Skip Ribbon Commands
Skip to main content
Ngày 19/09/2011-22:33:00 PM
AEC tương lai hợp tác kinh tế ASEAN
Là một trong 3 trụ cột của Cộng đồng ASEAN (Cộng đồng Kinh tế-AEC, Cộng đồng An ninh – Chính trị và Cộng đồng Văn hóa – Xã hội), sự hình thành của Cộng đồng Kinh tế ASEAN là kết quả của quá trình liên kết kinh tế, chính trị lâu dài của ASEAN. Ban đầu, ý tưởng thiết lập AEC chỉ là một hoạt động tiếp nối, mở rộng các cam kết tự do hóa mà ASEAN đã thực hiện trong khuôn khổ Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA) từ năm 1993.
Tuy nhiên, trước nguy cơ mất dần lợi thế cạnh tranh tương đối so với các nền kinh tế mới nổi khác trong khu vực, ngay từ năm 2003 ASEAN đã nỗ lực tìm kiếm một động lực phát triển mới dựa trên sự tập trung về lợi thế cạnh tranh của các thành viên thông qua các liên kết ngành. Chỉ khi ấy, thị trường 592 triệu dân và 1400 tỷ GDP của ASEAN mới thực sự tạo ra một thế mạnh chung. Năm 2004, ý tưởng này được hiện thực hóa một bước với việc Lãnh đạo các nước ASEAN nhất trí xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN vào năm 2020 (AEC) dựa trên kế hoạch kết nối 12 lĩnh vực ưu tiên mà ASEAN đã lợi thế cạnh tranh. Tiếp đó, tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 7, tháng 1 năm 2007 tại Cebu, Phi-lip-pin, các nhà Lãnh đạo ASEAN đã thông qua xây dựng Kế hoạch Tổng thể và Lộ trình Chiến lược thực hiện Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC). ASEAN nhất trí xây dựng một Lộ trình Chiến lược thực hiện Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) với các biện pháp chi tiết và một thể chế thực thi chặt chẽ, đồng thời đẩy nhanh mục tiêu hoàn thành thiết lập AEC vào năm 2015. Đây được xem là cột mốc quan trọng nhất kể từ năm 2002 sau khi ASEAN hoàn thành một bước Chương trình thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung để thực hiện Khu vực Thương mại tự do ASEAN (CEPT/AFTA).
Lộ trình chiến lược và Kế hoạch tổng thể thực hiện AEC đề cập nhiều biện pháp thuộc các lĩnh vực từ thuế quan, các biện pháp phi thuế, thủ tục hải quan, chính sách cạnh tranh, sở hữu trí tuệ, dịch vụ, đầu tư đến các vấn đề môi trường, lao động, phát triển nguồn nhân lực. AEC dựa trên 4 nhóm biện pháp trụ cột là: (1) Nhóm biện pháp để tạo lập một thị trường chung và không gian sản xuất thống nhất; (2) Nhóm biện pháp về nâng cao năng lực cạnh tranh của các khu vực, ngành kinh tế; (3) Nhóm các biện pháp tạo sự phát triển công bằng và đồng đều; và (4) Nhóm các biện pháp kết nối nền kinh tế ASEAN với bên ngoài.
Điểm đặc biệt trong cấu trúc xây dựng AEC là việc ASEAN sẽ chú trọng cả các biện pháp liên kết nội khối và các biện pháp hội nhập ASEAN với nền kinh tế toàn cầu. Cấu trúc này phản ánh một thực tế khách quan là ASEAN đã và đang và sẽ luôn tùy thuộc vào nền kinh tế khu vực và toàn cầu. AEC đang là tâm điểm giao thoa của các thỏa thuận thương mại song phương và đa phương khác mà ASEAN đang triển khai hoặc tham gia đàm phán như các thỏa thuận với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc, Niu-di-lân, Ấn Độ, EU, thậm chí là các nước thuộc Khối thị trường chung Nam Mỹ (Mercosur). Mong muốn của các nước ASEAN là đưa AEC trở thành “trung tâm” trong cấu trúc kinh tế khu vực và toàn cầu. Sự thịnh vượng của AEC chỉ thực sự vững chắc nếu như AEC tạo được mối liên kết hài hòa giữa hợp tác nội khối và giữa ASEAN với các đối tác ngoài khối.
