mại và đầu tư; hợp tác kinh tế và kỹ thuật.
APEC đã định ra nguyên tắc cơ bản tiến hành tự do hoá thương mại, đầu tư trong 15 lĩnh vực cụ thể giữa các nền kinh tế thành viên. Về hợp tác kinh tế và kỹ thuật, APEC cũng đề ra 3 nguyên tắc cơ bản và 13 lĩnh vực hợp tác cụ thể giữa các nền kinh tế thành viên.
4/ Hội nghị lần thứ 4 tại Manila (Philippines, 25/11/1996)
Hội nghị này đã thông qua Tuyên bố chung khẳng định lại cam kết duy trì sự phát triển bền vững, công bằng và đề ra “Kế hoạch Hành động tập thể của APEC” để thực hiện Chương trình Hành động Osaka.
Đây thực sự là bước đi đầu tiên trong quá trình tự nguyện thực hiện tự do hoá thương mại và đầu tư của các thành viên APEC trong 15 lĩnh vực cụ thể và thúc đẩy hợp tác khu vực trong 13 lĩnh vực.
Khác với các hội nghị cấp cao trước, APEC 4 đã đưa ra 6 ưu tiên cụ thể trong hoạt động hợp tác của APEC, gồm: Phát triển nguồn nhân lực; Phát triển một thị trường vốn ổn định và hiệu quả; Củng cố cơ sở hạ tầng kinh tế, đặc biệt là viễn thông; Phát triển giao thông và năng lượng; Sử dụng các công nghệ cho tương lai; Bảo đảm chất lượng cuộc sống thông qua các chương trình bảo vệ môi trường, phát triển và củng cố các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
5/ Hội nghị lần thứ 5 tại Vancouver (Canada, 25/10/1997)
Hội nghị đưa ra lời kêu gọi tình nguyện tự do thương mại tới các thành viên APEC trên một số lĩnh vực then chốt như các loại sản phẩm nghề cá, sản phẩm nghề rừng, tạo môi trường thuận lợi cho việc trao đổi hàng hoá và dịch vụ, các thiết bị và sản phẩm y tế, các sản phẩm liên quan tới hoá chất, năng lượng, viễn thông, đồ trang sức và đồ chơi.
Văn kiện "Tầm nhìn thế kỷ XXI" ra đời, khẳng định những mối liên kết hiện tại cũng như trong tương lai giữa các thành viên và cam kết hợp tác trong 3 lĩnh vực trụ cột: Tự do hoá, thuận lợi hoá, hợp tác kinh tế kỹ thuật. Đẩy nhanh việc xác định những lĩnh vực sẽ được tự do hoá sớm hơn 2 năm so với mục tiêu Hội nghị Bogor.
6/ Hội nghị lần thứ 6 tại Kuala Lumpur (Malaysia, 17-18/11/1998)
Hội nghị Kuala Lumpur thông qua Tuyên bố "Củng cố những nền tảng cho sự tăng trưởng" khẳng định quyết tâm xây dựng một cộng đồng khu vực châu Á-Thái Bình Dương thịnh vượng, đảm bảo sự phát triển công bằng trong phát triển kinh tế của các nền kinh tế thành viên. Tuyên bố nhấn mạnh trọng tâm trong hoạt động của APEC năm 1998 là "xây dựng năng lực" để đối phó với những thách thức đang đặt ra cho khu vực.
Hội nghị kết nạp thêm 3 thành viên mới là Việt Nam, Nga và Peru vào tháng 11/1998, đưa tổng số thành viên lên 21 nền kinh tế, đồng thời quyết định tạm ngưng thời hạn xem xét kết nạp thành viên mới trong 10 năm.
