Với 40 năm kinh nghiệm xây dựng đường cao tốc, các diễn giả Nhật Bản chia sẻ những mô hình xây dựng đường cao tốc hiệu quả và những khó khăn, bất cập trong việc phát triển loại đường giao thông này.
Ngày 20/8, tại Đà Nẵng, đã diễn ra Hội nghịlần thứ 5 Kế hoạch phát triển đường bộ cao tốc Việt Nam do Bộ Giao thông vận tải Việt Nam phối hợp cùng Bộ Đất đai, Cơ sở hạ tầng, Giao thông Vận tảivà Du lịch Nhật Bản tổ chức.
Tham dự cóThứ trưởng Thường trực Bộ Giao thông Vận tảiViệt Nam NgôThịnh Đức; Thứ trưởng phụtrách về các vấn đềkỹthuật BộĐấtđai, Cơ sở hạ tầng, Giao thông Vận tảivà Du lịch Nhật Bản Naoyoshi Sato; cùng gần 100 đại biểu là diễn giả, các doanh nghiệp cùng đại diện lãnh đạo hai bộ của Việt Nam và Nhật Bản.
Thực hiện Quyết định 1734/QĐ-TTg của Thủtướng Chính phủ ban hành ngày 1/12/2008 về việc phê duyệt Quy hoạch phát triển mạng lưới đường bộ cao tốc Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn sau năm 2020, Việt Nam sẽ có 39 tuyến đường bộ cao tốc quốc gia với tổng chiều dài 5.873 km với tổng mức đầu tư là 40,5 tỷ USD. Như vậy, vốn đầu tư cần cho đường bộ cao tốc là 70.000 tỷ đồng/năm.
Với nhu cầu nguồn vốn đầu tưcho Quy hoạch lớn, trong khi vốn ngân sách hạn chế. Do nhiều nguyên nhân, theo đánh giá của Bộ Giao thông vận tải, đến nay mới có 8/20 dự án có nguồn vốn đang thi công hoặc chuẩn bị khởi công trong năm 2011 – 2012.Việc đầu tưcho các dựánđường cao tốc theo hình thức BOT hiệu quảtài chính không cao, khócókhảnăng hoàn vốn trong khithu hútđầu tưtheo hình thức công –tư(PPP) được xem làhướng mởnhưng lại thiếu khung pháp lý.
Phía Nhật Bảnđãgiới thiệu kinh nghiệm thu phí đường bộ cao tốc ở Nhật để lấy nguồn làm vốn đầu tư xây dựng hạ tầng. Theo đó, vào năm 1966, bằng cách sử dụng hệ thống thu phí chung trên toàn quốc ở Nhật, nước này đã thi công được 200 km/năm. Đến năm 2010, tại Nhật đã có 9.855 km đường cao tốc trong mạng lưới đưa vào phục vụ.
Theo ông Shunji Hata –chuyên gia cao cấp về Quản lý, Vận hành vàBảo trìhệ thống đường cao tốc ở Việt Nam, việc ra đời CụcĐường cao tốc là việc cấp bách để quản lý các cơ quan (thi hành việc xây dựng và vận hành đường cao tốc) một cách hiệu quả, đảm bảo kế hoạch, tài chính, thiết kế và chất lượng của công trình được quản lý chặt chẽ, sát sao.
Chuyên gia này cũng chia sẻkinh nghiệm của Nhật Bản về quátrình điều khiển giao thông tại Nhật Bản theo phân luồng thông tin (camera, điện thoại khẩn, trạm quan sát, trung tâm điều khiển giao thông…) và hợp tác với các dịch vụ cứu thương, cứu hộ.
Đồng thời, ông cũng khuyến cáo về hệ thống biển báo đường bộ Việt Nam còn bất cập, làm các lái xe khó nhận biết. Tình trạng lái xe Việt Nam dừng đỗbất thường, chở quá tải trọng tại đường cao tốc cũng là một nguy cơ cần lưu tâm.
Các chuyên gia Nhật Bản cũng giới thiệu những hệ thống điều khiển giao thông thông minh (ITS) ở Nhật Bản và ứng dụng của ITS tại Việt Nam sẽ giúp quản lý tốt tình hình, diễn biến trên các tuyến đường cao tốc, hạn chế tai nạn đến mức thấp nhất.
Thứ trưởng Sato cho rằng, cùng với việc xúc tiến xây dựng phát triển hạtầng giao thông một cách bền vững, Việt Nam cần cótầm nhìn dài hạn hơn trong xây dựng cơ chế quản lý và cấp vốn có hiệu quả.
Thứ trưởng NgôThịnh Đứcghi nhận nhữngchia sẻ, bài học kinh nghiệm, góp ý từ phía các chuyên gia Nhật Bản. Thứ trưởng tin rằng, với hơn 40 năm kinh nghiệm xây dựng và quản lý đường cao tốc, những giúp đỡ của Nhật Bản sẽ giúp Việt Nam hình thành một mạng lưới đường cao tốc hiện đại, phục vụ cho công cuộc xây dựng đất nước, phát triển kinh tế xã hội.
Trước Hội nghịnày, hai bên đã tổ chức 4 Hội nghịtại HàNội và Tokyođểcùng thảo luận giải quyết những vướng mắc trong vấn đề triển khai đường bộ cao tốc tại Việt Nam./.
Hồng Hạnh
Cổng thông tin điện tử Chính phủ