Như vậy, AEC sẽ là một thị trường chung, một không gian sản xuất thống nhất, nhằm phát huy lợi thế chung của khu vực ASEAN, từng bước xây dựng một kinh tế mang tầm khu vực năng động, có tính cạnh tranh cao trên thế giới, đem lại sự thịnh vượng chung cho nhân dân và quốc gia ASEAN. Hàng hóa, dịch vụ, vốn, công nghệ và lao động có tay nghề sẽ được tự do lưu chuyển trong ASEAN mà không chịu bất cứ hàng rào hay sự phân biệt đối xử nào giữa các thành viên. Tác động tích cực của AEC sẽ là hệ quả của sự vận động khách quan của các chủ thể và yếu tố sản xuất trong nền kinh tế khu vực. Người tiêu dùng ASEAN sẽ có nhiều lựa chọn về hàng hóa và dịch vụ với giá cả thấp và chất lượng cao hơn. Thương mại nội khối có cơ hội phát triển. Các doanh nghiệp sẽ được hưởng lợi lớn nhờ phát huy hiệu quả từ quy mô để tăng năng suất và giảm chi phí sản xuất, dẫn tới giá cả hàng hóa cạnh tranh. Thương mại và đầu tư nội khối được tạo điều kiện thuận lợi để phát triển nhằm nâng cao năng lực sáng tạo, giải phóng tiềm năng sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, từ đó sản phẩm đa dạng hơn, chất lượng và hiệu quả cao hơn, có lợi cho người tiêu dùng. Điều mong đợi hơn cả là việc AEC có thể tạo nên sự liên kết chuỗi giữa các doanh nghiệp ASEAN, đóng góp vào tăng trưởng và thịnh vượng chung của khu vực. Cùng với sự di chuyển thuận lợi của lao động có tay nghề, AEC khuyến khích các lao động có chuyên môn trong ASEAN có thể đóng góp vào việc mở rộng tầng lớp trung lưu, giảm khoảng cách giàu nghèo, thúc đẩy ổn định xã hội, bên cạnh việc thúc đẩy việc thiết lập thị trường tiêu dùng với sức mua hàng hóa và dịch vụ. Như vậy, AEC không đơn thuần là tập hợp của hàng loạt cam kết tự do hóa mà được xây dựng dựa trên sự thống nhất, hài hòa cao độ về hệ thống tiêu chuẩn, quy trình quản lý hoạt động thương mại, đầu tư và khả năng điều phối chặt chẽ các chính sách vĩ mô giữa các thành viên.
Vai trò của Việt Nam trong việc thúc đẩy AEC
ASEAN là đối tác thương mại quan trọng hàng đầu của nước ta và là một trong những động lực quan trọng giúp nền kinh tế nước ta duy trì tốc độ tăng trưởng và xuất khẩu trong nhiều năm qua. Với lợi thế là một khu vực phát triển năng động, gần gũi về địa lý, quan hệ thương mại giữa Việt Nam và ASEAN có mức tăng trưởng cao. ASEAN hiện là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam, trên cả EU, Nhật Bản, Trung Quốc hay Hoa Kỳ. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN tăng từ 2,9 tỷ USD năm 2003 lên tới 8,9 tỷ USD năm 2009. Năm 2009, ta đã xuất khẩu sang Sing-ga-po, Thái Lan, Phil-lip-pin và Cam-pu-chia đều đã đạt trên 1 tỷ USD. Cơ cấu xuất khẩu của nước ta sang ASEAN đang chuyển biến theo chiều hướng tích cực, nâng cấp cả về chất lượng và giá trị. Từ những mặt hàng nông sản sơ chế và nguyên nhiên liệu như gạo, cà phê, cao su, dầu thô có hàm lượng chế tác thấp, ta đã xuất khẩu nhiều mặt hàng tiêu dùng, hàng công nghiệp như linh kiện máy tính, dệt may, nông sản chế biến, mỹ phẩm với giá trị cao và ổn định. Trong quan hệ về đầu tư trực tiếp nước ngoài, ASEAN là nguồn cung ứng FDI lớn nhất với 60 tỷ USD, đóng góp khoảng 56% tổng giá trị vốn FDI đầu tư vào Việt Nam.