7/ Hội nghị lần thứ 7 tại Auckland (New Zealand, 12-13/11/1999)
Hội nghị thông qua Tuyên bố chung ghi nhận những thành tựu của các nền kinh tế kể từ Hội nghị Cấp cao lần thứ 6, hoan nghênh những biện pháp cải cách mà các nền kinh tế bị tác động của cuộc khủng hoảng đã thực hiện. Tuyên bố cho rằng bảo đảm các thị trường vững mạnh và mở cửa là một cách hỗ trợ tăng trưởng, các chương trình tạo thuận lợi cho thương mại của APEC đã đem lại những lợi ích thực sự trong việc làm hài hoà các thủ tục hải quan, các tiêu chuẩn, trong việc tạo điều kiện dễ dàng cho sự đi lại của các doanh nghiệp.
Tuyên bố xác định tăng cường hợp tác kinh tế-kỹ thuật là yếu tố cơ bản để nâng cao mức sống trong nhân dân hướng tới sự thịnh vượng, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các nền kinh tế châu Á-Thái Bình Dương; cuộc khủng hoảng tài chính cho thấy rõ hơn tầm quan trọng của sự hợp tác xây dựng năng lực quản lý, việc trao đổi khoa học và công nghệ, phát triển cơ sở hạ tầng.
8/ Hội nghị lần thứ 8 tại Brunei (15-16/11/2000)
Hội nghị ra Tuyên bố chung thể hiện nguyện vọng của phần lớn các nhà lãnh đạo các nền kinh tế trong việc xây dựng các luật lệ kinh tế-thương mại mới, thiết lập môi trường thuận lợi hơn cho phát triển; đồng thời có tiếng nói quan trọng trong việc xác định rằng những luật lệ mới của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) phải đáp ứng lợi ích của các nước đang phát triển.
Tuyên bố ghi nhận cần có nỗ lực chung để cùng phát triển, khắc phục sự tụt hậu, thu hẹp khoảng cách giữa các thành viên, đặc biệt trong thời kỳ cách mạng thông tin ngày nay. Tuyên bố nêu bật những cơ hội mới đang mở ra cho sự phát triển của nền kinh tế thế giới và cho rằng APEC cần tăng cường hợp tác kinh tế kỹ thuật, tập trung vào các vấn đề phát triển nguồn nhân lực, đào tạo, chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm quản lý.
9/ Hội nghị lần thứ 9 tại Thượng Hải (Trung Quốc, 20-21/11/2001)
Hội nghị đã thông qua Tuyên bố chung và Tuyên bố Thượng Hải.
Trong Tuyên bố chung, các nhà lãnh đạo APEC cam kết chặn đứng suy thoái kinh tế và khôi phục lòng tin đối với người tiêu dùng bằng cách tham gia tích cực vào vòng đàm phán mới của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Ngoài ra, các vị lãnh đạo còn cam kết mở rộng tự do hoá thương mại và đầu tư.
Trong Tuyên bố Thượng Hải, các nhà lãnh đạo APEC nhấn mạnh đến xây dựng năng lượng và hợp tác tác kinh tế kỹ thuật; quyết định giảm 5% chi phí giao dịch và thương mại vào năm 2005.
10/ Hội nghị lần thứ 10 tại Los Caboss (Mexico, 26-27/10/2002)
Hội nghị thông qua một kế hoạch an ninh chung do Hoa Kỳ đề xuất, mang tên "Sáng kiến bảo đảm thương mại ở khu vực APEC" (STAR), nhằm thúc đẩy an ninh và tăng cường thương mại trong khối.
Theo STAR, các nền kinh tế APEC sẽ thực hiện các biện pháp cụ thể bao gồm: Đưa ra các thủ tục và các thiết bị soi hành lý mới tại tất cả các sân bay của thành viên APEC trước năm 2005; gia cố cửa buồng lái của các máy bay chở khách trước tháng 4-2003; xác định và kiểm tra các côngtennơ chở hàng đường biển có dấu hiệu nguy hiểm; cung cấp các thiết bị thông tin điện tử tiên tiến cho ngành hải quan, cảng biển và tàu biển; thực hiện các tiêu chuẩn chung về khai báo hải quan điện tử trước năm 2005; tăng cường các kế hoạch an ninh cảng biển và tàu biển trước tháng 7-2004; lắp đặt hệ thống nhận dạng tự động cho một số tàu biển nhất định trước năm 2004.
