(MPI) – Theo Báo cáo số 85/BC-TCTK ngày 28/6/2018 của Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong tháng 6/2018 kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt 19,60 tỷ USD, giảm 1,8%; kim ngạch hàng hóa nhập khẩu ước tính đạt 19,70 tỷ USD, giảm 5,1% so với tháng 5/2018.
Trong tháng 6/2018, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu khu vực kinh tế trong nước đạt 5,93 tỷ USD, giảm 1,3%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 13,67 tỷ USD, giảm 1,9%. Nhiều mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch giảm so với tháng 5/2018: Than đá giảm 40,5%, dầu thô giảm 18%, sắt thép giảm 14%, gạo giảm 13,1%, xơ sợi dệt giảm 11,8%, máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng giảm 10,8%, phương tiện vận tải và phụ tùng giảm 8,5%. Một số mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch tăng: Chè tăng 30,7%, xăng dầu tăng 23,5%, hóa chất tăng 11,6%, dệt may tăng 6,2%. So với cùng kỳ năm 2017, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 6/2018 tăng 9,9%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 15,8%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) tăng 7,6%. Một số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng so với cùng kỳ năm 2017: Máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng tăng 25,3%, điện tử, máy tính và linh kiện tăng 19,1%, gỗ và sản phẩm gỗ tăng 17,8%, giày dép tăng 11,6%, hàng dệt may tăng 5,8%.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2018, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt 113,93 tỷ USD, tăng 16% so với cùng kỳ năm 2017, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 33,07 tỷ USD, tăng 19,9%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 80,86 tỷ USD (chiếm 71% tổng kim ngạch xuất khẩu), tăng 14,5%. Loại trừ yếu tố giá, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tăng 15,2% so với cùng kỳ năm 2017. Có 20 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm tới 85,6% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực tiếp tục tăng khá so với cùng kỳ năm 2017: Điện thoại và linh kiện đạt 22,5 tỷ USD, tăng 15,4%, điện tử, máy tính và linh kiện đạt 13,5 tỷ USD, tăng 15,7%, hàng dệt may đạt 13,4 tỷ USD, tăng 13,8%, máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt hơn 7,8 tỷ USD, tăng 30,6%, giày dép đạt 7,8 tỷ USD, tăng 10,6%, phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 4,1 tỷ USD, tăng 20,5%, gỗ và sản phẩm gỗ đạt 4,1 tỷ USD, tăng 12,4%. Nhìn chung, tỷ trọng xuất khẩu của một số mặt hàng chủ lực chủ yếu vẫn thuộc về khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài, trong đó: Điện thoại và linh kiện chiếm 99,7%, điện tử, máy tính và linh kiện 95,4%, máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng 8 9,7%, hàng dệt may 60,6%. Bên cạnh đó, một số mặt hàng nông sản, thủy sản trong 6 tháng đầu năm 2018 cũng tăng khá: Thủy sản đạt hơn 3,9 tỷ USD, tăng 11%, rau quả đạt 2 tỷ USD, tăng 20,9%, gạo đạt 1,8 tỷ USD, tăng 44,3% (lượng tăng 26,2%), hạt điều đạt 1,7 tỷ USD, tăng 17,6% (lượng tăng 18%). Một số mặt hàng nông sản tuy lượng xuất khẩu tăng nhưng do giá xuất khẩu bình quân giảm nên kim ngạch giảm so với cùng kỳ năm 2017: Cà phê đạt 2 tỷ USD, giảm 6% (lượng tăng 9,6%), cao su đạt 819 triệu USD, giảm 8,2% (lượng tăng 16,6%), hạt tiêu đạt 457 triệu USD, giảm 35,7% (lượng tăng 5,9%). Riêng dầu thô tính chung 6 tháng tiếp tục giảm mạnh về cả lượng và kim ngạch xuất khẩu so với cùng kỳ năm 2017 mặc dù giá xuất khẩu bình quân tăng 37,3%: Kim ngạch xuất khẩu dầu thô đạt trên 1 tỷ USD, giảm 32,2% (lượng giảm 50,7%).