Trong những năm qua, Việt Nam đã tích cực và chủ động tham gia xây dựng AEC. Đến năm 2010, nước ta đã giảm thuế nhập khẩu cho 10054 dòng thuế xuống mức 0-5% theo CEPT/AFTA, chiếm 97,8% số dòng thuế trong biểu thuế, trong đó có 5488 dòng thuế ở mức thuế suất 0%. Nước ta cũng tham gia hợp tác một cách toàn diện cùng các nước ASEAN khác từ các lĩnh vực truyền thống như thương mại hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, nông nghiệp, giao thông vận tải, viễn thông, đến các lĩnh vực mới như bảo hộ sở hữu trí tuệ, chính sách cạnh tranh, bảo vệ người tiêu dùng. Dù trình độ phát triển chưa bằng một số nước trong khu vực nhưng Việt Nam là một trong 4 thành viên ASEAN có tỷ lệ hoàn thành tốt nhất các cam kết trong Lộ trình tổng thể thực hiện AEC.
Đặc biệt, trong năm 2010, Việt Nam đã đảm nhiệm thành công vai trò Chủ tịch ASEAN. Chúng ta không chỉ tham gia với tức cách là một quốc gia thành viên mà còn tham gia dẫn dắt tiến trình hợp tác chung của ASEAN. Thực hiện AEC vẫn được Việt Nam lựa chọn là một nội dung quan trọng nhất trong Chương trình nghị sự của ASEAN trong năm 2010. Đặc biệt, ta đã cùng với các thành viên ASEAN đã thúc đẩy mạnh mẽ việc sớm khắc phục tình trạng chậm thực hiện của khả nhiều hiệp định quan trọng liên quan đến AEC. Ngày 1 tháng 5 năm 2010, sau gần 8 tháng chậm chễ, Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA) đã chính thức có hiệu lực. Gói cam kết thứ 7 trong khuôn khổ Hiệp định khung ASEAN về thương mại dịch vụ (AFAS) cũng đã được ký kết tại Hội nghị cấp cao ASEAN 17. Hiệp định đầu tư toàn diện ASEAN (ACIA) , Hiệp định đa phương về tự do hóa hoàn toàn vận tải hàng không, Hiệp định khung ASEAN về hàng quá cảnh… cũng đang trong quá trình rà soát lần cuối trước khi chính thức có hiệu lực.
Một hoạt động rất có ý nghĩa khi thiết lập AEC đó là việc thay đổi và nâng cao nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp và người dân ASEAN về AEC. Quảng bá về AEC và mở rộng đối thoại với doanh nghiệp về AEC sẽ có tác động tích cực đến lợi ích lâu dài của AEC với cộng đồng. Việt Nam là một trong những nước ASEAN đi đầu trong việc nâng cao quảng bá và thực thi một cách chủ động Chương trình truyền thông của ASEAN về AEC cả trên cấp độ quốc gia và khu vực. Theo Sáng kiến của Việt Nam, các nước ASEAN sẽ lần lượt tổ chức các diễn đàn thảo luận về hiệu quả của AEC đối với 12 lĩnh vực ưu tiên hội nhập. Với tư cách là nước điều phối thực hiện Lộ trình hội nhập nhanh trong lĩnh vực Lô-gis-tics, Việt Nam đã tổ chức thành Diễn đàn doanh nghiệp về dịch vụ Lô-gis-tics tại Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN vào tháng 8 năm 2010, Diễn đàn về hội nhập ngành điện tử trong ASEAN. Khuyến nghị từ các diễn đàn này đã được báo cáo lên các nước ASEAN.
Cộng đồng kinh tế ASEAN đang tạo ra những cơ hội và cả thách thức chưa có tiền lệ đối với nền kinh tế, doanh nghiệp và người dân nước ta. Nhưng thách thức và cơ hội luôn vận động, biến đổi rất nhanh trong bối cảnh hội nhập của khu vực. Chỉ với sự chung sức của cộng động, sự quan tâm thỏa đáng của nhà nước, AEC mới chắc chắn mang lại lợi ích đối với nền kinh tế Việt Nam./.

NCEIC

    Tổng số lượt xem: 5231
  •  

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)