11/ Hội nghị lần thứ 11 tại Bangkok (Thái Lan, 20-21/10/2003)
Hội nghị đã ra Tuyên bố Băng Cốc về quan hệ “Đối tác vì tương lai”. Theo đó, các nhà lãnh đạo APEC nhất trí thúc đẩy quan hệ đối tác nhằm tiến tới tự do hóa, thuận lợi hóa thương mại và đầu tư, đồng thời bảo vệ người dân và cộng đồng trước nguy cơ đe dọa về an ninh và giúp cho nhân dân được hưởng lợi đầy đủ từ quá trình tự do hóa và mở cửa thương mại. Tuyên bố cũng thúc giục WTO khởi động lại cuộc đàm phán mới về thương mại toàn cầu sau sự sụp đổ của Hội nghị Cancun (Mexico).
12/ Hội nghị lần thứ 12 tại Santiago (Chile, 20-21/11/2004)
Hội nghị thông qua Tuyên bố chung, trong đó đề cập đến một số vấn đề cụ thể như chống khủng bố, thương mại, y tế, giá dầu mỏ và chống tham nhũng. Theo đó, khẳng định quyết tâm chống khủng bố; cam kết thực hiện thỏa thuận mới về thương mại toàn cầu được đưa ra đàm phán tại WTO; cam kết hợp tác chống sự lây lan của đại dịch AIDS; bày tỏ sự lo ngại trước việc giá dầu mỏ tăng cao và kêu gọi tăng năng suất hơn nữa trong lĩnh vực năng lượng; đồng thời kêu gọi nỗ lực chống tham nhũng.
13/ Hội nghị lần thứ 13, tại Busan (Hàn Quốc,18-19/11/2005)
Hội nghị đã thông qua Tuyên bố Busan (7 điểm); Tuyên bố riêng về Vòng đàm phán Doha của WTO; thông qua lộ trình Busan hướng tới thực hiện mục tiêu Bogo; khẳng định các cam kết trong các lĩnh vực chống khủng bố; đảm an toàn thương mại trong khu vực, an ninh y tế, đối phó với thiên tai và tình trạng khẩn cấp, an ninh năng lượng và các vấn đề như chống tham nhũng, đối thoại với cộng đồng doanh nghiệp, cải cách APEC.
14/ Hội nghị lần thứ 14 tại Hà Nội (Việt Nam 18-19/11/2006)
Hội nghị thông qua “Tuyên bố Hà Nội”, trong đó khẳng định sự nhất trí cao của các nhà lãnh đạo các nền kinh tế APEC về những kết quả của APEC 2006 và định hướng phát triển của APEC; ra Tuyên bố riêng về Vòng đàm phán Doha, trong đó khẳng định quyết tâm chính trị mạnh mẽ và nhấn mạnh một số biện pháp thiết thực nhằm sớm khởi động lại Vòng đàm phán;
Hội nghị đã phê chuẩn Chương trình Hành động Hà Nội nhằm thực hiện Lộ trình Busan, hướng đến mục tiêu Bogor;
Ngoài ra, Hội nghị còn thông qua các khuyến nghị cải cách APEC với nhiều biện pháp cụ thể nhằm làm cho APEC ngày càng có sức sống mạnh mẽ, năng động, hiệu quả hơn. Đây là kết quả hết sức có ý nghĩa đối với tương lai phát triển của APEC.
15/ Hội nghị lần thứ 15 tại Sydney (Australia, 8-9/9/2007)
Hội nghị đã thông qua Tuyên bố của Hội nghị cấp cao APEC 15, đề cập đến 5 vấn đề cụ thể có thể có tác động trực tiếp đến các mục tiêu của APEC, đó là: Biến đổi khí hậu; an ninh năng lượng và phát triển sạch; tầm quan trọng hàng đầu của Hệ thống thương mại đa biên, hội nhập kinh tế khu vực; tăng cường an ninh con người và củng cố APEC.