Về thị trường hàng hóa xuất khẩu 6 tháng đầu năm 2018, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 21,5 tỷ USD, tăng 9,2% so với cùng kỳ năm 2017, trong đó hàng dệt may tăng 9,9%, điện thoại và linh kiện tăng 8,6%. Tiếp đến là EU đạt 20,5 tỷ USD, tăng 12,3%, trong đó máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng tăng 27,5%, điện tử, máy tính và linh kiện tăng 16,6%, điện thoại và linh kiện tăng 16,5%. Trung Quốc đạt 16,6 tỷ USD, tăng 28%, trong đó điện thoại và linh kiện gấp hơn 3 lần cùng kỳ năm trước, điện tử, máy tính và linh kiện tăng 33%, rau quả tăng 20,1%. Thị trường ASEAN đạt 12,2 tỷ USD, tăng 17,4%, trong đó gạo tăng 244,1%, sắt thép tăng 51,2%, điện thoại và linh kiện tăng 9,2%. Nhật Bản đạt 9 tỷ USD, tăng 12,5%, trong đó hàng dệt may tăng 23,4%, máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng tăng 3,7%. Hàn Quốc đạt 8,6 tỷ USD, tăng 31,8%, trong đó điện tử, máy tính và linh kiện tăng 56,8%, điện thoại và linh kiện tăng 31,1%, hàng dệt may tăng 22,7%.
Trong tháng 6/2018, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu khu vực kinh tế trong nước đạt 8,30 tỷ USD, giảm 7,9%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 11,40 tỷ USD, giảm 3%. Kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng giảm so với tháng 5/2018: Điện tử, máy tính và linh kiện giảm 10%, tân dược giảm 27,8%, sản phẩm hoá chất giảm 50%. So với cùng kỳ năm 2017, kim ngạch nhập khẩu tháng 6 tăng 8,5%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 12,5%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 5,7%. Một số mặt hàng có kim ngạch tăng so với cùng kỳ năm 2017: Sắt thép tăng 47,8%, xăng dầu tăng 39,6%, vải tăng 28,7%.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2018, kim ngạch hàng hoá nhập khẩu ước tính đạt 111,22 tỷ USD, tăng 10% so với cùng kỳ năm 2017, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 46,01 tỷ USD, tăng 12,9%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 65,21 tỷ USD, tăng 8,1%. Nếu loại trừ yếu tố giá, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tăng 8,9% so với cùng kỳ năm 2017. Có 23 mặt hàng ước tính kim ngạch nhập khẩu đạt trên 1 tỷ USD, chiếm 82% tổng kim ngạch nhập khẩu. Nhiều mặt hàng phục vụ sản xuất, gia công, lắp ráp trong nước có kim ngạch tăng so với cùng kỳ năm 2017: Điện tử, máy tính và linh kiện đạt 19,7 tỷ USD, tăng 14,3%, vải đạt 6,4 tỷ USD, tăng 17,1%, sắt thép đạt 5 tỷ USD, tăng 8,3%, xăng dầu đạt 4,6 tỷ USD, tăng 38,8%...
Về thị trường hàng hóa nhập khẩu 6 tháng đầu năm 2018, Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 31,1 tỷ USD, tăng 15,6% so với cùng kỳ năm 2017, trong đó vải tăng 22,9%, điện thoại và linh kiện tăng 14,4%. Tiếp theo là thị trường Hàn Quốc với kim ngạch nhập khẩu đạt 22,5 tỷ USD, giảm 0,8%, trong đó điện thoại và linh kiện giảm 17,8%, máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng giảm 39,8%. ASEAN đạt 15,3 tỷ USD, tăng 11,8%, trong đó vải tăng 35,5%, xăng dầu tăng 28,6%, điện tử, máy tính và linh kiện tăng 8,6%. Nhật Bản đạt 8,8 tỷ USD, tăng 12,2%, trong đó điện tử, máy tính và linh kiện tăng 26%, sắt thép tăng 13,1%. EU đạt 6,4 tỷ USD, tăng 9,2%, trong đó hóa chất tăng 23,2%, tân dược tăng 6,7%. Hoa Kỳ đạt 5,6 tỷ USD, tăng 16,3%, trong đó thức ăn gia súc và nguyên phụ liệu tăng 86,5%, máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng tăng 6,6%, điện tử, máy tính và linh kiện tăng 2,9%.
Cán cân thương mại hàng hóa duy trì xuất siêu từ tháng 1 đến tháng 4 nhưng đã bắt đầu nhập siêu trong tháng 5 và tháng 6/2018. Cán cân thương mại hàng hóa thực hiện tháng 5 nhập siêu 814 triệu USD, tháng 6 ước tính nhập siêu 100 triệu USD. Tính chung 6 tháng đầu năm 2018 tiếp tục xuất siêu 2,71 tỷ USD, trong đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 12,94 tỷ USD, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 15,65 tỷ USD./.
Mai Phương
Bộ Kế hoạch và Đầu tư