Ngoài ra, Tuyên bố của Hội nghị cấp cao APEC 15 cũng đề cập đến những nguy cơ và thách thức mới đối với con người và các nền kinh tế, như nguy cơ lây lan của chủ nghĩa khủng bố, dịch bệnh, ma tuý; khẳng định an ninh con người là nhân tố thiết yếu đối với tăng trưởng kinh tế và sự thịnh vượng.
16/ Hội nghị lần thứ 16 tại Lima (Peru, 22-23/11/2008)
Hội nghị đã ra Tuyên bố mang chủ đề "Một cam kết mới đối với sự phát triển của khu vực châu Á - Thái Bình Dương". Cùng với Tuyên bố Lima về kinh tế toàn cầu, Tuyên bố "Một cam kết mới đối với sự phát triển của khu vực châu Á - Thái Bình Dương" một lần nữa thể hiện quyết tâm mạnh mẽ của các nhà lãnh đạo APEC trong việc thúc đẩy hợp tác kinh tế, cải cách tài chính, thuận lợi hóa thương mại và đầu tư cũng như xây dựng một khu vực châu Á - Thái Bình Dương an toàn và phát triển ngày càng bền vững.
17/ Hội nghị lần thứ 17 tại Singapore (14-15/11/2009)
Với chủ đề “Duy trì tăng trưởng, kết nối khu vực”, Hội nghị đã thông qua hai Tuyên bố về “Duy trì tăng trưởng và kết nối khu vực” và “Mô hình tăng trưởng mới vì một khu vực châu Á - Thái Bình Dương kết nối trong thế kỷ XXI”, thể hiện quyết tâm mạnh mẽ duy trì tăng trưởng và chuẩn bị cho giai đoạn phục hồi kinh tế.
Trong Tuyên bố chung, các nhà lãnh đạo APEC khẳng định các nền kinh tế thành viên APEC sẽ hợp tác nhằm củng cố đà phát triển, hướng tới tăng trưởng kinh tế toàn cầu mạnh mẽ, bền vững và cân bằng. Cùng với đó, các nhà lãnh đạo APEC cũng thừa nhận sự cần thiết phải xây dựng mô hình tăng trưởng mới, phù hợp với sự đổi thay của cục diện thế giới sau khủng hoảng và một chương trình nghị sự về đầu tư-thương mại nhằm củng cố hội nhập kinh tế khu vực tại châu Á-Thái Bình Dương.
18/ Hội nghị lần thứ 18 tại Yokohama (Nhật Bản, 13-14/11/2010)
Với chủ đề “Đổi mới và Hành động”, Hội nghị đã định ra tầm nhìn cho hội nhập kinh tế khu vực trong bối cảnh có những thay đổi trong bức tranh kinh tế khu vực và toàn cầu. Hội nghị thông qua Tuyên bố “Tầm nhìn Yokohama - Mục tiêu Bogor và Tương lai”, cùng ba văn kiện kèm theo về “Tuyên bố đánh giá thực hiện các Mục tiêu Bogor”, “Chiến lược tăng trưởng của APEC” và “Biện pháp hướng tới Khu vực mậu dịch tự do châu Á - Thái Bình Dương”.
Với Tuyên bố “Tầm nhìn Yokohama - Mục tiêu Bogor và Tương lai”, Hội nghị cấp cao APEC-18 đã đạt được những kết quả hết sức có ý nghĩa, mở ra một chặng đường mới cho tiến trình hợp tác APEC trong những năm tới.
Hội nghị Cấp cao APEC lần thứ 19 diễn ra trong các ngày 12-13/11./.
Nguyễn Chiến
Cổng thông tin điện tử Chính phủ